Sunday, September 8, 2024

Hóa chất trong Thực phẩm và Trái cây Việt Nam BTV Đỗ Hiếu phỏng vấn Mai Thanh Truyết trên Radio Á Châu Tự do – RFA Đỗ Hiếu: Trong các chương trình phát thanh trước, chúng tôi có đề cập đến một số hóa chất được thêm vào thực phẩm ở Việt Nam với mục đích không chính đáng để trục lợi và không cần để ý đến ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu thụ. Hôm nay Tiến sĩ Mai Thanh Truyết (Ts MTT) sẽ tiếp tục đưa ra những nhận định về vấn đề này trong cuộc trao đổi với chúng tôi. Ông Peter Navarro, cố vấn thương mại cho cựu Tổng Thống Donald J. Trump, người góp phần đưa ra kế hoạch lật ngược kết quả cuộc bầu cử năm 2020, bị kết án bốn tháng tù hôm Thứ Năm, 25 Tháng Giêng, vì bất chấp trát đòi từ Uỷ Ban 6 Tháng Giêng của Hạ Viện, theo nhật báo The New York Times. Cựu Cố Vấn Navarro, 74 tuổi, bị kết tội hồi Tháng Chín về hai tội khinh thường Quốc Hội. Chánh Án Amit P. Mehta bác lời bào chữa chính của ông Navarro rằng ông Trump đích thân chỉ đạo không hợp tác với trát đòi cũng như tin rằng mình được bảo vệ bởi đặc quyền hành pháp. Chánh Án Mehta tuyên bố: “Những từ ‘đặc quyền hành pháp’ không phải là những câu thần chú.” Vị quan tòa nhấn mạnh: “Không! Đó không phải là thẻ ra tù miễn phí.” Câu chuyện hóa chất và cuốn sách “Chết bởi Trung Cộng – Death by China” của TS Navarro biến thành một câu chuyện chính trị với cái giá 4 tháng tù cho Ông. Trước hết xin Ts MTT cho biết thêm về hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm như sodium benzoate? Mai Thanh Truyết: Thưa Anh, trong kỹ nghệ, sodium benzoate là một hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm để khỏi bị hư và có tính chống mốc. Hóa chất này sẽ giúp thực phẩm không bị đổi màu, giữ mùi nguyên thủy, và sau cùng bảo quản các thành phần cấu tạo sản phẩm cũng như không làm biến dạng. Công thức hóa học của sodium benzoate là NaO-C6H5. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm Hoa Kỳ - FDA, mức chấp nhận của hóa chất nầy trong thực phẩm là 0,1%. Và nồng độ có thể gây tử vong khi xâm nhập vào cơ thể là 2g/Kg/trọng lượng cơ thể. Hóa chất trên thường được dùng trong xì dầu, tương, chao và các loại nước chấm khác. Qua độc tính kể trên, chúng ta cần phải nói đến quá trình điều chế hóa chất trên. Theo quy trình sản xuất sodium benzoate, một phế phẩm độc hại là phenol luôn hiện diện trong thành phẩm. Do đó, sodium benzoate sau khi sản xuất cần phải khử phenol trước khi tung ra thị trường cho kỹ nghệ thực phẩm. Nếu không, nguy cơ bị nhiễm độc do phenol rất lớn, và hóa chất nầy ảnh hưởng đến hệ thần kinh, nhất là đối với trẻ em và thai nhi trong bụng mẹ khi bị tiếp nhiễm qua đường thực phẩm. Hiện tại hóa chất trên được nhập cảng từ TC và dĩ nhiên có chứa rất nhiều tạp chất như phenol. Vì vậy, cần phải xem xét xuất xứ của hóa chất trước khi đem áp dụng vào thực phẩm. Hỏi: Còn các hóa chất làm trắng trong thực phẩm có ảnh hưởng lên sức khỏe con người không thưa ông? Đáp: Anh muốn nói đến thuốc tẩy trắng chloride sodium hydrosufite. Hỏi: Đúng như vậy thưa Tiến sĩ. Đáp: Thưa Anh. Đây là một loại bột trắng, khi bị tiếp nhiễm qua đường khí quản, căn cứ theo Cơ quan Quyền lực Âu châu về An toàn Thực Phẩm (AESA), cơ thể con người sẽ cảm thấy bị khó thở và có thể bị nghẹt thở. Đôi khi bị ho rũ rượi. Sự hiện diện của nguyên tố chlor cũng là nguyên nhân của nguy cơ ung thư nếu bị tiếp nhiễm lâu dài. Trong kỹ nghệ thực phẩm, hóa chất nầy được dùng để làm trắng các sản phẩm để làm bắt mắt người tiêu dùng. Các sản phẩm được nhà sản xuất áp dụng tính chất nầy là: bánh tráng, các loại bột dưới dạng sợi như bánh canh, bánh hỏi, bún, miếng v.v… Một thí dụ điển hình là trước kia, bánh tráng sản xuất từ Việt Nam có màu ngà, và hay bị bể vì dòn. Trong thời gian sau nay, bánh tráng trở nên trắng phau, được cán mỏng, và đặc biệt rất dai, nhúng nước và cuốn không bị bể ra. Đó là do công lao của borax và chlorite sodium hydrosulfite. Hỏi: Còn các phẩm màu dự phần như thế nào trong thực phẩm thưa TS? Đáp: Trong thực phẩm, màu giữ một địa vị rất quan trọng. Nó làm cho sản phẩm bắt mắt hơn, gây chú ý cho người mua và gây ảnh hưởng tốt về phẩm chất của món hàng. Có hai loại màu: màu tổng hợp và màu thiên nhiên. Màu thiên nhiên được trích từ các mô của cây cỏ. Việc xử dụng loại màu nầy nảy sinh ra nhiều vấn đề như: màu không cố định có thể thay đổi hay biến dạng theo thời gian, nhiệt độ, ánh sáng, và nhất là có thể làm biến dạng phẩm chất của thực phẩm được nhuộm màu. Còn màu tổng hợp thường tan trong nước và ổn định hơn. Trên thị trường, màu tổng hợp có dưới dạng hạt, bột, dung dịch, hay dạng dẻo. Màu tổng hợp tác dụng với hydroxid nhôm Al(OH)3 để cho ra dung dịch gọi là hồ (lakes) sẵn sàng để nhuộm màu trong thực phẩm. Lợi điểm của màu tổng hợp là màu rất bền không bị tác dụng do thời gian, nhiệt độ hay ánh sáng. Các nhà sản xuất thực phẩm rất thích dùng loại màu tổng hợp nay. Chúng tôi xin đan cử ra hai màu căn bản là màu tartrazine có màu vàng và màu carmine màu đỏ ngã qua cam. Đứng về phương diện độc hại, màu rất nhạy cảm cho da, có thể làm nứt da, tạo ra những vảy nến, hay làm dị ứng cũng như nghẹt mũi căn cứ theo báo cáo của Ủy ban Khoa học Thực phẩm cho con người của EU (CSAH). Hỏi: Còn việc các hóa chất bảo vệ thực vật ảnh hưởng lên thực phẩm như thế nào thưa TS? Đáp: Đây là một vấn nạn lớn cho dân tộc, vì nó ảnh hưởng dài hạn lên nhiều thế hệ trong tương lai. Theo báo chí Việt Nam, các vụ ngộ độc chiếm đến 25% trên tổng số những trường hợp bị trúng thực. Điều nầy nói lên tính cách quan trọng của vấn đề. Xin hãy nghe tiếng nói của tác giả Liêu Tử ở Việt Nam: “Các bạn phải luôn đề cao cảnh giác, và nhớ luật nầy: các thứ rau, củ, quả, ngó thấy ngon chớ mà ham. Trái khổ qua, ngó như trái bị đèo thì hãy mua. Củ cải trắng, củ cà rốt cũng vậy. Người trồng trọt xứ mình chỉ ham trồng được rau củ quả to bự, cân có ký, bán có giá, mặc sức hóa chất tống vào trong đó”. Xin thưa, hóa chất tống vào đó chính là hóa chất bảo vệ thực vật tức là hóa chất diệt cỏ, trừ sâu rầy, trừ nấm mốc v.v… Các hoá chất diệt trừ cỏ dại nếu dùng liều lượng thích hợp sẽ biến thành các hóa chất “kích thích tố tăng trưởng”. Đó chính là lý do tại sau rau đậu, quả dưa, trái cà, thậm chí đếm cọng giá, cọng rau muống cũng to lớn, xanh mướt rất bắt mắt. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn, Trưởng phòng thí nghiệm Môi trường thuộc Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng I đã cho biết như sau:”Kết quả nhiều đợt phân tích cho thấy tất cả các loại hoa quả TC và cam Việt Nam đều có chứa thuốc diệt cỏ 2,4-D và 2,4,5-T. Đây là hai hóa chất cấu thành “chất độc da cam”, một loại thuốc diệt cỏ dại mà quân đội Hoa Kỳ dùng trong chiến dịch Ranch Hand để phun xịt các rừng rậm, nơi có Việt Cộng ẩn nấp trong chiên tranh Việt Nam. Hiện tại, các loại hóa chất nầy đang được nông dân xử dụng để bảo quản hoa quả. Trung tâm Thông tin và Chuyển giao Hà Giang đã chuyển đến chúng tôi (TS NQT) hai gói bột in chữ TC với hình ảnh quả hồng tươi rói. Qua phân tích chúng tôi tìm thấy nhiều hợp chất trong đó có hóa chất 2,4-D có hàm lượng đến 70%. Riêng gói thuốc diệt cỏ có nhãn hiệu màu xanh đậm còn tìm thấy hóa chất 2,4,5-T”. Các gói hóa chất nầy được bày bàn tự do ngoài thị trường ở Hà Nội và Tp Sài Gòn dưới giá khoảng 2.000 Đồng Việt Nam một gói độ 2g. Liền ngay khi kết quả trên được công bố, ngày 13/5/2004, ông Hoàng Thủy Tiến, Phó Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực Phẩm đã tuyên bố: “Các hóa chất bảo vệ thực vật 2,4-D và 2,4,5-T trong táo, mơ, trứng, sữa và các loại quả mọng khác có hàm lượng không quá 0,05 mg/kg hoa quả. Như vậy, lượng hóa chất độc hại tồn dư trong hoa quả vẫn dưới ngưỡng cữa cho phép. Người tiêu dùng không nên quá lo lắng”. Chúng tôi miễn bình luận về lời tuyên bố nầy vì không biết “ngưỡng cửa cho phép” của Việt Nam là bao nhiêu? Hỏi: Tiến sĩ vừa phác họa một hình ảnh rất tiêu cực trong thị trường thực phẩm, như vậy, trong hiện tại có hình ảnh tích cực nào trong lãnh vực thực phẩm ở Việt Nam hay không, thưa Ông? Đáp: Dạ có thưa anh. Gần đây nhất, vào ngày 29/9 vừa qua, Tổ chức Trợ giúp Hoa Kỳ (USAID) và Tổ chức Trợ Giúp Úc (AusAID) đã ký một bản thỏa hiệp với Viện Nghiên cứu Cây Ăn Quả Miền Nam nhằm mục đích phối hợp phát triển ngành sản xuất cây ăn trái qua dự án Ứng dụng Nông nghiệp Tốt (Good Agricultural Practices – GAP). Trong dự án nầy các doanh nghiệp và nông dân sản xuất cây trái sẽ được học hỏi đúng tiêu chuẩn bảo đảm an toàn sản phẩm theo quy trình vệ sinh và an toàn cho con người và môi trường dựa theo tiêu chuẩn thế giới. Hy vọng đây là một bước đầu để Việt Nam đi vào nề nếp trong sản xuất thực phẩm nhất là các sản phẩm dành cho xuất khẩu. Hỏi: Để kết thúc câu chuyện hóa chất trong thực phẩm và trái cây, Tiến sĩ nhận xét như thế nào về tình trạng chung hiện tại và ý kiến cá nhân của ông về việc giải quyết vấn nạn nầy? Đáp: Thưa Anh, việc người dân trong nước hoài nghi hầu hết những loại thực phẩm bày bán ở thị trường. Nhưng dù hoài nghi hay cẩn thận đến đâu đi nữa thì cũng phải tiêu thụ thực phẩm nầy. Ngoại trừ một thiểu số có nhiều tiền để có thể mua thực phẩm “an toàn” nhập cảng từ bên ngoài, thâm chí uống nước lọc nhập cảng luôn. Còn tuyệt đại đa số bà con vẫn phải chấp nhận và tiêu thụ nguồn thực phẩm làm từ trong nước cũng như phải dùng nguồn nước cung cấp từ Tổng công ty Cấp nước. Vì vậy, tình trạng trên cần phải được chấm dứt. Nếu không, nhiều hệ lụy không nhỏ sẽ xảy ra và đã xảy ra trong trường hợp các thực phẩm xuất cảng như xì dầu, cá basa, và tôm. Cá basa đã bị trả về vì dung lượng hóa chất fluoro-quinolones tồn tại trong cá, và mới đây nhất, tiểu bang Georgia đã khám phá ra thêm chất kháng sinh enrofloxacin trong cá nữa. Xì dầu bị trả về vì sự hiện diện của 3-MCPD. Còn tôm và một số thủy sản khác bị trả về vì chất kháng sinh chloramphenicol trước kia, nay lại bị trả vì sự hiện diện của nitrofuran, vì 3-amino-2-oxazole, vì semicarbazide. Riêng trong trường hợp tôm, Việt Nam đã bị Ngân hàng Thế giới cảnh báo vì đã dùng rhotenone, một độc chất có trong cây thuốc cá để thay thế chloramphenicol vì hóa chất nầy không nằm trong danh mục kiểm soát của Cơ quan FDA HK. Các hành động trên chứng tỏ rằng, nếu Việt Nam tiếp tục đi theo con đường nầy sẽ khó hội nhập vào cuộc chơi toàn cầu, vì nơi đây đòi hỏi một sự xuyên suốt về các thông tin an toàn thực phẩm trong trao đổi quốc tế. Để kết luận về các vấn nạn qua sự hiện diện của hóa chất trong thực phẩm và trái cây, chúng tôi có suy nghĩ như sau: Trước hết, cần phải xem lại cung cách quản lý của VN đối với công nghệ sản xuất xì dầu. Việt Nam không lý nào lại không quan tâm trong việc kiểm soát môi trường. Và một khi môi trường đã bị lạm dụng, tình trạng xáo trộn xã hội chắc chắn sẽ xảy ra qua sự phản kháng của người dân. Sau cùng, sự bất ổn chính trị sẽ kéo theo cùng với những bất trắc của quốc gia mà lãnh đạo VN sẽ khó tiên liệu được. Đã đến lúc Việt Nam cần phải chấp nhận thực tế nầy. Số lượng nạn nhân bị bình ung thư hang năm tăng dần (năm 2022 có trên 200.000 nạn nhân) và số tử vong vượt qua con số 50.000 năm 2022. Mai Thanh Truyết Hiệu đính 9/2024 Ghi chú: Thơ vui về hóa chất trong thực phẩm

Thursday, September 5, 2024

Dân tộc bản địa, hay còn gọi là các dân tộc nguyên thủy, là các nhóm người sống tại các khu vực mà họ đã sinh sống từ rất lâu trước khi các quốc gia hiện đại hình thành. Họ thường có các đặc điểm văn hóa, xã hội và kinh tế riêng biệt, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, và mối quan hệ đặc biệt với lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên của mình. Theo Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền của Các Dân Tộc Bản Địa (UNDRIP), dân tộc bản địa được định nghĩa dựa trên các yếu tố sau: 1. Tính Kế Thừa Văn Hóa: Họ có nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và hệ thống giá trị riêng biệt, thường khác biệt so với các nhóm dân cư chủ yếu trong quốc gia mà họ đang sống. 2. Liên Kết Với Lãnh Thổ: Họ có mối liên hệ lâu dài với các vùng đất và tài nguyên mà họ đã sống và quản lý trong một khoảng thời gian dài. 3. Tự Nhận Thức Về Danh Tính: Họ tự nhận mình là dân tộc bản địa và bị nhận diện bởi các thành viên trong cộng đồng quốc gia và quốc tế với tư cách là các nhóm dân tộc bản địa. 4. Sự Tồn Tại Đặc Thù: Họ thường phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bị ảnh hưởng bởi các chính sách và hành động của các chính phủ hoặc nhóm dân cư chính thống, ảnh hưởng đến quyền lợi và sự tồn tại của họ. Các dân tộc bản địa thường yêu cầu được công nhận quyền tự quyết, quyền bảo vệ văn hóa, và quyền đối với tài nguyên thiên nhiên mà họ phụ thuộc vào để duy trì lối sống và truyền thống của mình. Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền của Các Dân Tộc Bản Địa United Nations Declaration on the Rights of Indigenous Peoples - UNDRIP Được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 13 tháng 9 năm 2007, UNDRIP phác thảo các quyền cá nhân và tập thể của các dân tộc bản địa trên toàn thế giới. Nó nhấn mạnh: Quyền Tự Quyết: Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết và tự do xác định tình trạng chính trị của mình cũng như theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của họ. Quyền Văn Hóa: Họ có quyền thực hành và phục hồi các truyền thống và phong tục văn hóa của mình. Đất Đai và Tài Nguyên: Các dân tộc bản địa có quyền đối với các vùng đất, lãnh thổ và tài nguyên truyền thống của họ. Họ nên được tham vấn trước khi có bất kỳ quyết định nào có thể ảnh hưởng đến đất đai và tài nguyên của họ. Tham Gia: Họ có quyền tham gia vào các quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến họ, bao gồm cả các dự án quản trị và phát triển. Bảo Vệ Chống Phân Biệt Đối Xử: Các dân tộc bản địa có quyền được tự do khỏi sự phân biệt đối xử, và quyền của họ phải được bảo vệ. Giáo Dục: Họ có quyền tiếp cận giáo dục bằng ngôn ngữ và trong bối cảnh văn hóa của chính họ. Tuyên ngôn không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng đại diện cho tiêu chuẩn toàn cầu về bảo vệ quyền của các dân tộc bản địa. Nó khuyến khích các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp phù hợp với các nguyên tắc của nó và tôn trọng quyền của các dân tộc bản địa. United Nations Declaration on the Rights of Indigenous Peoples (UNDRIP) Adopted by the UN General Assembly on September 13, 2007, UNDRIP outlines the individual and collective rights of indigenous peoples around the world. It emphasizes: 1. Self-Determination: Indigenous peoples have the right to self-determination and to freely determine their political status and pursue their economic, social, and cultural development. 2. Cultural Rights: They have the right to practice and revitalize their cultural traditions and customs. 3. Land and Resources: Indigenous peoples have rights to their traditional lands, territories, and resources. They should be consulted before any decisions that might affect their lands and resources. 4. Participation: They have the right to participate in decision-making processes that affect them, including governance and development projects. 5. Protection Against Discrimination: Indigenous peoples are entitled to be free from discrimination, and their rights must be protected. 6. Education: They have the right to access education in their own languages and cultural contexts. The Declaration is not legally binding but represents a global standard for the protection of indigenous rights. It encourages member states to adopt measures in line with its principles and to respect the rights of indigenous peoples.

Thursday, August 22, 2024

Đất Hiếm: Một Thách Thức Của Trung Cộng Đối Với Hoa Kỳ Câu chuyện khủng hoảng đất hiếm bắt đầu từ năm 2010 qua sự dằn co giữa Trung Cộng và Nhật Bản. Các Công ty nhập cảng Nhật đã nỗ lực hạn chế để giảm tiêu thụ đất hiếm và sự phụ thuộc vào TC sau tranh chấp ngoại giao giữa hai nước năm 2010. Nhật Bản cáo buộc TC ngừng cung cấp đất hiếm vì lý do chính trị, khiến thế giới thừa nhận rủi ro khi phụ thuộc vào một nhà cung cấp. Đứng trước nguy cơ Trung Cộng có thể dễ dàng quyết định hạn chế xuất cảng đất hiếm một lần nữa với những hậu quả tai hại. Tính đến 2022, TC chiếm 63% sản lượng khai thác đất hiếm của thế giới, 85% chế biến đất hiếm và 92% sản lượng nam châm đất hiếm. Hợp kim đất hiếm và nam châm mà TC kiểm soát là những thành phần quan trọng trong tên lửa, súng cầm tay, radar và máy bay tàng hình. Nguy cơ phụ thuộc vào Bắc Kinh về các bộ phận này đã giảm bớt đáng kể vào tháng 9/2023, khi Ngủ Giác Đài đình chỉ việc giao F-35 trong khoảng một tháng sau khi phát hiện ra rằng một nam châm trong động cơ phản lực của máy bay phản lực được chế tạo bằng hợp kim coban và samarium đến từ TC. Najieb-Locke cho biết hợp kim này chỉ có nguồn gốc từ TC mà thôi, không truyền tải thông tin nhạy cảm hoặc gây nguy hiểm cho máy bay chiến đấu. Nhưng sự hiện diện của các vật liệu do TC sản xuất có thể đã vi phạm quy định mua lại quốc phòng mới của liên bang, do đó, yêu cầu các nhà thầu tiết lộ bất kỳ công việc nào ở TC trong một số hợp đồng quân sự. Quy tắc của DoD Mỹ nhằm khuyến khích ngành công nghiệp quốc phòng chỉ dựa vào các nhà thầu Mỹ. Trung Cộng có trữ lượng đất hiếm vào khoảng 44 triệu tấn, phần lớn tập trung tại khu vực Nội Mông, đứng nhất thế giới. Từ nhiều năm nay, nước này đã đẩy mạnh thăm dò, khai thác, xử lý và xuất khẩu đất hiếm, vừa để phục vụ nhu cầu phát triển của các ngành công nghiệp quốc nội, vừa để tự tạo cho mình một con bài chiến lược khi có thời điểm kiểm soát tới gần 90% nguồn cung đất hiếm toàn cầu. Có lẽ vì thế mà TC xử dụng đất hiếm để làm vũ khí phản công Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế công nghệ đang diễn ra ngày càng khốc liệt. Trong chuyến thăm Việt Nam để nâng cấp quan hệ song phương, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường khả năng thu hút các nhà đầu tư vào trữ lượng đất hiếm của Việt Nam. Khai thác đất hiếm đáng chú ý nằm trong số các dự án hợp tác được Washington và Hà Nội đồng ý trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam vào 10/9/2023 vừa qua. Một trong nhiều ký kết, hai bên đã ký bản ghi nhớ về tăng cường hợp tác kỹ thuật nhằm hỗ trợ Việt Nam nỗ lực định lượng tài nguyên đất hiếm và tiềm năng kinh tế, thu hút đầu tư có chất lượng để phát triển tổng hợp ngành đất hiếm. Việc khai thác đất hiếm trên thế giới bắt đầu từ thập niên 50 của thế kỷ trước, thoạt tiên là những cát chứa chất khoáng monazite trên các bãi biển. (Trong thời VNCH, Nhật mua rất nhiều cát ở miền Trung, nói là để làm kiếng xe, nhưng thật ra là mua “đất hiếm thô” để về tinh chế.) Vì monazite chứa nhiều thorium (Th) có tính phóng xạ ảnh hưởng đến môi trường nên việc khai thác bị hạn chế. Theo các chuyên gia, quá trình khai thác, chế biến đất hiếm phát sinh nhiều nguyên tố độc hại và có tính phóng xạ, do vậy nếu khai thác, chế biến đất hiếm không đúng quy trình kỹ thuật có thể gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và những hệ lụy về môi trường, sức khỏe của người dân xung quanh khu vực khai thác. Trữ lượng đất hiếm trên thế giới khoảng 87,7 triệu tấn (chưa qua tinh chế), tập trung vào các nước như: Trung Cộng (27 triệu tấn); Liên Xô trước đây (19 triệu tấn); Mỹ (13 triệu tấn), Australia (5,2 triệu tấn); Ấn Độ (1,1 triệu tấn), Canada (0,9 triệu tấn); Nam Phi (0,4 triệu tấn); Brazil (0,1 triệu tấn); các nước còn lại (21 triệu tấn). Nhu cầu hằng năm chỉ cần 125.000 tấn thì 700 năm nữa mới cạn kiệt loại khoáng sản này. (Có nhiều nguồn tài liệu khác, ước tính trữ lượng các nơi trên có thể khác nhau.) Hoa Ký, từ năm 1965, khai thác đất hiếm ở vùng núi Pass, Colorado - Mỹ. Đến năm 1983, Mỹ mất vị trí độc tôn khai thác vì nhiều nước đã phát hiện mỏ đất hiếm. Trong đó, ưu thế khai thác dần nghiêng về phía TC vì nước này đã phát hiện được nhiều mỏ đất hiếm. Đến năm 2004, vùng mỏ Bayan Obo của TC đã sản xuất đến 95.000 - 102.000 tấn đất hiếm. Trong khi Mỹ và các nước phương Tây khác đang cố gắng chấm dứt sự phụ thuộc vào đất hiếm của TC, Việt Nam lại có kế hoạch khởi động lại mỏ đất hiếm lớn nhất nước này cùng với một số mỏ đất hiếm khác vào năm 2024. Theo số liệu của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới nhưng phần lớn vẫn chưa được khai thác. Vì đất hiếm rất quan trọng đối với ngành bán dẫn nên Việt Nam có tiềm năng rất lớn để trở thành nước đóng vai trò chính trong ngành bán dẫn trong tương lai. Theo tin tức, Hoa Kỳ đã đồng ý giúp Việt Nam lập bản đồ tài nguyên đất hiếm tốt hơn và "thu hút đầu tư với phẩm chất cao", một động thái có thể khuyến khích các nhà đầu tư Mỹ đấu thầu. Kế hoạch trên sẽ liên quan đến việc vận chuyển đất hiếm do Công ty cổ phần Đất hiếm Việt Nam - VTRE, Chủ tịch, ông Lưu Anh Tuấn xuất cảng đất hiếm tinh chế sang Mỹ, và có thể đầu tư 200 triệu USD trong tương lai vào Việt Nam, theo nguồn tin từ tờ Reuters. VTRE xác nhận thỏa thuận vận chuyển đã được ký kết giữa hai bên. Kề từ đầu năm 2021, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) nay đã trao 19 triệu USD cho 13 dự án tại các cộng đồng sản xuất nhiên liệu hóa thạch truyền thống trên khắp đất nước để hỗ trợ sản xuất các nguyên tố đất hiếm và các khoáng chất quan trọng cần thiết cho việc sản xuất pin, nam châm và các thành phần quan trọng khác đối với nền kinh tế. nền kinh tế năng lượng sạch. Do đó, với tầm quan trọng và phức tạp do nhiều biến động hiện tại của thế giới, đất hiếm trở thành một thành tố dự phần trong cán cân quân sự toàn cầu. 1- Đất hiếm là gì - Công dụng của đất hiếm Kim loại đất hiếm là một nhóm gồm 17 nguyên tố: Lanthanum, Cerium, Praseodymium, Neodymium, Promethium, Samarium, Europium, Gadolinium, Terbium, Dysprosium, Holmium, Erbium, Thulium, Ytterbium, Lutetium, Scandium, Yttrium, hiện diện ở nồng độ thấp trong đất. Mặc dù có trữ lượng tương đối lớn, nhưng việc khai thác và tinh chế chúng rất phức tạp và tốn kém. Một thí dụ cụ thể của đất hiếm trong kỹ nghệ là nam châm làm từ đất hiếm đóng vai trò thiết yếu trong việc sản xuất xe điện, năng lượng sạch và rất quan trọng đối với an ninh quốc phòng của chúng ta. Loại nam châm nầy được xử dụng trong nghiên cứu vũ khí thế hệ tiếp theo cũng như máy bay phản lực F-35 của Lockheed Martin Corp (LMT.N) và đạn dẫn đường chính xác của Raytheon Technologies Corp (RTX.N). Lithium, một thành phần quan trọng được dùng để sản xuất pin xe điện, sẽ rất quan trọng đối với mục tiêu của Hoa Kỳ là chuyển đội xe đặc biệt không phát thải (một loại xe tàng hình). Từ điện thoại thông minh trong túi của bạn đến nam châm cung cấp năng lượng cho số lượng xe điện ngày càng tăng trên đường phố, các nguyên tố đất hiếm vẫn là một thành tố căn bản và cần thiết cho một số công nghệ được xử dụng phổ biến nhất hiện nay. Nhưng trong ba thập kỷ qua, Bắc Kinh đã nắm chặt chuỗi cung ứng đất hiếm của thế giới đến mức gần như tất cả nguyên liệu – bất kể chúng được khai thác ở đâu trên thế giới – đều phải chuyển đến TC để sàng lọc trước khi chúng có thể được xử dụng trong công nghệ. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, nước này kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu. 2- Đất hiếm ở Hoa Kỳ Thống kê và tin tức về cung, cầu và sự luân lưu trên toàn thế giới của nhóm khoáng sản đất hiếm - scandium, yttrium và lanthanides cho thấy nguồn kinh tế chính của đất hiếm là các khoáng chất bastnaesite, monazite, loparite và ion Laterit- đất sét hấp phụ (ion-adsorption). Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra hoạch hỗ trợ các nước phát triển nguồn khoáng sản như lithium, đồng và cobalt, nhằm giảm phụ thuộc vào TC về những khoáng sản quan trọng đối với ngành công nghiệp kỹ thuật cao.Trong thời gian gần đây, Washington quan ngại về việc phụ thuộc vào khoáng sản nhập khẩu sau khi có tin Bắc Kinh xem xét cắt giảm xuất khẩu đất hiếm sang Mỹ giữa lúc chiến tranh thương mại song phương leo thang. Các công ty quốc phòng Mỹ Raytheon và Lockheed Martin dùng đất hiếm trong hệ thống hướng dẫn và bộ cảm biến cho tên lửa. Đất hiếm cũng rất cần thiết cho những thiết bị quân sự quan trọng khác như động cơ máy bay, laser, và thiết bị nhìn xuyên đêm. Theo Reuters, 80% lượng đất hiếm nhập vào Mỹ trong giai đoạn 2014-2017 là từ TC trong khi hiện nay không có nhiều bên cung cấp khác có thể cạnh tranh với nước nầy. “Hơn 80% chuỗi cung cấp đất hiếm toàn cầu bị một nước kiểm soát. Việc dựa vào bất kỳ một nguồn nào làm gia tăng nguy cơ bị gián đoạn về nguồn cung”, Bộ Ngoại giao Mỹ cảnh báo trong tài liệu về kế hoạch hỗ trợ các nước phát triển khoáng sản, được gọi là Sáng kiến quản lý nguồn năng lượng. Theo kế hoạch, Mỹ sẽ chia sẻ kỹ thuật khai thác nhằm hỗ trợ phát hiện và phát triển nguồn khoáng sản cũng như tư vấn cách quản lý nhằm đảm bảo ngành công nghiệp của các nước hấp dẫn đối với giới đầu tư quốc tế. Bước đi này được kỳ vọng sẽ giúp đảm bảo nguồn cung khoáng sản toàn cầu có thể đáp ứng nhu cầu của thế giới. Nhu cầu về khoáng sản năng lượng thiết yếu có thể gia tăng gần 1.000% vào năm 2050, theo ước tính của giới chuyên gia. Ở Bắc Mỹ, nguồn tài nguyên đất hiếm được đo lường và chỉ ra ước tính bao gồm 2,4 triệu tấn ở Hoa Kỳ và hơn 15 triệu tấn ở Canada. Bao nhiêu phần trăm đất hiếm được khai thác ở Hoa Kỳ? Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, nước này kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu. Mỹ nhập khẩu bao nhiêu nguyên tố đất hiếm? Hoa Kỳ nhập khẩu ròng 100% vào các nguyên tố đất hiếm trong năm 2018, nhập khẩu ước tính khoảng 11.130 tấn hợp chất và kim loại trị giá 160 triệu USD. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, 80% lượng hàng nhập khẩu đó có nguồn gốc từ TC. Mỹ đang thắng thế về đất hiếm? Cuộc cạnh tranh toàn cầu về các khoáng sản quan trọng đang nóng lên và Mỹ chưa giành được chiến thắng. Trong số các khoáng sản quan trọng này có một tập hợp con được gọi là các nguyên tố đất hiếm (Rare Earth Element-REE), rất quan trọng đối với mọi hoạt động từ quá trình chuyển đổi năng lượng sang kỹ nghệ quốc phòng. Vào ngày 4 tháng 3, Tesla TSLA +6,2% đã công bố hợp tác với một mỏ niken ở New Caledonia. Trước kia, Mỏ Mountain Pass của California là cơ sở đất hiếm duy nhất đang hoạt động của Hoa Kỳ. Nhưng Cty MP Materials mua lại mỏ Mountain Pass, quyết định, thay vì tinh chế, lại cho vận chuyển khoảng 50.000 tấn đất hiếm cô đặc mà họ khai thác mỗi năm từ California đến TC để chế biến. TC đã áp đặt mức thuế 25% đối với những mặt hàng nhập khẩu đó trong cuộc chiến thương mại. Hiện tại, Mỏ Mountain Pass, CA hoạt động trở lại vào năm 2012 sau nhiều năm ngừng hoạt động, ngày nay, 2020 cung cấp khoảng 15% sản lượng đất hiếm của thế giới, một nhóm gồm 17 khoáng chất được sử dụng để chế tạo nam châm trong công nghệ thương mại và quân sự tiên tiến nhất của Mỹ, từ xe điện. cho các tàu ngầm tấn công lớp Virginia. Mountain Pass của California, một trong những mỏ lớn nhất thế giới, nơi sản xuất 43.000 tấn REO vào năm 2022, theo USGS. Nhưng trong vòng ba thập niên qua, Bắc Kinh đã nắm chặt chuỗi cung ứng đất hiếm của thế giới đến mức gần như tất cả nguyên liệu – bất kể chúng được khai thác ở đâu trên thế giới – đều phải chuyển đến TC để sàng lọc trước khi chúng có thể được xử dụng trong công nghệ. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, TC kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu. Đây là một vấn đề gây ra lỗ hổng lớn trong chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ và gây ra những rủi ro an ninh quốc gia tiềm ẩn, xét đến mối quan hệ căng thẳng của Washington với Bắc Kinh. Khi tín hiệu nhu cầu về công nghệ dựa trên các yếu tố này được dự đoán sẽ tăng vọt, cả ngành công nghiệp và chính phủ đều đang đầu tư vào các phương pháp nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng đất hiếm trong nước. Mặc dù được dán nhãn là “hiếm”, nhưng 17 nguyên tố khác nhau được gọi là đất hiếm lại tương đối dồi dào trong lớp vỏ Trái đất. Chính quyền Biden coi chúng là một trong những vật liệu và khoáng sản chiến lược và quan trọng để xử dụng trong một số công nghệ thương mại và quốc phòng hiện đại - bao gồm điện thoại thông minh, thiết bị y tế và nam châm chuyên dụng cao được dùng trong xe điện, máy bay chiến đấu phản lực và máy bay không người lái. Nhưng do đặc tính hóa học của các nguyên tố đất hiếm gần như không thể phân biệt được với nhau nên việc tách và tinh chế riêng lẻ chúng để có thể xử dụng chế tạo nam châm và các công nghệ khác là một quá trình phức tạp, Linda Chrisey, giám đốc chương trình tại Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến, cho biết. “Hai nguyên tố đất hiếm khác nhau có thể là những phần nhỏ của một angstrom có đường kính khác nhau - điều đó có nghĩa là rất khó phân tách bằng các phương pháp vật lý. Các quy trình hiện đang được áp dụng… có thể gồm 100 bước”, Chrisey cho biết, đồng thời lưu ý rằng quy trình này có thể rất tốn kém và nguy hiểm cho môi trường do các hóa chất được dùng để tách và tinh chế kim loại. Bà nói thêm: “Đây là tất cả những lý do khiến việc duy trì kiểu hoạt động đó ở Hoa Kỳ trở nên khó khăn”. Tuy nhiên, trên đỉnh núi ở sa mạc Mojave tại mỏ đất hiếm lớn nhất nước Mỹ, MP Materials đang cố gắng đảo ngược xu hướng đó. Với quy mô và năng lực cơ sở vật chất của mình, MP Materials đang cố gắng trở thành “nhà vô địch về nam châm” ở Tây bán cầu, Matt Sletcher, phó chủ tịch cấp cao về truyền thông và chính sách của MP Materials cho biết. Ông nói: “Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là xây dựng một chuỗi cung ứng từ tính hoàn chỉnh và chúng tôi muốn có thể sản xuất tất cả các vật liệu cần thiết và tái chế những vật liệu cần thiết để có được chuỗi cung ứng từ tính đó”. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, kể từ khi mua lại mỏ Mountain Pass vào năm 2017, MP Materials đã khôi phục hoạt động sản xuất các nguyên tố đất hiếm tại địa điểm này và tạo ra hỗn hợp đất hiếm cô đặc, đóng góp khoảng 15% lượng khoáng chất đất hiếm được tiêu thụ mỗi năm. Và chẳng bao lâu nữa, MP Materials sẽ không còn phải vận chuyển hỗn hợp này ra nước ngoài tới TC để thực hiện quá trình tách và tinh chế các nguyên tố đất hiếm kéo dài. Sau hai năm xây dựng, công ty đã thông báo vào tháng 11, 2019 rằng họ sắp mở cơ sở tinh chế đất hiếm đầu tiên ở Hoa Kỳ tại cơ sở Mountain Pass. Đầu tiên, họ phải vận hành tài sản cho cơ sở mới cho giai đoạn sản xuất thứ hai, đây là một quá trình kiểm tra sức chịu đựng của thiết bị của cơ sở để đảm bảo nó hoạt động theo tốc độ được thiết kế, Slestcher cho biết trong chuyến thăm công trình đang diễn ra tại nhà máy cho biết thủ tục này sẽ diễn ra trong suốt năm 2023. Ông giải thích, giai đoạn sản xuất thứ hai bắt đầu bằng quá trình sấy khô, rang, lọc và tinh chế hỗn hợp đất hiếm cô đặc. Sau đó, đất hiếm được đưa vào một trong những bể chứa cao chót vót nằm trong một tòa nhà dài hơn một sân bóng đá Mỹ. Ông cho biết, trong những thùng này, quy trình chiết dung môi sẽ tách hỗn hợp thành các oxit đất hiếm riêng lẻ. Mặc dù đây chỉ là một cơ sở sàng lọc đang cạnh tranh với nhiều cơ sở ở TC, nhưng việc khai trương cơ sở này đánh dấu một bước quan trọng trong nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm giải quyết chuỗi cung ứng đất hiếm dễ bị tổn thương. Theo thông cáo báo chí của Ngũ Giác Đài, vào năm 2020, Bộ Quốc phòng đã đầu tư 10 triệu USD vào dự án trị giá 200 triệu USD này. Sletcher lưu ý, MP Materials sẽ tập trung vào việc tinh chế hợp chất neodymium và praseodymium - một trong những vật liệu phổ biến nhất được dùng để chế tạo nam châm đất hiếm - cũng như lanthanum và xerium. Những nguyên tố này được phân loại là “đất hiếm nhẹ”. Chính phủ cũng đang thúc đẩy sản xuất trong nước “đất hiếm nặng”, loại đất khó tinh chế hơn nhưng cũng được sử dụng để chế tạo nam châm chuyên dụng hơn. Ví dụ, terbium và dysprosium đất hiếm nặng cần thiết để tạo ra nam châm vĩnh cửu đất hiếm có thể hoạt động ở nhiệt độ cao, trong khi samarium được dùng để sản xuất nam châm samarium-coban được dùng trong các ứng dụng hàng không vũ trụ và quốc phòng. Bộ Quốc phòng đã trao cho MP Materials một hợp đồng trị giá 35 triệu USD vào tháng 2 năm 2022 để xây dựng một cơ sở được thiết kế đặc biệt để xử lý các nguyên tố đất hiếm nặng tại mỏ Mountain Pass. Sletcher cho biết đất hiếm nặng sẽ được tinh chế ở một tòa nhà khác và nói thêm rằng dự án chỉ mới bắt đầu. Để thuần hóa hoàn toàn chuỗi cung ứng nam châm, MP Materials cũng đã bắt đầu xây dựng nhà máy từ tính đất hiếm đầu tiên của Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2022. Tọa lạc tại Fort Worth, Texas, cơ sở này sẽ có thể sản xuất khoảng 1.000 tấn neodymium-sắt hàng năm. Theo công ty, nam châm boron từ các nguyên tố đất hiếm được khai thác và tinh chế tại các cơ sở của Mountain Pass. Sletcher lưu ý rằng do thị trường quốc phòng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nhu cầu về đất hiếm của Hoa Kỳ - khoảng 5% - nên công ty đang tìm cách giải quyết các nhu cầu trong ngành thương mại trước tiên. Theo báo cáo của công ty nghiên cứu độc lập Adamas Intelligence, nhu cầu toàn cầu về oxit đất hiếm được dự báo sẽ tăng gấp ba lần từ 15 tỷ USD vào năm 2022 lên 46 tỷ USD vào năm 2035. Đất hiếm hiện tập trung nhiều nơi ở Hoa Kỳ và hiện đang được khai thác ở: North Dakota, West Virginia, Appalachian Basin — North (Kentucky, Maryland, Ohio, Pennsylvania and West Virginia), Appalachian Basin — Central (Kentucky, Tennessee, Virginia and West Virginia), Appalachian Basin — South (Alabama, Georgia and Tennessee), San Juan River-Raton-Black Mesa Basin (Arizona, Colorado and New Mexico), Illinois Basin (Kentucky, Illinois, Indiana and Tennessee), Williston Basin (Montana, North Dakota and South Dakota), Powder River Basin (Montana and Wyoming), Uinta River Basin (Colorado and Utah): University of Utah (Salt Lake City, Utah), Green River — Wind River Basin (Colorado and Wyoming), Gulf Coast Basin (Alabama, Arkansas, Georgia, Louisiana, Mississippi and Texas), Alaska (Alaska): University of Alaska Fairbanks (Fairbanks, Alaska) 3- Kết luận Tại hội nghị thượng đỉnh các nước G7 ở Hiroshima, Nhật từ 19 đến 21 tháng 5, 2023, bà Ursula von der Leyen, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu (EC) , đã nhấn mạnh cần phải hợp tác với những đối tác và các quốc gia có tầm nhìn chung để “giảm thiểu sự phụ thuộc của chúng ta vào Trung Cộng” ở một số lĩnh vực then chốt, trong đó có đất hiếm. Ngày 18/5/2023, Bộ Tài nguyên của Australia, là khách mời tham dự G7 tương tự như Việt Nam, đã ra thông báo chính sách tài trợ cho ngành khai thác mỏ, trong đó có chiến lược khai thác đất hiếm, nhằm giảm thiểu các rủi ro về chủ quyền và tăng cường năng lực cho chuỗi cung ứng của các lĩnh vực sản xuất. Trong thời đại của nền kinh tế công nghệ cao cấp, các nguyên tố đất hiếm có mặt khắp mọi sản phẩm công nghiệp như xe hơi, điện thoại di động, vệ tinh, động cơ, tên lửa dẫn đường bằng tia laser, một số linh kiện dùng trong kỹ nghệ tình báo và quân sự như trong động cơ và các thiết bị điện tử của mỗi chiếc máy bay chiến đấu F-35 Lightning II thế hệ mới nhất của Hoa Kỳ có khoảng 450 kg nguyên tố đất hiếm và dĩ nhiên, không cần công bố chi tiết chính xác … Khai thác đất hiếm và công cuộc bảo vệ môi trường trong quá trình tinh chế đất hiếm đòi hỏi các kỹ năng khoa học kỹ thuật cao và cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Từ một nguồn đất thô và phải qua nhiều giai đoạn tinh lọc, tinh chế…, phát thải một số lượng quá lớn phế thải độc hại lỏng, rắn, và khí. Các công ty Hoa Kỳ, chỉ vì chú trọng vào hiệu quả kinh tế hơn vấn đề an ninh quốc phòng, cho nên trước một phí tổn rất lớn do EPA quy định trong việc thanh lọc phế thải, người Mỹ đã từng ngủ một giấc ngủ dài trong việc tinh chế các đất hiếm nầy. Ngược lại, TC với quyết tâm đại hán, muốn trở thành bá chủ toàn cầu, vì vậy họ xem nhẹ việc bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn sống của hơn 1,4 tỷ người Tàu nhằm sản xuất đất hiếm và làm ngơ việc thanh lọc phế thải lỏng. Nên nhớ, sản xuất chỉ 1kg đất hiếm, phát thải ra hàng chục ngàn lít phế thải lỏng độc hại…cần phải thanh lọc. Cuộc chiến về đất hiếm giữa TC và Mỹ đang lần lần được cân bằng sau cuộc chiến cấm vận của Hoa Kỳ và TC, cũng như thương chiến về đất hiếm khơi nguồn từ tranh chấp giữa Nhật và TC năm 2010. Vấn đề là, đất hiếm một khi đã được tinh luyện rồi cần phải…được dùng để sản xuất những sản phẩm “công nghệ tối tân” nhằm phục vụ trong công kỹ nghệ quốc phòng, y tế, không gian v.v…chứ không nhằm để xuất cảng như hầu hết đất hiếm của TC. Và, về điểm trên, Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế, vì TC không đủ khả năng để chạy theo các tiến bộ khoa học - kỹ thuật của HK. Nên nhớ, dưới thời TT Reagan, chì vì chạy theo chính sách không gian của Mỹ, mà Liên Sô bị hụt hơi và “tự” bứt từ vào năm 1991. Và cũng cần nên nhớ, tuy Trung Cộng được xem như một nhà máy cung ứng cho toàn cầu …với giá rẻ, nhưng chưa bao giờ có đủ linh kiện “tự sáng chế” để hoàn tất 100% một sản phẩm cao cấp nào cả, từ những mặt hàng công nghệ tiêu dùng hay trong lãnh vực quân sự hoặc quốc phòng hay không gian! Sẽ còn lâu lắm Trung Cộng mới có khả năng đuổi kịp thế giới tự do. Có chăng là Trung Cộng sẽ bị xẻ ra làm sáu mãnh do những mâu thuẫn chủng tộc tiềm ẩn dưới ách cai trị độc đoán của Hán tộc. Gương Liên Sô cũ hãy còn sờ sờ trước mắt. Chờ xem. Mai Thanh Truyết Houston – Hiệu đính 8-2024

Wednesday, August 7, 2024

Trả Lại Thiên Nhiên Cho Thiên Nhiên Tiến bộ khoa học cùng với việc phát minh nhiều công nghệ mới trong thời gian gần đây đã cho ra đời nhiều ứng dụng hầu thỏa mãn nhu cầu mà con người cần đến hay nghĩ đến. Con người ngày càng say mê trong những khám phá mới, tìm thêm nhu cầu mới dù cần thiết hay không cần thiết cho cuộc sống. Cuộc chạy đua do chính con người đặt ra có vẽ như không có điểm đến! Và hơn nữa, cuộc đua nầy càng kích thích thêm tham vọng ngự trị của con người, làm tăng thêm ngã vọng đến một mức độ khó kềm chế được trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Với khả năng khoa học hiện có, con người hầu như làm chủ thiên nhiên trong việc chế tạo các sản phẩm mới để phục vụ cho nhu cầu của nhân loại. Đôi khi những nhu cầu đó hoàn toàn không cần thiết. Con người ngày càng xử dụng nhiều hóa chất khác nhau để kiến tạo ra những sản phẩm tổng hợp theo ý muốn hay theo nhu cầu và dĩ nhiên trong hóa trình tổng hợp hay phản ứng đã sinh ra một số sản phẩm phụ không cần thiết (chất phế thải). Chính những chất sau nầy trở thành những vấn nạn cho đời sống con người do đó con người bị bắt buộc phải giải quyết hay thanh lọc... Như vậy, vấn đề Sinh (sản xuất ra sản phẩm mới) và Diệt (thanh lọc các sản phẩm phụ, không cần thiết hay độc hại) là một hiện tượng tuần hoàn, xoay dần liên tục trong đời sống con người. Con người khai triển trí thông minh để cố tạo ra nhu cầu mới thì cần phải nặn óc nhiều hơn để thanh toán các phế phẩm độc hại. Và nếu nói theo tinh thần Phật giáo, con người càng chạy theo cái NGÃ của mình thì phải gánh thêm NGHIỆP càng nặng. 1- Trái đất và Thiên nhiên Vạn vật đã tự sắp xếp theo một thứ tự nào đó của thiên nhiên. Từ ngàn năm trước nếu nhìn lại, khi khoa học chưa phát triển nhiều và con người có một hiểu biết rất hạn chế, thiên nhiên vẫn ưu đãi và tạo dựng ra một đời sống tương đối an lành; số mầm bịnh không nhiều so với hiện tại, và sự xuất hiện những mầm bịnh mới, nhất là những loại ung thư xuất hiện trong vài chục năm trở lại đây. Đó là sản phẩm của các hóa chất độc hại xâm nhập vào cơ thể con người tạo ra những biến đổi gen không kiểm soát được. Đó cũng chính là sản phẩm của con người qua khoa học! Con người đã lạm dụng khoa học và với niềm tự tôn họ tin rằng sẽ chiến thắng được thiên nhiên, kiểm soát thiên nhiên, và luôn cố gắng thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình. Để cuối cùng thiên nhiên đáp lại rằng, hãy còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa thể giải đáp được! Thiên nhiên đã vận hành tuần hoàn, có chu kỳ thời tiết mưa, nắng, bão, lụt...cho từng khu vực trước kia; mà hôm nay con người đã làm đảo lộn các chu kỳ trên một cách không kiểm soát nổi. 2- Hiệu ứng nhà kính Nguyên nhân gây ra hiệu ứng nhà kính là do thán khí và một số khí thải kỹ nghệ thải hồi vào bầu khí quyển. Tuy nhiên, cũng còn có nhiều giả thuyết khác nhau đến từ nhiều trường phái khoa học về cách lý giải cho hiệu ứng nhà kính. Một số khoa học gia trong khi nghiên cứu về hành tinh Hỏa tinh (Mars) đã đưa ra một giả thuyết về sự thành hình của mặt địa cầu như sau: Chu kỳ nóng lạnh của trái đất là một hiện tượng tuần hoàn. Trong hiện tại, quả địa cầu đang đi vào một cuộc vận hành “nóng” để rồi sau đó…sau một vài thiên niên kỷ sẽ chuyển trở qua chu kỳ “lạnh”. Lý do căn bản để làm điểm tựa cho lập luận nầy là vin vào thời đại của người Viking ở Bắc Cực thời gian trước khi di cư vào phía Nam vào thế kỷ thứ 6. Ở vào thời điểm nầy, những vùng có người Viking sinh sống, vẫn có nhiều đồng cỏ do đó họ có điều kiện để chăn nuôi và trồng trọt, chứ không là một tảng băng vĩ đại như hiện tại. Nếu giả thuyết nầy là một sự thật thì thuyết Âm Dương cũng có thể là một giải đáp cho bài toán nóng lạnh của trái đất. Theo sự suy diễn của thuyết Âm Dương, sự vận hành của trái đất tùy thuộc vào chu kỳ tuần hoàn của từng giai đoạn. Khi đến chu kỳ Âm, liên quan đến mặt trăng, do đó mực nước có thể bị dâng cao. Và khi trái đất chuyển qua chu kỳ Dương, liên quan đến mặt trời, thời tiết nóng dần lên. Tuy nhiên, dù lý giải như thế nào đi nữa, chúng ta cũng đã nhận rõ là trái đất hiện đang nóng dần, nghĩa là hiện tượng hâm nóng tòan cầu đã là một hiện thực. Ngoài những nguyên nhân được nêu ra qua sự phát triển công kỹ nghệ trên thế giới, con người còn tận dụng khai thác tài nguyên thiên nhiên làm đảo lộn hệ sinh thái nhiều vùng trên trái đất. Từ đó, tạo ra những ảnh hưởng dây chuyền mà con người không thể kiểm soát hay tiên liệu được như hiện nay. Còn một nguyên nhân cho đến ngày nay không được các nhà khoa học lưu tâm đến là vào thời điểm năm 1750, dân số trên toàn thế giới chỉ chiếm khoảng vài trăm triệu. Hiện nay, quả địa cầu là nơi cư trú của trên 7 tỷ nhân mạng, phóng thích mỗi ngày, theo ước tính, hàng triệu tấn khí carbonic nhiều hơn rất nhiều so với thời điểm 1750. Điều nầy cũng có thể nào là một phần lý giải cho sự hâm nóng toàn cầu? 3- Hướng giải quyết mới Đi tìm một phương hướng khác để giải quyết vấn đề ô nhiễm hiện nay quả là một nan đề cho bất cứ nhà khoa học nào có lương tâm và có một tầm nhìn đúng đắn về dự phóng tương lai. Dùng khoa học hay kỹ thuật thuần túy để giải quyết ô nhiễm môi trường đã gặp những bế tắc kể trên. Từ ngàn xưa Phật Thích Ca đã gợi ý là dùng thiên nhiên để giải quyết và điều chỉnh những vấn nạn của thiên nhiên (do con người gây ra!) trong khi rao giảng đạo Từ Bi của Ngài. Ngài đã nhắc nhở rằng mọi sinh vật kể cả cây cỏ đều có một đời sống riêng góp phần vào sự hài hòa của thiên nhiên và nếu hủy diệt một mầm sinh vật nào đó, có thể làm đảo lộn sự hài hòa ấy. Do đó nguyên lý dùng thiên nhiên để giải quyết các vấn nạn của thiên nhiên là một suy nghiệm căn bản cho mọi phương pháp xử lý ô nhiễm môi trường trong hiện tại và tương lai. Trong chiều hướng đó các nhà khoa học đã tìm về thiên nhiên để suy nghiệm và giải lý từ các chu kỳ tuần hoàn của cây cỏ để đưa ra các phương pháp thích nghi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường. Nguyên lý SINH – DIỆT của Phật giáo có thể được đem ra áp dụng ở trường hợp này để mang lại sự cân bằng cho hai nhu cầu phát triển và cải thiện môi sinh. Vì vậy, trong thiên niên kỷ thứ ba này, nhiệm vụ chính yếu của các nhà khoa học trên thế giới là: • Phải tập trung trí tuệ để bảo vệ và tái tạo sự tuần hoàn nguyên thủy của thiên nhiên; • Nghiên cứu những công nghệ sạch để thay thế các nguồn năng lượng đang sử dụng hiện tại. • Truy tìm các giải pháp thiên nhiên để giải quyết vấn nạn ô nhiễm trên thế giới. Trong thiên niên kỷ thứ ba nầy, con người có hai nhu cầu chính yếu: nhu cầu phát triển và sản xuất sản phẩm để sinh tồn và nhu cầu giải quyết các phụ phế phẩm để làm sạch môi trường do nhu cầu phát triển tạo ra. 4- Làm sạch bầu khí quyển Trong tiến trình sản xuất năng lượng cho nhu cầu của con người trên thế giới, thán khí hay carbon dioxide (CO2) đã được thải ra quyện vào không khí do việc thiêu đốt than, dầu khí, khói xe, nhà máy v. v.. . Thán khí là một thành tố quan trọng nhất trong việc gây ra sự hâm nóng toàn cầu. Theo Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa kỳ (EPA) và Bộ năng lượng (DOE), kể từ khi cách mạng kỹ nghệ toàn cầu bắt đầu khoảng 200 năm trước đây thì lượng thán khí trong bầu khí quyển tăng từ 280 mg/L lên 370 mg/L Năm 2016, lượng than khí trong không khí đã qua ngưỡng cửa 400mg/L. Hoa Kỳ cũng đã ước tính trong vòng 20 năm tới, lượng thán khí sẽ tăng lên 43%. Do đó, nhu cầu thiết yếu hiện tại là phải tìm một phương cách tối ưu để giảm thiểu lượng thán khí này. 5- Biến cải đất và làm sạch nguồn nước Cho đến nay, phương pháp thông dụng nhất để biến cải các vùng đất đã bị ô nhiễm là đất sẽ được đào xới lên và đem đi chôn ở một nơi khác. Việc làm này chính là việc di chuyển “ô nhiễm” từ một điểm A đến điểm B, chứ không phải là một phương pháp giải quyết ô nhiễm. Do đó, từ hơn một thập niên trở lại đây, việc nghiên cứu các vi khuẩn có khả năng hấp thụ các chất hữu cơ và kim loại độc hại phế thải trong kỹ nghệ là mục tiêu cấp bách của các khoa học gia trên thế giới. 6- Giải pháp duy nhất: “Tái hòa giải” với thiên nhiên Con người đã ảo tưởng là có thể sống không cần đến thiên nhiên, trong khi bản thân sự tồn tại của cơ thể con người đã là hiện thân cho sự đa dạng sinh học, với bao nhiêu tế bào, vi khuẩn tồn tại cộng sinh. Nguyên Giám đốc Bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên Pháp nhấn mạnh là: loài người không thể phá hủy được sự sống, bởi các biểu hiện của sự sống sẽ vẫn tồn tại, cho dù loài người không còn nữa. Nhưng rất có thể là, với đà diệt chủng hiện nay, con người sẽ biến mất cùng với các loài động vật có xương sống, với các loài thực vật quen thuộc trong vườn nhà của chúng ta. Biến đổi khí hậu khiến tình hình càng trở nên khó khăn hơn. “Giải pháp duy nhất”, theo ông, đó là “tái hòa giải một nền kinh tế mới, được cân nhắc một cách kỹ lưỡng với thiên nhiên”. Tình hình hiện nay là “đã quá trễ để có thể bi quan”. Không ai biết được thời điểm nào thảm họa sẽ là “không thể đảo ngược”. Chỉ có một cách duy nhất là hành động khẩn cấp. 7- Cần có một đóng góp “phi thường” của thiên nhiên cho kinh tế Không chỉ là bệ đỡ cho sự sống của con người, đa dạng sinh học còn có đóng góp quyết định vào nền kinh tế nhân loại. Báo Le Monde dẫn thêm một con số của báo cáo WWF gây bàng hoàng: đóng góp của “các loài côn trùng và chim chóc thụ phấn” cho nông nghiệp hàng năm tương đương với 125.000 tỉ đô la, gấp 1,5 GDP toàn cầu (chưa tính đến các đóng góp khác của thiên nhiên). Nhà môi trường Pascal Canfin bình luận: “nếu phải trả tiền cho dịch vụ này, mô hình kinh tế hiện nay của chúng ta sẽ phá sản”. 8- Giải quyết nạn hạn hán qua kinh nghiệm của Nhật Bản Vào mùa hè năm 1994, Nhật Bản bị thiếu nước nghiêm trọng. Tháng 8 năm đó, hội nghị về Sử dụng nước mưa để cứu trái đất do Nhật Bản đề xướng đã được tổ chức một Hội nghị quốc tế tại Tp. Sumida, Tokyo. Chủ đề của hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng các hệ thống quản lý nước mưa hiệu quả để giải quyết các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu, đô thị hóa, và sự khan hiếm nước. Những giải pháp có thể bao gồm việc thu gom nước mưa, sử dụng nó cho các mục đích khác nhau như tưới tiêu, giảm ngập lụt đô thị, và bảo vệ nguồn nước sạch. Hội nghị cũng có thể đã tạo điều kiện cho các nhà khoa học, nhà quản lý, và các chuyên gia quốc tế trao đổi kiến thức và kinh nghiệm về cách tích hợp nước mưa vào các chiến lược quản lý đô thị và môi trường. Hội nghị quốc tế tại TP. Sumida, Tokyo vào năm 1994 với chủ đề "Sử dụng nước mưa để cứu Trái đất - Xây dựng mối quan hệ thân thiết với nước mưa ở các thành phố" tập trung vào nhiều khía cạnh của việc quản lý nước mưa. Dưới đây là một số chi tiết chính về những chủ đề có thể đã được thảo luận tại hội nghị: Sử dụng nước mưa: • Thu gom và lưu trữ nước mưa: Các phương pháp thu gom nước mưa từ mái nhà, bề mặt không thấm nước, và các khu vực khác để lưu trữ cho các mục đích sử dụng khác nhau như tưới tiêu, làm mát, và cấp nước sinh hoạt. • Ứng dụng trong đô thị: Các giải pháp để tích hợp hệ thống thu gom nước mưa vào thiết kế đô thị, chẳng hạn như hệ thống đường ống, bể chứa, và các khu vực lưu trữ khác. • Giảm nguy cơ ngập lụt: Cải thiện quản lý nước mưa để giảm nguy cơ ngập lụt đô thị bằng cách sử dụng hệ thống thoát nước mưa thông minh và bền vững. Lưu trữ nước mưa: • Hệ thống lưu trữ: Các thiết bị và công nghệ lưu trữ nước mưa, bao gồm bể chứa, thùng chứa, và các công nghệ khác để bảo đảm rằng nước mưa có thể được sử dụng hiệu quả và an toàn. • Quản lý phẩm chất nước: Các biện pháp để duy trì chất lượng nước mưa, bao gồm các phương pháp lọc và xử lý để loại bỏ tạp chất trước khi sử dụng. • Sử dụng lâu dài: Các chiến lược để tối ưu hóa việc sử dụng nước mưa trong dài hạn và giảm sự phụ thuộc vào nguồn nước sạch từ các hệ thống cấp nước chính. Lợi ích môi trường: • Bảo vệ tài nguyên: Sử dụng nước mưa giúp giảm áp lực lên nguồn nước ngọt và bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên. • Giảm ô nhiễm: Các phương pháp thu gom và sử dụng nước mưa có thể giúp giảm ô nhiễm nước mưa và cải thiện chất lượng nước trong các đô thị. Thách thức và giải pháp: • Chi phí và đầu tư: Các vấn đề liên quan đến chi phí đầu tư và bảo trì hệ thống thu gom và lưu trữ nước mưa. • Khả năng tích hợp: Tích hợp hệ thống nước mưa vào cơ sở hạ tầng đô thị hiện có và các chính sách hỗ trợ từ chính phủ. Kinh nghiệm và chia sẻ: • Chia sẻ kinh nghiệm: Các quốc gia và thành phố chia sẻ kinh nghiệm và thực tiễn tốt nhất trong việc quản lý nước mưa. • Hợp tác quốc tế: Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu và phát triển các công nghệ và phương pháp mới để quản lý nước mưa hiệu quả. Hội nghị này có thể đã tạo cơ hội để các nhà nghiên cứu, kỹ sư, nhà hoạch định chính sách, và các bên liên quan khác thảo luận và hợp tác trong việc giải quyết các thách thức liên quan đến việc sử dụng và quản lý nước mưa. Vấn đề là cách nhìn của chúng ta về nước mưa cũng sẽ phải thay đổi, không thể lãng phí nước mưa. Miền Nam với vũ lượng hàng năm thay đổi theo vùng, trung bình từ 1.500 đến 2.000 mm/mùa mưa. Như vậy, nếu rút được kinh nghiệm qua hội nghị trên, Bà con sẽ không bao giờ phải ứng xử với nạn thiếu nước ngọt như tháng 4 và 5, 2024 vừa qua. Có thể chứa nước mưa trong những hồ lớn đặt cố định trên mặt đất tại những địa điểm có tính chiến lược. Nên hạn chế lượng nước mưa chảy xuống các cống và rãnh thoát nước ở xung quanh nhà hoặc hai bên đường phố. Lượng nước mưa được lưu giữ lại có thể sử dụng trong cộng đồng như tưới cây, và trong trường hợp khẩn cấp, có thể dùng lượng nước mưa dự trữ này để chữa cháy hoặc thậm chí có thể thay thế nước ăn. Mỗi hồ chứa nên được lắp đặt thêm một chiếc bơm tay và một cái vòi nhỏ để bất cứ ai cũng có thể sử dụng nước vào bất cứ lúc nào. Bể chứa nước loại này được gọi là "Tensuison" có nghĩa là "trân trọng nguồn nước mưa Chúa đã ban tặng". Khi bạn dạo quanh quận Ichitera-Kototoi thuộc TP. Sumida, đi ngang qua đường phố Eco-Roji - đường phố sinh thái (Roji theo tiếng Nhật có nghĩa là "đường phố") và sẽ thấy đường phố có tên Rojison - theo nghĩa đen là "tôn trọng các ngõ hẹp". Phố Rojison có một hồ chứa nước mưa ngầm với dung lượng tối đa 10 mét khối, có lắp đặt thêm bơm tay. Nguồn nước này được dùng tưới cây và được xem như hệ thống chứa nước mưa cho cộng đồng dùng trong trường hợp khẩn cấp. Bạn cũng sẽ thấy những hồ chứa lớn sơn màu đỏ tía có lắp vòi ở trước cửa các căn nhà. Các ý tưởng về Tensuison được nêu trong cuốn sách "Quan điểm về ốc đảo Sumida" đã trở thành hiện thực dưới nhiều hình thức khác nhau tại vùng Ichitera-Kototoi. Trên đây thực sự là những đề nghị và giải pháp rất khoa học và mang tính “bồi hoàn” nghĩa là sử dụng thiên nhiên, điều chỉnh và cải thiện việc làm “ô nhiễm nguồn nước” của con người. Đó chính là mục tiêu và mục đích của bài viết. Còn như, câu chuyện về là một tuyên bố nổi tiếng của bà Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong năm 2010, bà Bộ trưởng Cao Đức Phát đã nêu ra một ý tưởng về việc mỗi hộ gia đình ở miền Nam nên mua một cái lu (chum) để chống lụt, với hy vọng rằng việc này có thể giúp lưu trữ nước mưa hoặc giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt. Tuyên bố này gây ra nhiều phản ứng khác nhau từ cộng đồng và truyền thông, một phần vì ý tưởng này không thực sự khả thi và không giải quyết được các vấn đề cơ bản về quản lý lũ lụt, gây tranh cãi trong và cũng là đề tài hài hước trong dư luận. 9- Thay lời kết Tiến trình làm sạch thiên nhiên và trả lại thiên nhiên những nguồn nước trong lành, bầu khí quyển tươi mát, bảo vệ những cánh rừng nơi trú ngụ của các thú vật sắp bị tiệt chủng, bớt phí phạm những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới nhất là nguồn nước sạch .... là bổn phận và trách nhiệm của mọi người trên hành tinh nầy. Đã tự nhận là một sinh vật thượng đẳng, con người không thể từ chối bổn phận trên được. Việt Nam từ khi mở cửa để phát triển từ năm 1986 trở đi, tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp tệ hại. Tương tự như ở Trung Cộng, có thể nói rằng mức độ tiếp nhận ô nhiễm do con người tạo ra ở Việt Nam đã đến mức tới hạn tối đa (threshold limit) rồi. Một thí dụ điển hình về chỉ số phẩm chất không khí – Air Quality Index – AQI ở Hà Nội hàng năm. Hà Nội thường có chỉ số AQI từ mức “kém” đến “rất xấu” trong nhiều tháng trong năm. Các chỉ số AQI cụ thể có thể dao động từ khoảng 100 (mức "kém") đến 300 (mức "rất xấu") trong những ngày ô nhiễm nặng. Khi chỉ số AQI tang lên 150, theo WHO, nhà cửa cần phải phải được đóng kín và không được đi ra ngoài. Có nhiều chỉ dấu đã báo động về mức tới hạn trong hiện tại. Đó là, hệ thống sông ngòi từ Bắc chí Nam đã và đang biến thành những dòng sông chết, hệ lụy tất yếu của sự phát triển bừa bãi và không cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Một khi thiên nhiên không còn khả năng tự điều tiết để tái tạo hay làm sạch môi trường thì hệ quả về sự suy thoái môi trường ở Việt Nam sẽ khốc liệt hơn và con người sẽ không còn đủ khả năng để điều chỉnh hay cứu chữa nữa. Và chính sự khuất tất trên của những người quản lý đất nước hiện tại đã là một trọng tội đối với những thế hệ tiếp nối. Mỗi người trong chúng ta, nếu ý thức được điều đó, cần phải biết gìn giữ và bảo vệ môi trường sống chung quanh mình. Đó là một phương cách an toàn và nhân bản nhất trong thiên niên kỷ thứ ba. Và hơn nữa, có làm được như thế, chúng ta đã trả lại một phần nào món nợ mà chúng ta đã vai mượn trước của các thế hệ sau do việc làm suy thoái môi trường và phí phạm tài nguyên trong quá trình phát triển kỹ nghệ để phục vụ tham vọng của con người. Mai Thanh Truyết Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPS) Mùa hè Houston 2024

Monday, August 5, 2024

Thân chuyển một bài “chuyển dịch” từ một youtube của Tác giả Andrew Millison, Giảng viên về Khoa Canh tác bền vững – Permaculture. Vì cố gắng nghe từ giọng nói cho nên có thể còn nhiều chỗ sai sót. *** 2 Tỷ Mẫu Đất Nông Nghiệp Mới Andrew Millison, một giảng viên về khoa canh tác bền vững - permaculture, đã đến Tây Ban Nha để ghi hình dự án việc vĩ đại của Seawater Solutions, một công ty châu Âu tiên phong trong một hình thức nông nghiệp hoàn toàn mới: trồng cây sản xuất trong nước mặn. Họ ước tính rằng bằng cách sử dụng các loại cây gọi là cây halophyte lâu năm, họ có thể biến 2 tỷ mẫu đất hoang mặn thành đất nông nghiệp sản xuất. Điều này thay đổi mọi thứ! Trên hành tinh có hơn 2 tỷ mẫu đất hoang mặn, nếu tôi nói rằng chúng có thể được biến thành nông nghiệp sản xuất mà không cần sử dụng một giọt nước ngọt nào thì sao? Thực ra chúng ta có thể làm được điều đó bằng cách tìm kiếm các loại cây hiếm có thể phát triển trong nước mặn, một hình thức nông nghiệp hoàn toàn mới. Họ đang khai thác nguồn nước đại dương vô tận, bao gồm cả khu vực 4500 mẫu ở miền nam Tây Ban Nha. Cảm ơn bạn đã gặp tôi, Yanik. Tôi đã rất bị cuốn hút bởi khái niệm nông nghiệp nước mặn phục hồi này – regenerative seawater agriculture .Chúng tôi đang phục hồi các cánh rừng ngập mặn và đồng thời tạo ra hệ thống rừng ngập mặn, đây là một hình thức canh tác và hệ thống lâm nghiệp có chủ đích đối với cây ngập mặn để lấy gỗ, các sản phẩm dệt may khác nhau và thức ăn cho động vật. Nông nghiệp nước mặn phục hồi và các hệ sinh thái tự nhiên dựa trên loài then chốt này - cây ngập mặn. Các cánh rừng ngập mặn là cánh cửa để tạo ra hệ thống nuôi trồng thủy sản hiệu quả và biến các đồng bằng sông delta này trở thành những khu vực sản xuất thực phẩm phong phú hơn. Bạn có thể thấy các đám rễ và thân cây này, chúng hoạt động như một bộ giảm chấn tự nhiên giúp giảm lực của sóng bão, phân tán lực để không gây ra cú sốc mạnh lên đất liền. Không có lý do gì mà các khu vực ven biển nhiệt đới và đặc biệt là các đồng bằng sông delta không nên được bao phủ hoàn toàn bởi các hệ sinh thái dựa trên cây ngập mặn. Trên toàn thế giới, có hàng chục triệu hecta đất ngập mặn hiện có hoặc bị suy thoái và hơn 900 triệu hecta đất bị mặn hóa ở nội địa, có thể được chuyển đổi và cải tạo thành đất nông nghiệp mới chỉ bằng cách sử dụng nước mặn. Điều tuyệt vời về phương pháp tích hợp này là không cần phải đánh đổi giữa sản xuất thực phẩm, thiên nhiên và đa dạng sinh học. Đây là sự đồng tồn tại trong một khu vực mà một yếu tố thực sự nuôi dưỡng yếu tố khác. Thật đặc biệt khi thấy nông nghiệp và thiên nhiên hòa hợp với nhau. Đây là nông nghiệp thực sự nâng cao hệ thống tự nhiên và đồng thời cung cấp thực phẩm cho con người. Đây có tiềm năng trở thành một trong những đổi mới quan trọng nhất trong nông nghiệp hiện đại. Như thể một phần hoàn toàn mới của hành tinh vừa mở ra để canh tác. Điều này thay đổi tất cả mọi thứ. Bạn đã sẵn sàng để biến đổi các sa mạc thành những khu vườn xanh tươi và cung cấp cộng đồng chưa? Nó nghe giống như một câu chuyện khoa học viễn tưởng. Tôi muốn tìm hiểu chính xác cách thức hoạt động của nó. Phía sau chúng ta trông giống như một đầm lầy mặn nhưng cũng là một đầm lầy mặn được canh tác và kỹ thuật hóa với hai tài nguyên phong phú nhất trên thế giới: đất bị suy thoái và nước mặn. Chúng tôi gọi đó là các hệ sinh thái nông nghiệp mặn, kết hợp phục hồi và xây dựng hệ sinh thái với việc canh tác. Vậy bí quyết để trồng thực phẩm trong nước mặn là gì? Phần lớn các loại cây chúng ta ăn và sử dụng thương mại không thể sống được trong nước mặn. Nhưng có hơn 3.000 loài thực vật có thể phát triển trong nước mặn, và những cây này được gọi là cây chịu mặn - halophytes. Lý do chúng có thể làm được điều đó là qua hàng thiên niên kỷ, chúng đã phát triển để có thể thanh lọc mặn hoặc ngăn nước mặn thấm vào màng tế bào. Những cây này và nhiều loại halophytes lâu năm có giá trị thương mại khác nhau ở mỗi cấp độ. Thí dụ: • Carbon và rễ có thể bán được như tín chỉ carbon. • Các thân gỗ dài có thể trở thành vật liệu xây dựng tuyệt vời như tấm ván sợi dùng làm thức ăn cho động vật. • Các đầu lá xanh ở trên cùng là rau quả có giá trị cao hoặc thức ăn cho động vật. • Ở đầu lá, nơi sản xuất hạt, có thể tạo ra dầu ăn có giá trị cao và thậm chí là nhiên liệu sinh học. Chúng tôi sử dụng công nghệ và thiết bị nông nghiệp thông thường như máy kéo và máy gặt, được chỉnh sửa để có thể tiếp cận địa hình đất ngập nước và đầm lầy. Chúng tôi thường xuyên thấy năng suất hàng năm trên mỗi hecta đạt hơn 30 tấn. So với lúa mạch hoặc lúa mì, nơi chỉ đạt từ 5 đến 7 tấn trên mỗi hecta mỗi năm, nhưng phải cần nhiều nước gấp nhiều lần hơn hơn trong sinh khối. Chúng tôi đã trồng các loại halophytes này trong một số điều kiện khắc nghiệt nhất, nơi mà không có gì khác có thể sống sót. Đôi khi chúng hoàn toàn bị ngập nước, đôi khi đất rất khô. Sự kiên cường của các loài này không phải do biến đổi gen hay lai giống, chúng là các loại cây tự nhiên. Khi bạn nhìn kỹ chúng, bạn sẽ thấy chúng là cây mọng nước, vì vậy chúng tích trữ rất nhiều nước và độ ẩm. Đây là các loại cây lâu năm, có rễ lâu dài, phát triển và sống sót hàng thập kỷ, vì vậy chúng tạo dựng đất và sản xuất sinh khối rất phong phú. Vì chúng là cây lâu năm, chúng tôi có thể cắt phần trên của sinh khối ba hoặc bốn lần một năm mà không làm hại cây. Rễ cây tiếp tục phát triển và hấp thụ carbon, và chúng tôi có thể khai thác bền vững mà không cần cày xới đất hoặc làm gì đó với đất. Chúng tôi không sử dụng phân bón hoặc thuốc trừ sâu vì nước mặn là phân bón và thuốc trừ sâu tự nhiên. Nước biển là phân bón có hàm lượng dinh dưỡng cao nhất mà bạn có thể tưởng tượng, và bạn biết đấy, nó miễn phí và cứ chảy vào khu vực này. Vì vậy, gần như không có đầu vào nào ở đây, làm cho công việc của chúng tôi là nông dân trở nên cực kỳ dễ dàng. Bằng cách sử dụng nước biển, họ đã mở ra một nguồn tài nguyên vô tận. Nước ngọt là yếu tố hạn chế nhất đối với nông nghiệp trên toàn cầu, nhưng loại nông nghiệp này chạy bằng nước mặn hoàn toàn loại bỏ nhu cầu về nước ngọt trong khi vẫn sản xuất ra năng suất lâu năm. Chúng tôi đang ở đồng bằng sông Guadalquivir, đây là một vùng trũng thấp với phần lớn mặt đất ở cách mực nước biển chỉ một mét, vì vậy có rất nhiều nước mặn từ đại dương vào một không gian rộng lớn. Có rất nhiều đất ở đây mà hình thức nông nghiệp mới này có thể được triển khai. Yanik và đội ngũ của anh ấy đã mở rộng dự án rất nhiều. Chúng tôi đã lái xe đến địa điểm phát triển mới nhất của họ để xem một hệ thống như vậy được thiết lập và tất cả các chi tiết kỹ thuật về cách thức hoạt động của hệ thống nước. Chào mừng bạn đến địa điểm của chúng tôi gọi là Marisma Treina, tức là các đầm lầy Treina, nơi con sông gặp biển. Ôi, bạn có rất nhiều công việc ở đây! Vâng, đó là những công đoạn hoàn thiện cho dự án này, với diện tích vài trăm hecta. Thông thường, chúng tôi cố gắng giảm thiểu cơ sở hạ tầng, làm cho mọi thứ tiết kiệm chi phí và rẻ nhất có thể. Trong trường hợp này, đây là một dự án trị giá hàng triệu Euro liên quan đến nhiều bên liên quan khác nhau và nhiều nguồn tài trợ từ chính phủ, vì vậy đây là một dự án đánh dấu sự phục hồi đầm lầy ở châu Âu. Tôi không thể tin rằng chúng tôi đến vào thời điểm tuyệt vời như vậy để thấy dự án như thế nào trước khi nó trở thành một khu vực đầy cây cối trong vòng 6 tháng tới. Sẽ có một hệ sinh thái xanh và khỏe mạnh. Chúng tôi đã thấy những con hồng hạc trong các đầm lầy - lagun mới đầy nước trong vài tuần qua, vì vậy sự gia tăng đa dạng sinh học ở đây sẽ dễ dàng lên tới 1.000% trong 12 tháng tới. Đây như một giấc mơ của các nhà biến đổi địa hình, nơi bạn có nước vô tận để tạo ra những động thái tuyệt vời nhất có thể. Có một hệ thống cơ sở hạ tầng nước phức tạp với các kênh và sông quản lý lượng nước mặn vào khu vực vào bất kỳ thời điểm nào. Đây là nơi tất cả bắt đầu, nơi tất cả nước đến từ. Chúng tôi có các cổng điều chỉnh ở đây có thể mở và đóng, và đây là nơi chúng tôi có thể kiểm soát hệ sinh thái từ điểm đầu vào nước. Một điểm kiểm soát này có thể cung cấp nước cho toàn bộ 600 hecta. Vâng, nó thực sự có thể làm ngập một khu vực lớn hơn thế nhiều. Hơn 15.000 hecta phía sau đó cũng có thể chuyển đổi thành loại hình nông nghiệp mặn này. Đây là phần quan trọng nhất của khu vực, nơi tất cả các chất dinh dưỡng, cá, sinh khối thực vật, hạt giống, tất cả đều đến từ sông và cửa sông và biển. Vì vậy, cơ bản là bạn chỉ lấy nước biển và trải đều nó trên khu vực đầm lầy này, tập trung vào các kênh này và thế là xong. Đúng vậy, chúng tôi không phải gieo hạt hoặc trồng hoặc làm gì cả. Nước tự làm tất cả công việc cho chúng tôi, và nó đến từ đây. Thật tuyệt vời! Đây là cách nó mở ra, rất đơn giản. Đây là phần cuối của kênh vào chính. Những cổng thông minh này rất đơn giản về nhiều mặt, nhưng về cơ bản, động năng của nước từ thủy triều cao đẩy mở tấm chắn ở phía này, và khi thủy triều rút, động năng đến từ phía bên kia đẩy cổng đóng. Vì vậy, nó giữ nước lại và khi thủy triều vào, nó lại mở ra. Chúng tôi không cần làm gì cả, nó tự điều chỉnh để đảm bảo rằng càng nhiều nước càng tốt ở lại đó mọi lúc. Vì vậy, nó cơ bản là hệ thống tưới tiêu bằng thủy triều, điều chỉnh bởi thủy triều. Hôm nay chỉ có một cổng mở, khi tất cả ba cổng mở, đó là một khối lượng nước khổng lồ đang ngập đất. Trong gần 30 năm làm nhà thiết kế canh tác bền vững (permaculture) và đi khắp thế giới, tôi đã đưa tất cả những gì tôi học được vào khóa học thiết kế permaculture trực tuyến của Đại học Oregon State, tôi và đội ngũ của tôi sẽ hướng dẫn bạn qua hơn 20 bài tập với hơn 100 giờ video giảng dạy và tài nguyên phẩm chất cao, tất cả đều tập trung vào việc phát triển tài sản hoặc dự án của riêng bạn. Trong suốt khóa học, bạn sẽ nhận được phản hồi cá nhân từ một giảng viên tận tâm trong một nhóm nhỏ. Mọi người luôn hỏi tôi làm thế nào để trở thành một phần của giải pháp, đây là điểm khởi đầu của bạn. Hãy kiểm tra liên kết dưới đây để biết các khóa học sắp tới và tham gia cùng chúng tôi trong việc tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Hẹn gặp bạn trong lớp học! Lời người chuyển dịch” Nguyên lý "dùng thiên nhiên để điều chĩnh những sai lệch đã phạm phải trong quá trình phát triển quốc gia". Đó là một phương pháp thích hợp nhứt ứng hợp với việc bảo vệ môi trường thên thế giới ngày nay. Mai Thanh Truyết lược dịch từ video của tác giả Andrew Millison Houston 8 - 2024

Wednesday, July 31, 2024

Đất hiếm của Việt Nam trong cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung Vấn đề khai thác đất hiếm đang nằm trong số các dự án hợp tác được Washington và Hà Nội thảo luận trong cuộc viếng thăm của TT Biden vừa qua. Trong khi Mỹ và các nước phương Tây khác đang cố gắng chấm dứt sự phụ thuộc vào đất hiếm của TC thì Chính phủ Việt Nam lại có kế hoạch khởi động lại mỏ đất hiếm lớn nhất nước này cùng với một số mỏ đất hiếm khác vào năm 2024. Đất hiếm là một nhóm các nguyên tố hóa học có tính chất tương tự nhau và rất quan trọng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, bao gồm sản xuất thiết bị điện tử, công nghệ năng lượng tái tạo và ngành công nghiệp quốc phòng. Việt Nam sở hữu một số mỏ đất hiếm quan trọng, đặc biệt là tại các tỉnh miền Bắc. Dưới đây là một số dữ liệu về đất hiếm ở Việt Nam: 1. Mỏ đất hiếm tại Lai Châu: Mỏ đất hiếm lớn nhất của Việt Nam được phát hiện ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Đây là một trong những nguồn cung cấp đất hiếm quan trọng của đất nước, với tiềm năng khai thác lớn. 2. Mỏ đất hiếm tại Nghệ An: Đây là những khu vực có khả năng khai thác các nguyên tố đất hiếm như Cerium, Lanthanum và Neodymium. 3. Mỏ đất hiếm tại Hà Giang: Khu vực này cũng có một số mỏ nhỏ hơn với tiềm năng chứa đất hiếm. Việc khai thác và chế biến đất hiếm tại Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, với nhiều dự án nghiên cứu và đầu tư để nâng cao giá trị kinh tế và bảo vệ môi trường. Đất hiếm có vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, và việc khai thác bền vững các nguồn tài nguyên này có thể mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Theo số liệu của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới nhưng phần lớn vẫn chưa được khai thác. Vào năm 2022 Việt Nam sản xuất 4.300 tấn đất hiếm so với 200 tấn năm 2021. Vì đất hiếm rất quan trọng đối với ngành bán dẫn nên Việt Nam có tiềm năng rất lớn để trở thành nước đóng vai trò chính trong ngành bán dẫn trong tương lai. Việt Nam, quốc gia này trở thành nước đứng hàng thứ sáu trên thế giới về mặt hàng đất hiếm. Theo Reuters, TC sẽ là nước có lợi khi Việt Nam tăng sản lượng khai thác đất hiếm. Lý do vì Hoa Lục là thị trường xe hơi và xe điện lớn nhất thế giới; cũng như là trung tâm sản xuất các sản phẩm điện tử và điện thoại thông minh trên thế giới. Tuy nhiên, như một số chuyên gia nhận định, vẫn còn khó khăn lớn để Mỹ có thể chấm dứt vai trò dẫn đầu của TC là nhà cung cấp đất hiếm lớn nhất trong một thời gian ngắn. Tại hội nghị thượng đỉnh các nước G7 tại Hiroshima, Nhật Bản, từ 19 đến 21 tháng 5, 2023, bà Ursula von der Leyen, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu - EC, đã nhấn mạnh cần phải hợp tác với những đối tác và các quốc gia có tầm nhìn chung để “giảm thiểu sự phụ thuộc của chúng ta vào TC” ở một số lĩnh vực then chốt, trong đó có đất hiếm. Ngày 18/5/2023, Bộ Tài nguyên của Australia, một nước không thuộc G7 nhưng là khách mời tham dự G7 tương tự như Việt Nam, đã ra thông báo chính sách tài trợ cho ngành khai thác mỏ, trong đó có chiến lược khai thác đất hiếm, nhằm giảm thiểu các rủi ro về chủ quyền và tăng cường năng lực cho chuỗi cung ứng của các lĩnh vực sản xuất. Trong thời đại của nền kinh tế công nghệ cao, các nguyên tố đất hiếm có mặt khắp mọi sản phẩm công nghiệp như xe hơi, điện thoại di động, vệ tinh, động cơ, hỏa tiễn dẫn đường bằng tia laser… Một báo cáo của RAND Corporation cho biết trong động cơ và các thiết bị điện tử của mỗi chiếc máy bay chiến đấu F-35 Lightning II thế hệ mới nhất của Hoa Kỳ có khoảng 450 kg nguyên tố đất hiếm. Reuters đã từng loan tin, Việt Nam trong năm 2022 tăng sản lượng đất hiếm lên 10 lần và trong năm nay hãng Australian Strategic Materials Ltd. sẽ mua 100 tấn đất hiếm của Việt Nam. Hãng tin Reuters vào đầu tháng qua loan tin dẫn nguồn Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ ước tính trữ lượng đất hiếm của Việt Nam chừng 22 triệu tấn, chỉ đứng sau TC và bằng phân nửa trữ lượng của nước láng giềng này thôi. Về trữ lượng và vùng phân bố của đất hiếm ở Việt Nam, một nhà nghiên cứu ở Hà Nội, phát biểu với điều kiện ẩn danh vì lý do an ninh, cho biết:“Lai Châu mới là địa phương có mỏ đất hiếm lớn nhất, theo một dự báo của Bộ Tài Nguyên Môi trường lên tới khoảng 21 triệu tấn, nhưng hiện vẫn chưa thể khai thác trên quy mô công nghiệp do thiếu đầu tư.” Về triển vọng của ngành khai thác đất hiếm của Việt Nam cũng như tiềm năng Việt Nam có thể thế chân TC trên thị trường thế giới khi TC định siết chặt hơn mặt hàng đất hiếm xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Châu Âu và các đồng minh khác, nhà nghiên cứu ẩn danh cho rằng ông không quá lạc quan về việc đất hiếm có thể giúp Việt Nam nâng tầm vị thế. Lý do theo nhà nghiên cứu này, “đất hiếm” nhưng không thật sự hiếm, và “nhu cầu đất hiếm toàn cầu thực ra khá ổn định (chưa tới 100 ngàn tấn/năm), Việc độc lập khai thác, chế biến đất hiếm ở Việt Nam không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Việc khai thác đất hiếm rất phức tạp và TC kiểm soát nhiều công nghệ thanh lọc đất hiếm ở Việt Nam. Ngay cả Mỹ, với tư cách là nước nhập khẩu đất hiếm lớn, cũng không có nhà máy chế biến đất hiếm trong nước và chỉ có thể xuất khẩu quặng đất hiếm sang TC để chế biến (cũng có thể vì khai thác đất hiếm phát sinh ra một lượng rất lớn phế thải cho nên các công ty Hoa Kỳ không muốc trang trãi một chi phí rất lớn, trong khi giá đất hiếm trên thị trường vẫn còn quá rẻ so với chi phí thanh lọc phế thải lỏng trong sản xuất!). Câu hỏi được đặt ra là liệu có công ty Mỹ nào sẵn sàng trả phí để phát triển các mỏ ở Việt Nam hay không dũ đã ký kết? Việt Nam bắt hàng loạt lãnh đạo ngành đất hiếm, gây lo ngại về kế hoạch cạnh tranh với Trung Quốc Bảng chỉ đường đến Đông Pao, mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam. Công an Việt Nam vừa bắt giữ sáu người bị cáo buộc vi phạm các quy định về khai thác mỏ, trong đó có chủ tịch của một công ty đi đầu trong nỗ lực xây dựng ngành công nghiệp đất hiếm để có thể cạnh tranh với sự thống trị của Trung Quốc trong lĩnh vực này, Reuters và truyền thông trong nước dẫn tin tức từ Bộ Công an cho biết hôm 20/10/2023. Trong số những người bị bắt có lãnh đạo của ít nhất một công ty tham gia đấu thầu là Công ty Cổ phần Đất hiếm Việt Nam (VTRE). Chủ tịch của VTRE, ông Lưu Anh Tuấn, đã bị buộc tội giả mạo biên lai thuế giá trị gia tăng khi mua bán đất hiếm với Tập đoàn Thái Dương, công ty điều hành một mỏ ở tỉnh Yên Bái, miền bắc Việt Nam. VTRE đã hợp tác với các công ty khai thác mỏ của Úc là Australian Strategic Materials (ASM) và Blackstone Minerals (đơn vị đàm phán đấu thầu các mỏ đất hiếm với Việt Nam). Các công ty này không có tên trong cuộc điều tra của cơ quan chức năng Việt Nam. Theo ước tính của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm (loại khoáng sản đặc biệt dành cho việc sản xuất các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao) lớn thứ hai trên thế giới với 22 triệu tấn. TC có trữ lượng đất hiếm lớn nhất với 44 triệu tấn, đứng thứ ba là Brazil với 21 triệu tấn.Tuy nhiên, phần lớn đất hiếm ở Việt Nam vẫn chưa được khai thác, đầu tư không được khuyến khích vì giá thấp do Trung Quốc ấn định và do nước này gần như độc quyền trên thị trường toàn cầu. Việt - Nhật Hợp Tác Khai Thác Đất Hiếm - Sản Xuất Chất Bán Dẫn Nhật Bản muốn hai nước Việt-Nhật hợp tác khai triển các dự án sản xuất chất bán dẫn, AI, khảo sát và khai thác đất hiếm. Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bàn Nishimura Yasutosh đưa ra đề nghị trên trong cuộc gặp với Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính vào chiều 3/11 và được truyền thông loan trong ngày 4/11/2023. Bộ trưởng Nhật Bản nói Nhật sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành của Việt Nam thông qua các các nhóm công tác để thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là trong chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực. Hai bên cũng tăng cường hợp tác cơ chế đa phương, nhất là CPTPP. Thủ tướng Việt Nam khẳng định Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản có nhu cầu đến đầu tư và đề nghị phía Nhật hỗ trợ để doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu của nước này. Việt Nam cũng đề nghị phía Nhật Bản hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ vốn và nâng cao năng lực quản trị để Việt Nam phát triển các lĩnh vực trên. Trước mắt, Việt Nam muốn Nhật hỗ trợ, cấp vốn vay ODA thế hệ mới cho các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn của Việt Nam, như dự án đường sắt tốc độ cao. Cùng với đó, phía Chính phủ Nhật xem xét đơn giản hóa thủ tục cấp visa, hướng tới miễn visa cho người Việt Nam vào Nhật Bản và tạo thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản sinh sống, học tập và làm việc. Kết luận Việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam, một quốc gia chưa đạt được trình độ công nghệ cao, có thể mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng đồng thời tiềm ẩn những rủi ro và thiệt hại đáng kể. Dưới đây là một số lợi ích và thiệt hại chính: Lợi ích: o Tăng trưởng kinh tế: Đất hiếm là nguyên liệu quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp công nghệ cao, bao gồm điện tử, năng lượng tái tạo, và quốc phòng. Khai thác đất hiếm có thể tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. o Tạo việc làm: Ngành khai thác đất hiếm có thể tạo ra hàng ngàn việc làm cho người dân địa phương, từ việc khai thác, chế biến, đến các công việc liên quan khác như giao thông vận tải và dịch vụ. o Phát triển công nghệ: Nguồn tài nguyên đất hiếm có thể góp phần vào sự phát triển của công nghệ tiên tiến và các ngành công nghiệp liên quan, giúp cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. o Đầu tư và cơ sở hạ tầng: Các dự án khai thác lớn có thể thu hút đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như đường giao thông và cơ sở hạ tầng năng lượng, có thể mang lại lợi ích lâu dài cho các khu vực khai thác. Thiệt hại: o Tác động môi trường: Khai thác đất hiếm thường liên quan đến việc sử dụng hóa chất độc hại và gây ra ô nhiễm nước và không khí. Điều này có thể dẫn đến hủy hoại môi trường, suy giảm chất lượng đất và nước, và ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái. o Tác động sức khỏe cộng đồng: Những hóa chất và bụi từ quá trình khai thác có thể gây ra vấn đề sức khỏe cho người dân sống gần khu vực khai thác, bao gồm các bệnh liên quan đến hô hấp và nhiễm độc kim loại nặng. o Suy giảm tài nguyên và xung đột xã hội: Khai thác đất hiếm có thể dẫn đến sự suy giảm tài nguyên và gây ra xung đột giữa các cộng đồng địa phương và các công ty khai thác, đặc biệt là khi quyền lợi không được phân chia công bằng. o Ảnh hưởng đến văn hóa và cộng đồng: Các dự án khai thác có thể làm thay đổi cách sống của các cộng đồng địa phương, bao gồm việc di dời dân cư và làm ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa truyền thống. o Rủi ro kinh tế: Nếu không quản lý tốt, việc khai thác đất hiếm có thể dẫn đến hiện tượng "bẫy tài nguyên," nơi mà sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên duy nhất có thể làm cho nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương trước biến động giá và thị trường. Nhằm khai thác đất hiếm một cách bền vững, Việt Nam cần chú trọng đến việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, đảm bảo sự công bằng trong phân chia lợi ích, và đầu tư vào công nghệ khai thác sạch hơn. Đồng thời, cần có các chính sách quản lý và giám sát chặt chẽ để giảm thiểu những tác động tiêu cực và tận dụng tối đa các lợi ích mà khai thác đất hiếm mang lại. Cần tập trung vào khoa học kỹ thuật khai thác cũng như cân bằng với việc bảo vệ môi trường chung hơn là chú trọng vào lợi nhuận và “bòn rút” hay tham nhũng! Mai Thanh Truyết Houston 7/20/2024

Wednesday, July 24, 2024

Tình trạng Đại học Việt Nam qua nhận định của thế giới Quy mô giáo dục đại học tăng Qua bốn bảng thống kê về sự tăng trưởng số trường đại học ở Việt Nam cùng các số liệu về số sinh viên, giáo sư, giảng viên đại học từ năm 2010 đến 2012, chúng ta thấy gì? Tính đến năm 2022, trong 172 cơ sở GDĐH công lập có 146 cơ sở đào tạo công lập trực thuộc các cơ quan trung ương (tính cả các đại học quốc gia, đại học vùng và các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc các đại học quốc gia, đại học vùng); 26 cơ sở công lập trực thuộc các địa phương. Ngoài ra, còn có 20 trường cao đẳng sư phạm (03 trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, 17 trực thuộc các địa phương). Trong 67 cơ sở GDĐH ngoài công lập có 05 cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô đào tạo tăng, sinh viên tốt nghiệp giảm Số lượng trường đại học tăng, giảng viên tăng giúp cho quy mô đào tạo (chính quy, từ xa, vừa làm vừa học tăng. Dân số Việt Nam 2014 90 triệu, 2020 97.580.000, 100.300.000 người năm 2023. Nhìn chung, tóm lược từ nhiều nguồn tin trên mạng, người viết nhận thấy mạng lưới các trường đại học được phân bố trên khắp cả nước và các vùng miền. Tuy nhiên, mật độ các trường rất chênh lệch, các trường tập trung vào những vùng kinh tế phát triển như Đồng bằng sông Hồng (44,3%), Đông Nam Bộ (18,4%), thấp nhất ở vùng Tây Nguyên (1,6%). Có một điều gì đó, Đồng bằng Sông Cửu Long đã không được đoái hoài tới, số trường đại học và Cao đẳng tăng trưởng không cân xứng với việc gia tăng dân số so với các vùng khác. Thậm chí các trường trung và tiểu học cũng còn vá víu, hoàn toàn để cho địa phương lo liệu mà không có sự giúp đỡ của trung ương. Đây là một điều nghịch lý trong chính sách giáo dục của cộng sản Bắc Việt. Người viết xin mở một câu hỏi trong vấn đề kỳ thị hay triệt hạ miền Nam? Hệ thống trường tư thục đã có những đóng góp quan trọng trong việc đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tuy nhiên, số lượng và quy mô trường vẫn còn hạn chế, chưa đạt được mục tiêu Nghị quyết 35-NQ/CP đề ra (đến 2020 có 28% trường đại học tư thục). Năm học 2021 – 2022 có trên 2 triệu sinh viên đang theo học đại học, trong đó có 80,56% sinh viên đang học trong các cơ sở đào tạo công lập; đào tạo chính quy chiếm 88,21%, vừa làm vừa học 8,52% và đào tạo từ xa 3,27%. • Nhận định của GS.TS Lê Anh Vinh Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam thông tin: Năm 2022 cả nước có 239 cơ sở GDĐH (172 cơ sở đào tạo công lập và 67 cơ sở đào tạo ngoài công lập), năm 2009 có 150 cơ sở GDĐH (106 cơ sở đào tạo công lập, 44 cơ sở đào tạo ngoài công lập); năm 2015 có 214 cơ sở GDĐH (156 trường công lập và 58 cơ sở đào tạo ngoài công lập). Như vậy, số cơ sở giáo dục đại học tăng dần trong những năm gần đây. Số trường đại học tăng dần theo thời gian nhưng sự phân bổ không đều. Số trương ở miền Bắc tang nhanh và nhiều hơn so với số trường ở trong Nam nếu tình theo tỷ lệ dân số. Vì đâu nên nỗi? Câu hỏi được đặt ra có phải: - Đại học không còn là một điểm đến hấp dẫn đối với thanh niên ngày nay? - Hoặc văn hóa Việt, từ ngàn xưa xem giáo dục là thước đo con người, nay đã chuyển hướng thành văn hóa xã nghĩa, lấy vật chất, tiền tài, quyền lực làm kim chỉ nam? - Bộ mặt xã hội Việt đã thay đổi vì chính sách quản lý xã nghĩa không còn xem việc…tiên học lễ, hậu học văn nữa? - Hoặc chính vì Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương đảng, Thành ủy, Tỉnh ủy, Quận ủy, Xã ủy, Tổng Giám đốc, Giám đốc Cty quốc doanh….đều xử dụng BẰNG CẤP GIẢ cho nên tuổi trẻ Việt Nam không còn tin tưởng vào giáo dục Việt Nam nữa hay sao? Và các câu trả lời phải chăng là tổng hợp của cả bốn câu hỏi trên? Dù là thế nào đi nữa, chắc chắn hệ thống đại học Việt Nam đang có vấn đề. Và vấn đề cũng không khác gì những yếu tố đã nêu ra trong những bài viết trước đây, như “Hiện trạng giáo dục Việt Nam”, “Giáo dục bậc Tiểu học và Trung học”, “Nguyên do và thách thức trong giáo dục Việt Nam”. Các bài viết trên đã được trình bày trong quyển sách “Việt Nam Tương Lai” của người viết. Riêng ở bậc giáo dục đại học, vấn đề càng trầm trọng hơn nữa, vì nơi đây là nơi kết tụ nguyên khí quốc gia, quyết định cho sự phát triển và hưng vong của dân tộc. Một chuyên gia giáo dục (xin không nêu danh vì tính cách tế nhị của vấn đề) thuộc Đại học Sài Gòn, nằm trong nhóm “Think Tank”, nhóm chuyên gia độc lập có nhiều nhận định về các viễn kiến có thể xảy ra trong tương lai Việt Nam nhận xét:”Chúng ta (Việt Nam) muốn làm quá nhiều việc cùng một lúc, nhưng thất bại trong việc tập trung chính sách để sửa chữa một vấn đề quốc gia”. “Tiếc thay, chúng ta phí phạm quá nhiều thời gian và tài nguyên tiêu tốn vào những chuyện vô ích khác để duy trì hệ thống”. Nhận định trên thật là đúng cho tình trạng giáo dục Việt Nam hiện tại, nhứt là ở bậc đại học. Hiện tại, Việt Nam đang thực hiện hai kế hoạch có tính cách toàn diện trong giáo dục., đó là: • Dự án chính phủ với kinh phí 443 triệu Mỹ kim để đào tạo một thế hệ lao động thông thạo Anh ngữ cho đến năm 2020. Dự án nầy đã được chấp thuận kinh phí từ năm 2008, nhưng chỉ mới bắt đầu khai triển năm 2012 (!). Đây là một dự án có quá nhiều tham vọng trong điều kiện và khả năng Anh ngữ hiện có của thanh niên Việt rất yếu. Một dự án so với kinh nghiệm các quốc gia khác như Thái Lan cần phải mất hàng ba thập niên, nhưng Việt Nam chỉ dự trù dưới 10 năm(!). Vì vậy tính khả thi của dự án kể như không có, cũng như chưa kể đến mọi “nhấm gậm, rút ruột” dự án như trong quá khứ. Chúng ta vẫn không quên, mười năm trước đây, Việt Nam có một dự án quốc gia là điện toán hóa hệ thống công quyền và hành chánh Việt Nam, tiêu tốn hàng trăm triệu Mỹ kim…nhưng rồi tất cả đi vào quên lãng sau khi được tháo khoán, và hàng chục Ủy ban thanh tra, thanh lý …đều phải quy phục, không dám giải quyết vì có mệnh lệnh từ…quý “Anh Nhớn”. Năm nay là năm 2024, hầu như tất cả những dự án trên, kinh phí dự trù đã tiêu hết sạch nhưng “báo cáo” kết quả hầu như không có văn bản chính thức nào cả…nghĩa là kinh phí đã được … cùng nhau chia chác theo…thứ bậc cán bộ! • Một dự án có nhiều tham vọng khác là đào tạo 20.000 Cao học và Tiến sĩ với trình độ quốc tế từ năm 2012 cho đến năm 2020. Đây lại thêm một dự án “không tưởng” cho các đỉnh cao trí tuệ Việt Nam. Hiện tại, với trên 3 triệu đảng viên (năm 2012), há lẽ, Việt Nam không có đủ 20 ngàn Tiến sĩ hay sao, mà phải đợi đến năm 2020? Đối với một dự án tương tự như trên, TC và Đại Hàn phải mất 20 năm và tiêu tốn nhiều tỷ Mỹ kim mới đạt được tiêu chuẩn trên. Nhưng Việt Nam thì khác, cho đến cuối năm 2021 số TS Việt Nam đã qua ngưỡng cửa 25.366, bỏ xa TC và Đại Hàn nếu tính theo tỷ lệ dân số (???) Chính vì tầm quan trọng của giáo dục đại học, ảnh hưởng trực tiếp và dài hạn đến tương lai của dân tộc, thiết nghĩ các tác giả của những chương trình, dự án quốc gia cần phải: • 1- Thực tế, • 2- Có tâm và tầm, • 3- Có trình độ khoa học kỹ thuật đủ để lượng định tình hình, • 4- Đừng “hoang tưởng” vẽ ra hình ảnh…thiên đàng xã hội chủ nghĩa, mà cần phải nhìn vào sự thực đến từ những nhà giáo dục thực sự trên thế giới. Trong một báo cáo của Trường đại học Kennedy thuộc Đại học Harvard ghi nhận rằng:”Đại học Việt Nam đã “khuấy động” ra một tầng lớp lao động trang bị một cách “bịnh hoạn” để giải quyết những thách thức về kinh tế, xã hội của đất nước trước tiến trình toàn cầu hóa”. (Vietnamese universities were churning out a workforce ill-equipped to tackle the nation’s socio-economic challenges in a globalizing world). Phòng Thương mại Âu Châu (EuroCham) đã nêu ra trong cuốn Bạch Thư (White Book) ấn hành cuối năm 2012 nêu rõ:”Hệ thống giáo dục Việt Nam đang đối mặt với cơn khủng hoảng trầm trọng ảnh hưởng đến lực lượng lao động hiện có và các tài năng đang được đào tạo”. Thêm nữa, Bạch thư nhấn mạnh:”Học trình và phương pháp giáo dục trong đại học hiện tại đã tạo ra một nhịp tấu không hòa điệu (discord) giữa khả năng và kỷ năng mà các công ty đòi hỏi trong hành trang của sinh viên khi bước vào thị trường lao động”. Qua hai nhận định xác đáng trên, chúng ta thấy ngay sự thất bại của những nhà làm giáo dục Việt Nam. Và chính những thất bại căn bản nầy sẽ là một hậu quả tai hại không lường vì tham vọng không tưởng quá lớn của Việt Nam trong việc “mưu sinh thoát hiểm” để thoát khỏi cơn khủng hoảng kinh tế hiện đang xảy ra trong nước cũng như việc mưu cầu cho một nền kinh tế phát triển phồn thịnh trong tương lai! Việt Nam hiện có hai phần ba dân số sinh sau 1975 và 1/3 dân số nằm trong khoảng tuổi từ 10 đến 25, và đa số ở lứa tuổi nầy đều thất nghiệp vì không có đủ kỷ năng làm việc trong các hãng xưởng. 60% sinh viên tốt nghiệp hiện tại không có việc làm và cần phải được đào tại lại về kiến thức, kỷ năng và nhứt là thái độ (attitude) khi giao tiếp trong môi trường làm việc! Chính vì lý do nầy mà các công ty ngoại quốc ngại việc đầu tư vào Việt Nam vì mang nhân viên, chuyên viên từ hải ngoại về rất tốn kém, và việc “tái huấn luyện” lao động tại chỗ càng tốn kém hơn và đôi khi không có hiệu quả. Chúng ta còn nhớ, khi Công ty INTEL mở một chi nhánh ở Sài Gòn năm 2010, trong hơn 2.000 ứng viên đã tốt nghiệp đại học nộp đơn xin việc, họ chỉ chọn được 50 người và cần phải gửi đi huấn luyện lại! Và sự việc nầy đã được tái lập năm 2021, khi Cty đã quyết định đầu tư vào Việt Nam một lần nữa; nhưng sau khi khảo sát thị trường lao động chuyên một, một lần nữa Cty lại quyết định rút lui hẵn, và ra khỏi Việt Nam. Chúng ta hãy nghe Nicola Connolly, Phó Tổng Giám đốc EuroCham, nói việc huấn luyện nầy đòi hỏi phải huấn luyện các cô cậu Cử Việt Nam trên một năm mới có thể hội nhập vào dòng tiêu chuẩn lao động chuyên môn quốc tế. Báo Tuổi Trẻ kể, Đại học cấp bằng Tiến sĩ đó là qua chương trình tiến sĩ của ĐH Bulacan State (Philippines), và tuyển sinh từ Trường ĐH Ngoại thương (cơ sở TP.SG) và Trường ĐH Đại Nam (Hà Nội). Báo Tuổi Trẻ kể tiếp:”Nhiều chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ với nước ngoài tuyển sinh khá dễ dãi. Không yêu cầu ngoại ngữ đầu vào, thậm chí có người thông dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt trong quá trình học, bảo vệ luận án bằng tiếng Việt.” Một điểm nữa làm cho sinh viên tốt nghiệp sau khi đi vào công việc ở các nhiệm sở lại vấp phải hệ thống quản lý vi mô (micro-management), do đó tầm nhìn vĩ mô (macro-management) hoàn toàn thiếu vắng trong nhận thức của lãnh đạo, cho nên không thề phát huy sáng kiến được. Từ đó, tạo ra một hội chứng “mackeno” trong tâm trí người chuyên viên Việt…và hậu quả là các công ty quốc doanh đa số phải chịu thua lỗ. Thay lời kết Trước những bế tắc trong giáo dục và nhứt là giáo dục đại học, trước những rào cản trong công ăn việc làm, tuổi trẻ Việt Nam, những sinh viên ưu tú chỉ còn một lối thoát duy nhứt là…đi học ở ngoại quốc. Và tình trạng “tỵ nạn giáo dục” (education asylum) đã và đang diễn ra khắp nơi ở Việt Nam, tạo ra hiện tượng xuất não trí thức ngày càng trầm trọng hơn, không khác gì tình trạng “xuất cảng lao động” và “xuất cảng thân xác người phụ nữ”. Kể từ ngay sau khi TT Clinton giao thương với Việt Nam 1995, lúc ban đầu hàng năm có khoảng trên dưới 5.000 sinh viên du học. Nhưng kể tử năm 2013 trở đi, sỉ số sinh viên du học đạt hơn 15.000, hàng năm cứ tăng dần. Riêng năm 2023, theo tin tòa Đại sứ Mỹ tại Việt Nam cho biết theo báo cáo năm 2023 Open Doors Report của Viện Giáo dục Quốc tế (IIE), số sinh viên Việt Nam tại các trường đại học, cao đẳng Mỹ tăng 5,7% lên 21.900 sinh viên trong năm học 2022-2023. Tuy số sinh viên du học ngày càng tăng trong suốt hơn 20 năm qua, nhưng người viết chưa tìm được bất cứ thống kê nào từ phía Việt Nam hay Hoa Kỳ nêu lên số lượng các sinh viên du học trong quá khứ trở về quê quán!. Đó chính là một điều nghịch lý. Việt Nam cần chất xám cho phát triển, đầu tư thanh niên đi du học, nhưng rốt cuộc lại bị… xuất huyết chất xàm! Đây mới là một nguyên nhân cốt lõi khiến cho Việt Nam chậm phát triển sau 50 năm cai trị đất nước!. Mai Thanh Truyết Mùa hè Houston, 2024

Monday, June 24, 2024

Vài suy nghĩ về giáo dục Việt Nam hiện tại Theo kết luận của nhiều cuộc nghiên cứu quốc tế, một trẻ em học lớp 3 bậc tiểu học nếu không tiếp tục học lên lớp cao hơn, thì chỉ trong vòng 3 năm sau đó, em nầy được xem như “mù chữ’ vì những gì em đã học sẽ không còn tồn đọng trong trí của em nữa. Với dân số 91 triệu, niên học 2010-2011 đã quy tụ dưới 22 triệu học sinh các cấp và sinh viên trong cả nước, trong đó gồm 3 triệu trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầnm non, 18 triệu học sinh phổ thông, 400 ngàn học sinh trung học chuyên nghiệp, và khoảng 1.1 triệu sinh viên đại học thuộc các ngành chuyên môn khác nhau. Con số nầy vẫn không thay đổi nếu so với niên học 2004-2005 có dân dân số khoảng 84 triệu. Như vậy giáo dục Việt Nam có vấn đề? Nhìn chung và so sánh với tỷ lệ dân số, sĩ số sinh viên đại học vẫn còn quá ít chiếm khoảng 0,45% dân số mà thôi. Nếu lấy California làm thí dụ, Cali với 38 triệu dân trong đó có 4,7 triệu sinh viên chiếm 12,36%. Nghịch lý trên đây cho thấy giáo dục Việt Nam hiện tại không có sự phân bổ đồng bộ, nghĩa là hệ thống đại học không đủ cho nhu cầu quá tải của học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông hay chuyên nghiệp. Ở Việt Nam trước 1975, giáo dục miền Nam dựa theo ba mục tiêu: Dân tộc - Nhân bản - và Khai phóng. Từ 3 hướng trên, miền Nam đã cố gắng đáp ứng với những yêu cầu đề ra do Liên Hiệp Quốc về các quyền trẻ em như sau: • Quyền được giáo dục toàn diện là quyền được sống còn (right to survival); • Quyền được phát triển toàn diện (develop to the fullest); • Và quyền được bảo vệ chống lại các ảnh hưởng của quyền lực, lạm dụng và bốc lột, và nhất là quyền được tham dự vào các sinh hoạt gia đình, văn hóa và đời sống xã hội. Các quyền hạn trên được Liên Hiệp Quốc cổ súy để cho trẻ em trên thế giới có được một sự giáo dục toàn diện và hài hoà trong việc phát triển bản thân. Trong điều 3 của Thỏa ước Liên Hiệp Quốc có ghi rõ là trẻ em phải được đặc biệt hưởng các tiêu chuẩn y tế, giáo dục, tư pháp và các dịch vụ xã hội cần thiết để bảo vệ những gì tốt nhất cho trẻ em. Trong lúc đó, Việt Nam hiện tại đã phê chuẩn Thoả ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em vào ngày 20-2-1990 và công bố luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 21-8-1991. Cũng theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, trẻ em là tất cả trẻ em từ mới sơ sinh cho đến 16 tuổi. Nói như thế, nghĩa là Việt Nam xã nghĩa đã tiếp cận đầy đủ yêu cầu của LHQ và có thể áp dụng cho chương trình giáo dục trong nước. Tuy nhiên, có thể tóm tắt gọn nhẹ là Giáo dục Việt Nam hiện tại đang phải đối mặt với 4 vấn nạn căn bản như sau: Trường sở, Giáo viên, Chương trình học, và tệ hại hơn hết là tệ trạng thu học phí, lệ phí cho việc học và dạy kèm cũng như những áp lực vật chất và tinh thần từ phía phụ huynh và giáo viên. Đặc biệt đối với chương trình giáo dục, có những môn học hoàn toàn không cần thiết cho việc phát triển quốc gia vẫn được duy trì trên 30 năm nay và chiếm một thời lượng lớn trong chương trình học cũng như trong các cuộc thi tuyển vào đại học. Đặc biệt đối với trẻ em, có những môn học, tiết mục hoàn toàn không phù hợp với sự phát triển mầm non, mà trái lại có thể tạo ra những phản ứng tiêu cực cho xã hội trong tương lai. Một thí dụ về Quyết định của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo ngày 22-12-2004 vào mùa thi tuyển sinh từ năm 2005 là, học sinh phải thi tốt nghiệp 1 trong 2 phương án sau đây trước khi được ghi tên vào cuộc thi tuyển vào đại học: - Thứ nhất: Triết học Mac Lenin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mac Lenin, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam và tư tưởng HCM. - Thứ hai: Triết học Mac Lenin, Kinh tế chính trị Mac Lenin, Chủ nghĩa xã hội khoa học... Hiện tại các môn thi kể trên xuất hiện dưới dạng những môn học tuy có khác “tên” nhưng nội dung vẫn không thay đổi về định hướng xã hội chủ nghĩa … vô địch từ triết lý, khoa học xhcn, kinh tế xhcn, chính trị xhcn v.v… Thiết nghĩ, những môn học nầy không giúp ích gì được trong suy nghĩ của những chuyên viên Việt Nam tương lai ngõ hầu đóng góp cho công cuộc phát triển chung của đất nước. Một thí dụ nữa là nói về sách giáo khoa Đố vui để học của bộ Văn hóa Thông tin. Sách nầy đã gieo vào đầu óc các học sinh ngây thơ những hình ảnh hết sức tiêu cực của xã hôị đương thời. Trong sách trên, đầy rẩy những câu hỏi câu đố đại khái như sau: Mua cái bờm xôm, Tay ôm Thị Hến, Say sưa tới bến, Mặt đỏ phừng phừng, Một phút với cưng, Tiền lương mất sạch. Là gì? Lời giải: Bia ôm. Ngoài ra còn nhiều câu đố về đĩ điếm, Nhà chứa, Karaôkê ôm v.v... Phụ huynh của các em làm thế nào để giải thích cho một đứa em nhỏ thuộc hạn tuổi tiểu học về những vấn nạn hết sức tiêu cực trong xã hội Việt Nam hiện tại? Còn gì để nói nữa đây. Mai Thanh Truyết Một ngày “bức xúc” Ngày Hạ chí 2024

Saturday, June 15, 2024

Khởi nghĩa Yên Bái là một cuộc nổi dậy bằng vũ trang bùng phát tại Yên Bái, một phần trong cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) tổ chức và lãnh đạo nhằm đánh chiếm một số tỉnh và thành phố trọng yếu của miền Bắc Việt Nam vào ngày 9 tháng 2 năm 1930. Mục đích của cuộc nổi dậy là lật đổ chính quyền thuộc địa của Pháp để xây dựng một nước Việt Nam theo chính thể cộng hòa.[2] Tỉnh lỵ Yên Bái chỉ là một trong những mục tiêu của cuộc Tổng tấn công của VNQDĐ vào quân đội và chính quyền thuộc địa. Lực lượng khởi nghĩa bị đánh bại, đảng viên của VNQDĐ bị truy nã, giam cầm và hành hình. Các lãnh tụ Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính bị Pháp áp giải từ Hà Nội lên Yên Bái xử trảm cùng với 11 người khác sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930. Ngày tang Yên Báy 17-6-1930 Kính tặng hương hồn những liệt sĩ đã bỏ mình trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm! Trong bình minh sương lạnh phủ âm thầm. Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt. Toan lay tỉnh cả toàn dân nước Việt. Gió căm hờn rền rĩ tiếng gào than. Từ lưng trời, sương trắng rủ màn tang. Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ, Giữa mấy hàng gươm súng toả hào quang, Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự: Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ, Vài cụ già đầu bạc lệ ràn rơi Ngất người sau tiếng rú: Ối con ơi! Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn Trên khoé mắt đã từng khinh đau đớn Của những trang anh kiệt sắp lìa đời, Nhưng chỉ trong giây phút vẻ tươi cười Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước. Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước, Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường, Éo le thay! muốn phụng sự quê hương Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến. Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến. Sau cái nhìn chào non nước bi ai, Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng. “Việt Nam muôn năm!” Một đầu rơi rụng, “Việt Nam muôn năm!” Người kế tiến lên. Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc, Sau Đức Chính, đây là phiên Thái Học, Anh nghiêng mình trước xác những anh em, Rồi mĩm cười, Anh ngảnh mặt nhìn xem Những kẻ đến quan chiêm đoàn liệt sĩ Để từ biệt những bạn đồng tâm chí. Tiếng tung hô bổng nổi, vang trời cao, Nhưng liền theo Anh đã bị xô vào Chiếc gươm máy giăng tay chào, lặng lẽ. Đao xuống, đầu rơi, máu đào tung toé. Người anh hùng nước Việt thôi còn đâu! Lũ thực dân giám sát đúng nhìn nhau Như trút sạch hết những đìều lo ngại Và xoa tay chúng thở dài khoan khoái, Trong rừng người ứa lệ, Nguyễn Thị Giang Nén nỗi đau như cắt xé can tràng Đứng ngơ ngác lặng người bên Hữu Cảnh. Trong nắng sớm, gió căm hờn quát mạnh Như thề cùng những tử sĩ anh linh Vang dội cùng trên đất Việt điêu linh Những tiếng thét uy hùng vì giống Việt. Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm! Như tan trong gió mạnh khóc vang rầm Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt Cố lay tỉnh cả toàn dân nước Việt. Thân anh hùng đã nát dưới ngàn cây Nhưng tiếng hô còn phảng phất đâu đây, Mười lăm năm sau ngày sầu Yên Báy, Toàn thể giống Tiên Rồng cùng đứng dậy, Cố đuổi loài tham bạo khỏi non sông, Hơn hai năm đất Việt máu pha hồng Mà chiến sĩ vẫn một lòng cương quyết Thề tranh đấu đến khi nào nước Việt Được hoàn toàn đôc lập mới ngừng tay. Thế là dòng máu vọt dưới trời mây Một buổi sáng mười lăm năm về trước Đã vẽ được cảnh anh hùng nguyện ước. Đưa non sông ra khỏi chốn u trầm Cả toàn dân nước Việt đến muôn năm Vẫn ghi tạc trong tâm ngày hôm ấy, Ngày hôm ấy, ôi! ngày tang Yên Báy! Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm! Xé nát màn sương lạnh phủ âm thầm, Mười ba tiếng tung hô bao tráng liệt Đã lay tỉnh cả toàn dân nước Việt. Đằng Phương – Nguyễn Ngọc Huy Bài thơ này từng được sử dụng trong sách giáo khoa miền Nam trước đây.

Saturday, June 1, 2024

Lakewood Church của Giáo sĩ Joel Osteen Joel Osteen thừa kế Lakewood Church và mục vụ truyền hình từ cha anh, một mục sư Baptist miền Nam. Ông thành lập chương trình truyền hình của Lakewood và sản xuất các bài giảng trên truyền hình của cha mình trong 17 năm. Vào tháng 1 năm 1999, cha anh, John, qua đời vì một cơn đau tim. Hai tuần sau khi cha anh qua đời, Joel đảm nhận vai trò mục sư và nhà truyền giáo trên truyền hình của John mặc dù được đào tạo rất ít về tôn giáo chính thức. Năm 2003, Lakewood mua lại Trung tâm Compaq, nơi từng là sân nhà của đội bóng rổ NBA Houston Rockets. Việc trùng tu mất 15 tháng và tiêu tốn hơn 105 triệu USD. Lễ khai mạc Lakewood Church có sự tham dự của 56.000 người và bao gồm những vị khách nổi tiếng như Thống đốc Texas, Rick Perry và Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi. Năm 2006, Osteen lọt vào danh sách 10 người hấp dẫn nhất của Barbara Walters. Đến năm 2008, kênh truyền hình phục vụ hàng tuần của nhà thờ đã được xem ở hơn 100 quốc gia. Joel và gia đình được mời tham dự bữa sáng Phục sinh do Tổng thống Barack Obama tổ chức tại Nhà Trắng năm 2010. Kể từ đó, chương trình phát sóng của Nhà thờ Lakewood đã phát triển theo cấp số nhân và có thể được xem ở 100 quốc gia khác nhau. Joel đã mở rộng cả hội thánh và mục vụ truyền hình trên toàn cầu. Nhà thờ chào đón hơn 50.000 giáo dân mỗi tuần. Các bài giảng trên truyền hình hàng tuần của Osteen được trung bình bảy triệu người xem mỗi tuần và 20 triệu người mỗi tháng. Dù không có bằng cấp chính thức nhưng anh đã trau dồi kỹ năng rao giảng của mình đến mức hoàn hảo dưới sự hướng dẫn của cha mình. Để chuẩn bị cho bài giảng của mình, Osteen ghi nhớ các bài phát biểu của mình và sau đó nghe lại chính mình trên băng. Ông tự nhận rằng anh cố gắng dạy các nguyên tắc Kinh thánh một cách đơn giản và dễ hiểu, tập trung vào sức mạnh của tình yêu thương và thái độ tích cực. Năm 2004, Joel viết cuốn sách đầu tiên “Cuộc sống tươi đẹp nhất của bạn ngay bây giờ” - Your Best Life Now. Cuốn sách được tiếp thị như một cuốn sách có tư duy tích cực, nó đứng đầu danh sách Sách bán chạy nhất của New York Times và ở đó trong 200 tuần. Sự nổi tiếng của cuốn sách nầy và các bài giảng của ông đã cho phép Joel mang thông điệp "Sống hết khả năng của bạn" – “live at your full potential” đến các đấu trường thể thao cháy vé trên khắp thế giới. Cuốn sách thứ hai của ông “Trở thành một người tốt hơn” - "Become A Better You" xuất bản năm 2005, đã bán được bốn triệu bản và được cho là đã mang về cho mục sư hơn 13 triệu USD tiền ứng trước và tiền bản quyền. Năm 2005, Osteen bắt đầu chuyến du lịch qua 15 thành phố của Hoa Kỳ để ủng hộ cuốn sách của mình và ông đã thuyết giảng cho rất đông người tại mỗi địa điểm. John McCain từng mô tả Osteen là tác giả truyền cảm hứng yêu thích của ông. Joel Osteen đã viết hơn 20 cuốn sách trong suốt sự nghiệp của mình, bao gồm cuốn sách mới nhất "Quy tắc ngày của bạn: 6 chìa khóa để tối đa hóa thành công và tăng tốc ước mơ của bạn" - "Rule Your Day: 6 Keys to Maximizing Your Success and Accelerating Your Dreams" và "Sự vĩ đại hơn của bạn đang đến: Khám phá con đường dẫn đến Tương lai của bạn Lớn hơn, Tốt hơn và Tươi sáng hơn". - "Your Greater is Coming: Discover the Path to Your Bigger, Better, and Brighter Future." Đừng bỏ lỡ chiếc bát gốm xinh đẹp và đa năng này được trang trí bên ngoài và bên trong với 2 Corinthians 9:8, “Và Đức Chúa Trời có thể ban phước dồi dào cho bạn, để trong mọi lúc, có đủ những gì bạn cần, bạn sẽ làm đủ mọi việc lành.” Hoàn hảo cho bất cứ nơi nào trong nhà hoặc văn phòng của bạn, hãy để chiếc bát dồi dào bằng gốm này là lời nhắc nhở về những phước lành dồi dào mà Chúa dành sẵn cho bạn. Giáo sĩ Joel Osteen tuyên bố:”Không ích kỷ khi dành thời gian cho bạn. Bạn cần thời gian để sảng khoái, tái tạo năng lượng. Bạn không nên bận rộn đến mức không có thời gian ở một mình, thời gian để cười, thời gian để tập thể dục. Bạn cần giải trí. Bạn cần những thứ giúp bạn giữ thăng bằng.” - It’s not selfish to take time for you. You need time to get refreshed, to reenergize. You shouldn’t be so busy that you don’t have time to be alone, time to laugh, time to exercise. You need recreation. You need things that keep you in balance. Người viết đã từng nghe Giáo sĩ Joel Osreen ba lần ở Lakewood Church. Ờ lần đầu tiên, vì là khách đến lần đầu cho nên được hướng dẫn ngồi hàng ghế đầu tiên, và có dịp quan sát kỹ lưỡng buổi thuyết giảng. Buổi lễ hôm đó cách đây độ 4 năm có khoảng 10.000 người tham dự. Không giống như các buổi lễ ở các nhà thơ Cơ Đốc Giáo, nói là buổi lễ chứ thật sự là một buổi diễn thuyết của ông lồng khung trong những câu chuyện ngoài đời, chuyện gia đình vợ con ông làm từ thiện và sống chung với một bộ lạc ở Phi Châu một thời gian cũng như các sự giúp đỡ và cố gắng giải thích cho người dân sống một cách “văn minh hơn”. Trong suốt buổi giàng thỉnh thoảng có chen vào những bản nhạc vui tươi và giáo sĩ cũng nhảy múa như một ca sĩ, hay kịch sĩ…Người viết cũng hiểu “lỏm bỏm” ý nghĩa của bài giàng hôm đó là…Bạn cần thời gian để sảng khoái, tái tạo năng lượng. Bạn không nên bận rộn đến mức không có thời gian ở một mình, thời gian để cười, thời gian để tập thể dục. Bạn cần giải trí. Bạn cần những thứ giúp bạn giữ thăng bằng… Cuối buổi lễ một ly rượu lễ nhỏ được mang đến tận tay… Vui, hữu ích, thông thoáng, thực tế, và rất “đời thường”, người viết được khai tâm về một nét giảng đạo độc đáo của Giáo sĩ Joel Osteen. Mai Thanh Truyết