Monday, June 9, 2025
Quán chiếu 50 Năm Khát Vọng Tự Do
Câu chuyện Phát triển Việt Nam trong buổi sơ khai
Khu chế xuất Tân Thuận
Tình đến năm 2025, cả nước có trên 400 Khu Công nghiệp – Khu sản xuất, nhưng có thể nói Khu chế xuất Tân Thuận (TTZ – Tân Thuận Export Processing Zone) là khu chế xuất đầu tiên của Việt Nam, được thành lập vào đầu thập niên 1990. TGĐ là KS Phan Chánh Dưỡng, một thành viên của Nhóm Thứ Sáu do Cố TT Võ Văn Kiệt thành lập ngay sau khi đất nước bắt đầu “mở cửa, đổi mới” sau năm 1986. Vào năm 2022, người viết có dịp trao đổi với anh tại Austin. Nhóm nầy là nhóm Cố vấn Khoa học Kỹ thuật cho VVK và Phan Văn Khải trong thời gian làm Thủ tướng. Cũng có thể nói tiền thân của Nhóm Thứ Sáu là những thành viên ban đầu từ Trung tâm Nghiên cứu sản xuất thử cho đến Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Thành phố.
Cũng có thể nói kết quả của tất cả sự kiện “phát triển” thành phố sau ngày 30/4/1975 tập hợp lại là … Khu chế xuất Tân Thuận qua một quá trình phát triển dai dẳng từ đó cho đến năm thành lập chánh thức là năm .2001.
Xin trích lại những lời đầu tiên trong quyển lưu niệm:”Mười Lăm Năm Nhóm Chuyên Viên Kinh Tế “Thứ Sáu”” dưới đây:
“Tiền thân của Nhóm: Thời kỳ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80, tình hình kinh tế xã hội ở miền Nam nói chung, và Tp HCM cực kỳ khó khăn. Sau hai đợt cải tạo, tình lực kinh tế của tp như kiệt quệ…”
Và, trang cuối của Tập lưu niệm có ghi:”Nhóm Thứ Sáu không chỉ có niềm vui mà cũng có lắm nỗi buồn: nỗi buồn thất chí, nỗi buồn bị oan ức, nỗi buồn trắng tay sau những lần góp phần xây dựng sự nghiệp nơi nầy hay nơi khác. Nhưng lớn hơn cả là nỗi buồn mất bạn”. Xin ghi lại để cùng chia xẻ những cơn “sóng gợn” trong giai đoạn 20 năm đầu tiên sau ngày “thống nhứt”.
Trở về Khu chế xuất Tân Thuận, đây là một bước ngoặt trong tiến trình đổi mới và mở cửa kinh tế của Việt Nam, đánh dấu sự chuyển hướng mạnh mẽ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự tham gia của các thành phần kinh tế tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài.
Bối cảnh thành lập
Sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi mới, với mục tiêu vực dậy nền kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Một trong những định hướng lớn là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cải cách thủ tục hành chính, và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng mô hình khu chế xuất – vốn đã thành công ở nhiều quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore – được xem là một giải pháp chiến lược.
Sự ra đời của Khu chế xuất Tân Thuận
Năm thành lập: 1991.
Địa điểm: Quận 7, TP. Hồ Chí Minh (khi đó còn là huyện Nhà Bè).
Diện tích ban đầu: Khoảng 300 ha.
Chủ đầu tư và phát triển hạ tầng: Công ty TNHH Tân Thuận (IPC – Investment and Industrial Development Corporation), một liên doanh giữa chính quyền TP.HCM và Tập đoàn Central Trading & Development (CT&D) của Đài Loan.
Đây là khu chế xuất đầu tiên được xây dựng theo mô hình hiện đại, với hạ tầng được đầu tư đồng bộ, thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài ngay từ những năm đầu.
Mục tiêu và Nhiệm vụ: Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý. Giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn lao động địa phương. Là nơi thử nghiệm mô hình quản lý kinh tế mới, từng bước hội nhập với kinh tế thế giới.
Tác động: TTZ đã góp phần đặt nền móng cho sự phát triển của các khu công nghiệp và khu chế xuất khác trên cả nước. Là hình mẫu thành công về thu hút FDI đầu tiên, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư quốc tế. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của TP.HCM và khu vực phía Nam theo hướng công nghiệp hóa.
Tính đến hiện tại, Khu chế xuất Tân Thuận (TTZ) vẫn là một trong những khu sản xuất và xuất khẩu năng động nhất tại TP. Hồ Chí Minh. Khu này không chỉ có vai trò lịch sử mà còn duy trì vị trí quan trọng trong hệ sinh thái công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Dưới đây là một số thông tin cập nhật về các ngành sản xuất chính, thành phẩm đặc trưng, và số lượng doanh nghiệp hoạt động trong TTZ:
Sản phẩm – Ngành nghề chánh tại TTZ
Điện – điện tử: Mạch in (PCB), linh kiện điện tử, thiết bị viễn thông -Thành phẩm tiêu biểu: board mạch cho điện thoại, laptop, máy công nghiệp - Doanh nghiệp tiêu biểu: Nidec (Nhật Bản), Furukawa, Juki, Sonion
Cơ khí chính xác và chế tạo thiết bị: Linh kiện máy móc, khuôn mẫu, bộ phận cho ngành ô tô và hàng không - Thành phẩm: trục quay, bánh răng, khung kim loại công nghiệp.
Dệt may – giày da xuất khẩu: - May mặc thời trang cao cấp, quần áo bảo hộ, giày thể thao - Khách hàng đầu cuối: Adidas, Nike, Puma…
Nhựa – Bao bì – In ấn công nghiệp: - Sản phẩm: bao bì đóng gói, khay nhựa định hình, tem nhãn xuất khẩu - Doanh nghiệp: các công ty Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Thực phẩm chế biến và đồ uống với quy mô nhỏ hơn so với các ngành khác: - Sản phẩm: nước giải khát, thực phẩm đóng gói, nguyên liệu nấu ăn.
Số lượng doanh nghiệp và nhà máy (ước tính gần nhất)
• Tổng số doanh nghiệp: hơn 190 công ty đang hoạt động (số liệu tham khảo từ Ban quản lý các Khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM – Hepza)
• Tỷ lệ doanh nghiệp FDI: khoảng 85% là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hoa Kỳ
• Lao động: Trên 60.000 lao động làm việc thường xuyên
• Diện tích sử dụng: TTZ hiện gần như đã lấp đầy 100% quỹ đất công nghiệp
Các nhà đầu tư tiêu biểu
• Nidec Sankyo (Nhật Bản) – sản xuất mô-tơ siêu nhỏ, servo motor
• Juki (Nhật) – thiết bị may công nghiệp
• Sonion (Đan Mạch) – linh kiện y tế và âm thanh siêu nhỏ
• Furukawa Automotive – dây điện ô tô, kết nối thiết bị
• Nanpao (Đài Loan) – hóa chất, keo công nghiệp
Dưới đây là danh sách một số doanh nghiệp đang hoạt động tại Khu chế xuất Tân Thuận (KCX Tân Thuận), phân loại theo ngành nghề chính:
Cơ khí – Cơ khí chính xác: - Công ty TNHH Công nghệ An Thịnh - Công ty TNHH Công nghiệp Á Châu.
Điện – Điện tử – Linh kiện: - Công ty TNHH M.K Science Việt Nam –
Công ty TNHH Công nghiệp Tempearl (Việt Nam) - Dệt may – May mặc: - Công ty TNHH Perfect Quality Industrial (VN) Công ty TNHH Proceeding.
Nhựa – Bao bì – Hóa chất: - Công ty TNHH D & Y Technology Việt Nam - Công ty TNHH Bao Bì Nhật Bản Việt Nam
Thực phẩm – Đóng gói: - Công ty TNHH Thực Phẩm Asuzac - Công ty TNHH Hatchando (Việt Nam).
Găng tay – Bảo hộ lao động: - Công ty TNHH Găng Tay Toàn Mỹ - Công ty TNHH Hợp Vũ (Việt Nam).
Phụ tùng ô tô – Xe đạp: - Công ty TNHH Mtex Việt Nam - Công ty TNHH Always.
Yếu điểm duy nhứt của Khu chế xuất Tân Thuận là … thiếu hệ thống thanh lọc khí, rắn, và lỏng. Đã có người đã từng đề nghị mô hình nhà máy thanh lọc phế thải lỏng với năng xuất 200.000 lít/ngày, nhưng đã bị từ chối vì …??? Vì vậy, tình trạng ô nhiễm vùng nầy rất trầm trọng và lan tràn đến khu gia cư sang trọng Phú Mỹ Hưng!
Thay lời kết
Hôm nay, nhìn lại quá khứ cách đây 34 năm, chúng ta cùng nhau nhìn lại một dấu mốc trọng đại trong hành trình phát triển kinh tế đất nước: sự kiện thành lập Khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, ở Thành phố Hồ Chí Minh. Câu hỏi được đặt ra là tại sao không là thủ đô Hà Nội? Câu hỏi được đặt ra vì biết rất rõ là, đối với những người thắng trận, bất cừ “cái gì nhứt” là phải ở thủ đo Hà Nội! Nhưng người viết dành câu trả lời cho từng tâm cảnh của mỗi người.
Trở lại Khu Chế Xuất Tân Thuận, trong bối cảnh đất nước vừa bước ra khỏi thời kỳ bao cấp, còn ngổn ngang khó khăn sau chiến tranh, việc thành lập một khu chế xuất theo mô hình kinh tế mở, hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài là một quyết định táo bạo, sáng tạo và đầy bản lĩnh. KCX Tân Thuận không chỉ mở ra hướng đi mới cho nền kinh tế Tp HCM, mà còn khẳng định năng lực nội tại và tiềm năng hội nhập của đất nước ta. Đây là nơi đầu tiên thực hiện thành công mô hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, áp dụng cơ chế quản lý năng động, cải cách thủ tục hành chính và xây dựng phát triển chiến lược với nhà đầu tư quốc tế đến Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Điểm đặc biệt nhứt là những thành phần chuyên viên, kỹ thuật viên, có thể nói gần như 100% là những kỹ sư, chuyên gia cũ của Việt Nam Cộng Hòa. Có lẽ chính vì vậy mà KCX Tân Thuận vẫn còn tồn tại và phát triển mạnh cho đến ngày hôm nay, 2025.
Kể từ đó, hàng trăm khu chế xuất, khu công nghiệp khác đã lần lượt được thành hình trên khắp cả nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo ra hàng triệu việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
Tân Thuận không chỉ là một khu chế xuất, mà là biểu tượng sống động của tinh thần cải cách, của tư duy hành động vì dân, vì nước, và “sự biết nhìn người” của Cố TT VVK. Sự thành công của Tân Thuận khẳng quyết được chân lý là khi chúng ta mạnh dạn đổi mới tư duy, biết đặt lợi ích dân tộc lên trên cả “vùng miền” hay “hào quang chiến thắng” thì nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi thử thách. Ngày hôm nay, một khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, với những đói hỏi cao hơn về phẩm chất tăng trưởng, về đổi mới sáng tạo, và phát triển bền vững, thì tinh thần Tân Thuận cần tiếp tục được kế thừa và phát huy mạnh mẽ.
Trong hơn 400 khu công nghiệp hiện có, trải dài từ Bắc chí Nam vẫn không thể nào so sánh được KCX Tân Thuận.
Vì sao?
Dứt khoát vì vấn đề nhân sự, vì tư duy quản lý xã hội chủ nghĩa, và nhứt là vì não trạng vẫn còn luôn vương vấn một chủ nghĩa không tưởng.
Chúng ta cần những quyết định dứt khoát hơn nữa trong việc cải cách thể chế, đào tạo nhân sự với phẩm chất cao, thu hút công nghệ tiến bộ, tạo niềm tin cho hơn 400.000 chất xám ở hải ngoại nhứt là ở Hoa Kỳ, và xây dựng một môi trường đầu tư thực sự minh bạch, công bằng và hiệu quả.
Khu chế xuất Tân Thuận là điểm khởi đầu, nhưng không phải điểm dừng. Sự phát triển của Việt Nam trong thế kỷ XXI đòi hỏi chúng ta không chỉ hài lòng với những thành tựu đã có, mà còn phải tiếp tục vươn xa, hội nhập sâu rộng, và vững vàng tiến bước trên con đường hiện đại hóa đất nước.
Mai Thanh Truyết
Quán chiếu 50 Khát vọng Tự do
Houston-Tháng Tư 2025
Trước hết, trong giai đoạn giao thời, mọi tiếp cận và đối thoại giữa người nắm quyền lực và giới chuyên viên của miền Nam còn nhiều cách ngăn và cản ngại. Cản ngại trong cung cách cư xử qua sự say men của kẻ chiến thắng. Từ đó, đa số giới chuyên viên không dám hay không muốn đề nghị một phương cách phát triển nào cả, mà chỉ “làm việc” trong tâm trạng thụ động và cầu an. Dĩ nhiên, vẫn còn có một số trí thức 30/4, cố ráng cầu cạnh để mong được “cấp trên” đoái hoài đến. Và họ đã lầm và đã phải trả một giá rất đắt là sự khinh bỉ của bè bạn khắp nơi.
Cũng vì là buổi giao thời và ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt Nam bị cấm vận cho nên nguồn nguyên vật liệu không còn nữa, cho việc sản xuất và phát triển các dự án không thể thực hiện được mặc dù quy trình sản xuất đều nằm trong khả năng và tầm tay của tầng lớp khoa học của VNCH cũ. Có hai lý do chánh dưới đây:
• Lớp cán bộ miền Bắc không tin tưởng thực sự những người làm khoa học trong Nam. Sự khác biệt về trình độ và nhận thức khoa học không theo kịp đà tiến bộ của thế giới khiến họ bị mặc cảm dù họ thuộc thành phần lãnh đạo.
• Tình hình an ninh trong nước thời bấy giờ dưới nhãn quan cộng sản, khiến cho họ cần tập trung tầng lớp trí thức khoa học để dễ kiểm soát hơn là thực sự khai thác khả năng của anh em trí thức trong Nam.
Trong những năm hoạt động đầu tiên nầy, Ủy ban đã có một tập hợp trí tuệ hơn 100 nhân sự tốt nghiệp ở Việt Nam (VNCH), Pháp, Úc, Đức, và Hoa Kỳ… và tuổi trung bình vào khoảng 30 đến 40, tuổi của sáng kiến, năng động và tinh thần đóng góp cao độ. Nếu so sánh với các thành quả thu hoạch được trong giai đoạn nầy có thể nói là không có “hiệu quả kinh tế” so với thành phẩm sản xuất. Lý do tâm lý có thể là lý do quan trọng nhứt trong cung cách cư xử giữa hai đối tác như đã kể trên mặc dù một số trí thức trẻ vẫn còn mang tinh thần tích cực trong đóng góp.
Câu hỏi được đặt ra là, với những điều kiện thuận lợi trong việc tập hợp ban đầu như thế, nhưng tại sao tầng lớp nầy lần lượt bỏ đi, không tiếp tục hợp tác với chế độ trong công cuộc phát triển Việt Nam?
Câu trả lời chung quy gồm các lý do có thể tóm lược sau đây:
• Điều kiện và các cơ sở vật chất là những cơ ngơi chiếm đoạt trong quá trình “đánh tư sản” hay được “dâng hiến”, do đó, không thích ứng cho bất cứ một dự án sản xuất nào cả vì thiếu máy móc và nguyên vật liệu.
• Thành phố không có chương trình hành động hay kế hoạch phát triển…ngoài việc thấy đâu làm đó. Lãnh đạo nghe “báo cáo” nơi nầy, nghe rĩ tai nơi nọ…rồi từ đó “chỉ thị” lên phương án làm việc. Các “chuyên viên” chế độ cũ từ đó mà …viết dự án, thiết kế nhà máy…nhưng tất cả chỉ trên giấy tờ…để có số liệu mà báo cáo lên…trung ương (?)
• Chính sách đãi ngộ đối với trí thức quá bạc bẽo nếu không nói là những lời khuyến dụ hào nhoáng bề ngoài không thuyết phục được họ, dù lãnh đạo các cấp của CS cố gắng đem tình tự quê hương để khêu gợi lòng yêu nước của họ.
• Trong số trí thức tập hợp được trong giai đoạn nầy, vẫn còn có nhiều anh chị có những suy nghĩ hết sức tích cực là cho dù người cộng sản mang đi các thành phẩm sản xuất được về Bắc, thì ít ra cũng còn lại một số ít để lại cho miền Nam dùng, may ra trong số ít người được hưởng đó có bà con mình. Ý tưởng tích cực đó, theo thời gian lần lần bị thui chột trong tâm trí những trí thức trẻ trên. Và quyết định sau cùng của họ là đành phải liều mạng bỏ nước ra đi dưới nhiều hình thức như vượt biên, vượt biển hay đi đoàn tụ nếu có điều kiện.
Còn bây giờ, sau gần 26 (tính mốc thời gian 1975-2001) năm rút kinh nghiệm, Ban Khoa học và Kỹ thuật Thành phố đã thực hiện được những gì ngoài những loại sản xuất … tiểu thủ công nghiệp!
Việt Nam cho đến nay vẫn theo chính sách phát triển Việt Nam trong cơ chế thị trường nhưng phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một cơ chế đã được cổ súy hàng 40 năm qua từ khi mở cửa, nhưng xin thưa, có thể nói một cách khẳng quyết rằng, ngay cả những người hoạch định chính sách ở cấp cao nhứt nước, vẫn không thể nào triển khai hay giải thích có tính cách thuyết phục cả. Điều đó có nghĩa là chính sách trên chỉ là sản phẩm của một số não trạng đã bị đóng băng trong kinh điển cộng sản nửa vời.
Vì vậy, Đất và Nước ngày hôm nay phải gánh chịu biết bao dự án bị bỏ dở nửa chừng hay dự án treo, hàng loạt “đại công ty”, đại doanh nghiệp quốc doanh như Vinashin, Cty Dầu khí, Điện lực, Hóa dầu Dung Quất, v.v…lần lượt khai phá sản hay thua lỗ… và để lại gánh nặng cho “Nhà nước”, chính là “cha đẻ” của những đại công ty trên!
Gần 40 năm mở của tiếp thu văn minh và kỹ thuật cùng công nghệ tân tiến trên khắp thế giới, đã tiếp nhận biết bao viện trợ khắp nơi, thế mà, Việt Nam vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Vì đâu nên nỗi!
Rốt ráo lại…không lời kết
Nhớ lại, dưới thời cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính sách cấm 14 ngành nghề mà người Trung Hoa không được nắm giữ trong đó có nhiều ngành dự phần vào việc phát triển kinh tế quốc gia.
Cấm cản nhưng không có chính sách thay thế cho nên kinh tế miền Nam trong giai đoạn nầy bị điêu đứng một thời gian. Cấm cản nhưng không giam cầm người Hoa.
Để đối lại, chính sách triệt hạ tư sản “mại bản” của những người nắm quyền bính ngay những ngày đầu sau 1975 tạo ra một sự khủng hoảng toàn diện. Đất nước kiệt quệ thậm chí người dân không đủ gạo để ăn! Và đại đa số những tư bản Tàu và Việt có khả năng “làm kinh tế” trong các dịch vụ sản xuất và phát triển quốc gia hầu hết đều bị cầm tù cho nên có thể nói, tất cả hệ thống phát triển kinh tế trong giai đoạn nầy đều bị khựng lại.
Sau cùng danh từ “thời kỳ quá độ” đã được rêu rao ầm ĩ trong những nằm đầu…đã đi vào quên lãng. Vì sao? Vì mãi đến hôm nay, 50 năm qua, chính sách phát triển Việt Nam cũng vẫn còn nằm trong…thời kỳ quá độ theo định nghĩa lúc ban đầu.
Phải chăng đây là một chính sách không văn bản nhằm mục đích “cào bằng” sự “giàu sang” của miền Nam ngang hàng với mức nghèo đói của miền Bắc?
Những sự kiện đã được nêu ra trên đây là lời người kể về những chuyện đã xảy ra vào 10 năm đầu tiên sau 30/4 cho đến những kế hoạch ngũ niên của Việt Nam. Hiện tại, sau gần 40 năm mở cửa tính từ năm 1986, tình trạng phát triển Việt Nam vẫn không thay đổi:
Phát triển có kế hoạch chỉ trên giấy tờ, nhưng trên thực tế là một sự phát triển…vô kế hoạch. Việt Nam vẫn không “tiêu hóa” được tinh thần của việc thiết lập khu chế xuất nhằm mục đích tiết kiệm năng lượng, tận dụng nguyên vật liệu, phó sản và phế phẩm để thực hiện một dây chuyền liên hoàn sản xuất, chứ nào phải đâu là nơi tập trung của một số nhà máy sản xuất “hổ lốn” như trong hơn 400 khu chế xuất hiện tại (2025) trên khắp miền đất nước.
Gánh nặng nhân sự của bộ máy quốc doanh làm trì trệ quốc gia và không phát triển bền vững được vì vẫn còn chính sách hồng hơn chuyên thể hiện đâu đó trong các dự án hay kế hoạch. Thí dụ như:” Ngày 19/4/2011, Quyết định 579/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020 có hiệu lực từ ngày ký có chi tiết như: Phấn đấu đến năm 2020 đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nguồn nhân lực là: tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 55%; Số sinh viên đại học – cao đẳng là 400 sinh viên/10.000 dân; Có hơn 10 trường dạy nghề và trên 04 trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Chỉ tiêu nâng cao thể lực nhân lực, phấn đấu tuổi thọ trung bình của lao động là 75 tuổi, chiều cao trung bình của thanh niên là 1,65m, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi nhỏ hơn 5%.” Kết cục rồi tới năm 2020, không có chỉ tiêu nào đạt kế hoạch cả sau 10 năm thực hiện.
Một người bạn trên FB, NQL góp ý:”Tôi ghét nhất là định hướng xhcn làm không được thì đưa ra con số ảo. Nhớ phong trào cơ khí hóa toàn "cuốc" do bộ chính trị phát động 1977. Ông tbt LD đặt ta chỉ tiêu sau 3 năm nhà nào cũng có ti vi tủ lạnh ...trâu bò thịt hết, máy hỏng và nhân dân phải dùng cuốc thay trâu. Đừng mất thời gian định hướng bao nhiêu doanh nghiệp nữa. Cứ để cho nó phát triển tự nhiên . Doanh nghiệp nào làm ăn đúng thì tồn tại còn gian dối bị loại. Nhà nước đứng vai trò cầm cân nảy mực. Những kẻ lợi dụng quyền chức vòi vĩnh phá phách hay chây ì khi doanh nghiệp kiến nghị thì bỏ tù hoặc bắn bỏ ngay. Luật doanh nghiệp phải minh bạch ổn định. Đừng làm kiểu thay đổi luật chơi khi cuộc chơi vẫn tiếp tục . Nếu làm vậy sợ gì không phát triển . Còn số lượng to hay nhỏ do thị trường quyết định!”
Rốt ráo lại, sau 50 năm “làm cách mạng”, CSBV đều hành nghề cách mạng một cách liên tục, không suy xiểng, bền bỉ, và vẫn áp dụng chuyên chính vô sản làm đầu trong việc quản lý đất nước, cũng như xem đó là… kim chỉ nam trong hành động. Mỗi khi một kế hoạch 5 năm chấm dứt, vẫn một khuôn sáo cũ, vẫn một Quyết nghị tăng trưởng đất nước hơn 5 - 10 lần hơn trước, mà cho đến nay đã 50 năm qua, gần 100 triệu người dân trong nước vẫn còn chật vật với chén cơm manh áo hằng ngày.
Đó chính là vấn đề của đảng CSBV. Vì,
• Phát triển không đi đôi và cân bằng với việc bảo vệ môi trường.
• Phát triển hoàn toàn tự phát, chồng chéo không có kế hoạch hay không thích hợp với điều kiện tài nguyên, nhân sự hiện có để rồi, từ quá khứ cho đến nay, 2025, có biết bao kế hoạch bị bỏ dỡ nửa chừng.
Xin chia xẻ lời nhận định của TS. Lê Đăng Doanh – chuyên gia kinh tế, từng là cố vấn chính phủ: “Chúng tôi muốn cải cách trong hòa bình. Tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với tự do và quyền con người. Nếu không, đó chỉ là thành tựu bề nổi và dễ sụp đổ."
Vì thế, kết quả sau cùng dành cho quê hương trong hiện tại là môi trường đã bị ô nhiễm có thể nói là không còn phương sách nào có thể cứu vãn được từ không khí, đất mặt, nguồn nước mặt và nước ngầm.
Tương lai Việt Nam sẽ đi về đâu nếu Đảng Cộng sản Bắc Việt vẫn còn tồn tại và không thay đổi cung cách “cai trị”?
Chỉ có dân chủ hóa mới có thể thay đổi được diện mạo của Đất và Nước Việt mà thôi!
Dân chủ hóa Việt Nam là một quá trình phức tạp và dài hạn, đòi hỏi sự chuyển hóa cả về thể chế chính trị, xã hội dân sự, ý thức công dân, và vai trò quốc tế. Dân chủ hóa không đơn thuần là đa đảng hay bầu cử tự do, mà là xây dựng một hệ thống thể chế bảo đảm quyền lực nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp và nhân dân, với:
• Tam quyền phân lập (lập pháp – hành pháp – tư pháp độc lập);
• Báo chí tự do, xã hội dân sự năng động;
• Bầu cử tự do, minh bạch;
• Tôn trọng nhân quyền, pháp quyền;
Con đường dân chủ hóa là khả thi nhưng cần kiên định và khôn ngoan.
Dân chủ hóa Việt Nam không thể áp đặt từ bên ngoài, cũng không thể đến chỉ bằng các tuyên ngôn, mà cần có: - Ý thức dân chủ từ dưới lên; - Cải cách thể chế từ trên xuống dưới; - Áp lực hợp lý từ bên ngoài; - Và nhứt là cần có một lực lượng dẫn dắt chuyển hóa, có lý tưởng, trí tuệ và khả năng tập hợp.
Như vậy,
Tuổi trẻ Việt hiện tại phải làm gì bây giờ?
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment