Thursday, March 31, 2022

 

  

MỘT PHÓNG VIÊN NGƯỜI ĐỨC Uwe Siemon-Netto

VIẾT VỀ VIỆT NAM...

 

Cuốn sách Đức: “A reporter's love for a wounded people” - Tình yêu của một phóng viên đối với những người bị thương ở Việt Nam (CreateSpace, 278 trang, 25 US$), nhà báo người Đức Uwe Siemon-Netto đưa chúng ta trở về câu chuyện chiến tranh ở Việt Nam… 

Từ chương “Uwe’s In Memoriam” đến trang cuối cùng của phần kết, tác giả đưa ra trường hợp của mình rằng cuộc chiến ở Việt Nam không phải là cuộc chiến giải phóng. Siemon-Netto không phải là người thích đếm số lượng cơ thể, nhưng con số thương vong và những người phải di dời được liệt kê trong trang tưởng niệm của cuốn sách là đáng kinh ngạc. 

Việc theo dõi chuỗi sự kiện trong sách đôi khi rất khó, nhưng không phải lúc nào chiến tranh cũng diễn ra theo một cách có trật tự. Tác giả miêu tả những cảnh bị tra tấn, chết chóc và mất mát mà người dân Việt Nam phải chịu đựng. Trong khi cũng có những khoảnh khắc hài hước, chúng tồn tại dưới một đám mây đáng sợ. 

Tác giả là một người sống sót sau các vụ đánh bom trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở Đức, và có lẽ điều đó giải thích tại sao ông hiếm khi đề cập đến nỗi sợ hãi của bản thân khi ở dưới hỏa lực. 

***

Xin chia xẻ đoạn kết của cuốn sách “lượm” trên mạng nhưng không thấy tên người dịch, xin mạng phép chuyển lên.

 Đoạn kết: 

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng 

Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng”. 

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài. 

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. 

 Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ? 

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. 

Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy. 

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng”. Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? 

Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? 

Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối? 

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu? 

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật ăn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân”. 

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân. 

Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại? 

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

 Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927). 

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội. 

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ? 

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?

 Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội? 

Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki? 

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. 

Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012). 

Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả. 

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau: 

Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!” 

Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố”.

 Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này. 

Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là: 

Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. 

Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do. 

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. 

Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra. 

Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. 

Chỗ của tôi ở đâu bây giờ?

Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

 









 

Trích một đoãn văn của tác giả Phạm Thanh Tòng trên mạng.

Xin chia xẻ cùng Quý Vị

***

Một nét văn hóa miền Nam

 

   Hôm trước, vào một buổi chiều muộn, sau khi mua ít đồ từ chợ bước ra, tui thấy một bà cụ chừng bảy mươi. Bà ăn mặc đẹp đẽ thẳng thớm, tóc bới cao, gương mặt trang điểm nhẹ, bày chiếc bàn xếp ra sau đuôi xe mình, đặt mấy nải chuối xanh trên đó. Ngang qua, bà cười thật tươi với tui:

– Cậu ơi, mua giùm tui nải chuối đi cậu, chuối xiêm đen nhà trồng ngon lắm.

  Cái thằng chẳng mấy khi ăn chuối định cám ơn rồi lướt qua nhưng đành dừng lại. Có lẽ bị nắm níu bởi cái giọng nói quá chừng ngọt.

– Bao nhiêu một nải vậy bà ơi?

– Dạ thưa cậu, năm đồng. Cái này là chuối xiêm đen nên nó mắc hơn chuối thường một chút.

– Vậy bà cho con hai nải nhe.

– Cậu ơi, sắp tối rồi, hay là cậu lấy giúp bà già bốn nải này luôn đi. Ăn hổng hết mình bỏ tủ lạnh hoặc nấu chè hay làm chuối chiên cũng ngon. Chưn cẳng tui bị khớp, ngồi từ chiều giờ bán được có một nải. Tối rồi, cậu lấy hết, tui tính 18 đồng thôi.

– Dạ được rồi, bà lấy hết cho con đi.

Bà cẩn thận gói mỗi nải vô từng bịch riêng, còn dặn dò thêm cách phân biệt chuối xiêm đen và xiêm thường.

   Thằng tui cứ đứng xớ rớ hoài, hỏi thăm đủ thứ. Là để được nghe cái giọng nói ngọt mềm, được nghe cái cách nói của một-người-miền-Nam-cũ khi trước mỗi câu trả lời, bà đều “ DẠ THƯA CẬU”.

   Thấy đâu đó bóng dáng bà nội, bà Tư, thấy mình như đang đứng giữa cái vùng đất đã từng được lớn lên, với những con người hiền hoà, khiêm nhường và quá đỗi ngọt ngào trong ứng xử. Tự nhiên thấy quê hương ở ngay trên chỗ này, ngọt ngào vô phương.

   Bà Tư, bà nội hay bà bán chuối của tui, chẳng ai được học cao nhưng cái văn hoá ứng xử của họ sao mà văn minh mà dễ thương quá trời quá đất. Nói tới đây, tự nhiên so sánh, rồi tiếc ngẩn tiếc ngơ cái văn-hoá-miền-Nam. Ai tiếc nuối những phố phường thênh thang xưa cũ, những áo dài thắt eo hay thể chế Cộng Hoà gì đó, cứ việc. Riêng tui, tui tiếc nuối một miền Nam hiền hoà, văn minh và lịch thiệp. Miền Nam vẫn chình ình đó, không mất đi đâu.

   Nó chỉ mất một thứ:

- Văn Hoá.

   * Chia sẻ riêng với mấy bạn trẻ:

Thiệt ra, khoảng một nửa thành công trong cuộc sống của các bạn sẽ được quyết định bởi cách các bạn xài những “Dạ", "Thưa", “Cám ơn”, “Xin lỗi”. Thiệt!

 










Wednesday, March 30, 2022

 

 

Trong mùa chay của Thiên Chúa Giáo, thân chuyển những câu hỏi mộc mạc dưới đây để cùng chiêm nghiệm. 

*** 

CHO TÔI HỎI? 

Tôi hỏi đất: Đất sống với nhau thế nào? 

Đất trả lời: Chúng tôi làm nền móng cho nhau. 

Tôi hỏi nước: Nước sống với nhau thế nào? Nước trả lời: Chúng tôi hoà lẫn vào nhau. 

Tôi hỏi gió: Gió sống với nhau thế nào? Gió trả lời: Chúng tôi nâng cánh cho nhau. 

Tôi hỏi mây: Mây sống với nhau thế nào? Mây trả lời: Chúng tôi tan biến vào nhau. 

Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với nhau thế nào? Cỏ trả lời: Chúng tôi hoà quyện và réo rắt bên nhau. 

Tôi hỏi cây: Cây sống với nhau thế nào? Cây trả lời: Chúng tôi che chở và leo quấn cho nhau 

Tôi hỏi người: Người sống với nhau thế nào? 

Không ai trả lời, Không ai nói gì cả. 

·    -   Vì người còn đang bận giận hờn và chà đạp lên nhau 

·      - Vì người còn chôn chặt nụ cười và không cùng chia xẻ. 

·      - Vì người còn nghi kị và mưu chước lẫn nhau 

·      - Vì người còn nặng nỗi thương đau. 

·      - Vì người còn quên cách yêu nhau 

·     -  Vì người còn chưa biết được rằng sự sống vốn rất mau... tàn lụi.












Monday, March 28, 2022

  

Sống trong hang động ở Trung Cộng

Ở Trung Cộng, hiện có:

·      Trên 500 triệu người nghèo sống dưới mức nghèo theo tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc 2US$/ngày (200 triệu dân), và từ 2-5 US$/ngày (300 triệu dân);

·      Trên 50 thành phố ma đang tồn tại (dự trù chứa 500.000 dân/thanh phố);

·      Trên 30 triệu dân hiện vẫn còn sống và ở trong hang động dưới đây.

Chúng ta hiện đang ở thế kỷ 21 và ý tưởng về con người vẫn sống trong hang động dường như là không thể hiện hữu được. Tuy nhiên, hình thức nhà ở cổ xưa này vẫn còn tồn tại đối với một số người sống ở Cao nguyên Hoàng thổ - Loess Plateau,   một khu vực nằm ở tỉnh Thiểm Tây - Shaanxi miền bắc Trung Cộng.

Khi chúng ta phải xếp hàng dài bên ngoài các cửa hàng của Apple để trở thành một trong những người đầu tiên mua iPhone mới nhất, thì có hơn 30.000.000 người ở TC vẫn đang sống trong các hang động, được gọi là yaodong. Con số đó nhiều hơn tổng số dân số của Úc! May mắn thay, nơi họ gọi là nhà đã làm tốt công việc giữ lạnh trong mùa đông và giữ nhiệt trong mùa hè.

Câu hỏi được đặt ra là:

Trung Cộng có tự hào là một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới hay không?









Sunday, March 27, 2022

 

Thưa Bà Con,

YourStory kỳ nầy xin giới thiệu một nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang.Ông sinh năm 1944 ở Sơn Tây (miền Bắc Việt Nam). Tháng 4 năm 1954, cha ông (là viên chức trong ngành giáo dục) được điều động vào Sài Gòn. Nguyễn Đức Quang – lúc đó mới 10 tuổi, theo cha mẹ vào Nam. Sau hiệp định Genève (tháng 7 năm 1954), đất nước bị chia đôi, gia đình Quang cũng bị chia cắt: người anh cả cùng ba người chị gái ở lại miền Bắc, chỉ có ông và đứa em trai út sống ở miền Nam.

Về tác phẩm của ông, phải kể đến những bài: "Chiều qua Tuy hòa", "Việt Nam Quê hương ngạo nghễ", "Về với Mẹ Cha", "Bên kia sông", "Xin chọn nơi này làm Quê hương"…

Trong phong trào Hướng đạo Việt Nam, ông là một hướng đạo sinh và một trưởng hướng đạo.

Năm 1979 ông vượt biên sang Hoa Kỳ tỵ nạn và định cư ở Little Saigon, California. Ông hợp tác với các Nhật báo Người Việt, Viễn Đông rồi sau đó đứng ra lập tuần báo Chí Linh và Nguyệt san Phụ nữ Diễn đàn. Một thời ông cũng đóng góp trên chương trình phát thanh và truyền hình VOC. Hướng đạo Việt Nam đã tặng ông giải thưởng cao quý nhất: Bắc đẩu huân chương.

Sau một thời-gian lâm trọng bệnh sau khi bị tai biến mạch máu não, ông từ trần lúc 04:00 sáng ngày 27 tháng 3 năm 2011 tại tiểu bang California, Hoa Kỳ.

***

Nhớ Về Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang

Năm 1968, lúc đó tôi đang ở Besancon, Pháp. Hội đàm Paris gồm Việt Nam Cộng Hòa, Bắc Việt, Mặt Trận Giảo phóng miền Nam, và Hoa Kỳ bắt đầu nhóm họp vào tháng 5 tại Paris.

Các buổi họp hàng tuần thật gay gắt chỉ nhắm vào vị trí của từng phái đoàn, và hình thể chiếc bàn vuông hay bàn tròn… Sau cùng, phải mất hơn sáu tháng mới chọn bàn hình bầu dục làm bàn họp!

Tinh thần sinh viên, đặc biệt là Tổng hội Sinh viên tại Paris lúc đó rất hăng say. Tôi hầu như chạy lên Paris hàng tuần trưa thứ sáu, ngay sau khi ra khỏi phòng thí nghiệm. Vì như cầu, tôi, lúc đó là Tổng thư ký Hội sinh viên Besancon, đề nghị thành lập tờ báo để góp mặt vào phong trào đấu tranh ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa.

Tờ báo có tên là TIẾNG NÓI, quay bằng rénéo mượn của một Cha giáo xứ tại đây (Anh Nguyễn Ngọc Lân phụ trách trình bày hiện đang ở tại Orlando). Báo hoàn toàn do anh chị em sinh viên cùng một số mạnh thường quân tức bà con cư ngụ trong vùng Franche Comté (là tỉnh và Besancon là thi xã của tỉnh). Thời đó, Người Việt mình chưa có business nào hết.

Tinh thần anh chị em sinh viên rất cao lúc đó, hàng tuần thường sinh hoạt tại giáo xứ hay tại câu lạc bộ của ký túc xá. Và bài hát khởi đầu luôn luôn là bài “Không phải là lúc…” của Nguyễn Đức Quang được tôi khởi xướng. Và cũng chính bài hát nầy, tôi đã đưa GS Nguyễn Ngọc Huy (Cố vấn của Phái đoàn VNCH) và BS Trần Văn Bình, bác sĩ riêng của Cụ Trần Văn Hương, lúc đó là Tùy viên Văn hóa của Tòa Đại sứ VNCH đi cùng khắp các tỉnh miền Đông nước Pháp như Colmar, Belfort, Mulhouse, Strasbourg, Nancy…

Anh nhạc sĩ du ca ơi!

Tôi không quên anh, những lời “Không phải là lúc ta ngồi đặt vần đề…” tôi đã được nghe anh và Đinh Quang Anh Thái hát trong một buổi du ca tại nhựt báo Người VIệt cách đây không lâu vẫn còn văng vẳng đâu đây.

Tôi và những anh chị em sinh viên tranh đấu thời đầu 1960 sẽ không bao giờ quên anh đâu anh Quang. Anh ra đi, nhưng tối thiểu anh còn để lại cho những anh chị em cùng thế hệ với nhau ngọn lửa đấu tranh cho chính nghĩa thích ứng với dòng máu năng động và hăng say của tuổi thanh niên.

Và bây giờ và mãi mãi về sau, anh vẫn còn để lại cho hậu thế niềm tin sắt son để làm một cái gì cho tổ quốc là…” làm việc đi không lo khen chê, làm việc đi hãy say và  mê cứ bắt tay gan lì chúng ta giải quyết. Mình chậm chân đi sau người ta, mà ngồi đây mãi lo viễn vông, thắc mắc ngại ngùng biết bao giờ.mới làm xong”.

Lời ca của anh đã là một kim chỉ nam cho tôi không những ngày còn là thanh niên, mà vẫn còn tiếp tục trong tôi, một “ông già” chỉ còn một tuổi nữa và được xếp vào “thất thập cổ lai hy”. Tôi không đặt vấn đề với anh em, nhưng chắc chắn tôi đặt vấn đề những người đang tàn phá Đất và Nước của chúng ta, thưa anh Quang.

Dù lớn hơn anh hai tuổi, tôi vẫn tiếp tục con đường anh đã vạch ra và cố gắng nuôi dưỡng tinh thần thanh niên khai phá cho tương lai của anh mà không nề hà, do dự, cũng như chùng bước trước mọi trở ngại.

Anh Nguyễn Đức Quang ơi!

Ngồi trong office, mặc dù tôi đã đủ tuổi về hưu từ hơn 3 năm qua, mặc dù tôi không còn lo nghĩ về tài chánh cho tương lai nữa, nhưng tôi vẫn tiếp tục bước đi cho trọn con đường đời của một người trai thời loạn.

Anh Quang ơi!

Anh mất đi nhưng anh không chết!

Lịch sử Việt Nam sẽ mãi mãi ghi tên một người con nước VIỆT lúc nào cũng nặng lòng với non sông.

Vĩnh biệt anh,


 





 

 



 

Thành phố ma ở Trung Cộng

Phố Đông: Một trong những thành phố ma đầu tiên, hiện là khu tài chính toàn cầu nổi bật của Thượng Hải.

Quận Chenggong là khu vực chính để mở rộng thành phố Côn Minh. ...

Thành phố Ordos, Khu mới Kangbashi: thường được giới truyền thông mô tả là 'thành phố ma'.

Thành phố mới Nanhui.

Khu tài chính Yujiapu…

 

Có bao nhiêu thành phố ma ở Trung Cộng?

Một báo cáo tiết lộ rằng có thể có tới 50 thành phố ma ở TC hiện tại có sức chứa trên 500.000 dân cho mỗi thành phố đã được xây cất xon. Không giống như các khu vực của Mỹ và Nhật Bản, nơi những ngôi nhà không có người ở trong nhiều tình trạng trạng bị bỏ hoang và mục nát đã khiến các thành phố và khu vực được mệnh danh là "thị trấn ma". Chúng không bị bỏ rơi, mà là không có người ở.

Một ví dụ điển hình về một trong những thị trấn ma này là Tianducheng, hay còn gọi là “Thành phố bầu trời”. Khi không gian sống vĩ đại này được xây dựng lần đầu tiên vào năm 2007, phải mất nhiều năm để thu hút bất kỳ du khách nào. Vào năm 2013, thành phố cuối cùng đã chào đón 2.000 cư dân. Đây là một cái gì đó, nhưng về cơ bản nó vẫn là một thị trấn ma. Mười ba năm sau khi phát triển, Sky City cuối cùng đã thu hút được 30.000 cư dân, bất chấp bản sao Tháp Eiffel trong thành phố. Những con số đó là thấp đối với một thành phố có quy mô như nó.

Tuy nhiên, điều khác biệt là sự phát triển đô thị hiện đại ở TC có quy mô tăng tốc chưa từng có trong lịch sử xây dựng của Tàu.

Trung Cộng đang đi nhanh đến mức nào?

Đất nước này đã sử dụng nhiều xi măng hơn trong việc xây dựng các thành phố mới từ năm 2011 đến năm 2013 so với toàn bộ Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.

Theo thống kê của tờ Bưu điện Buổi sáng Bắc Kinh - Beijing Morning Post , số lượng căn hộ trống đang nằm ở những thành phố ma của TC này có thể lên tới 50 triệu căn.

Ước tính này do Tổng công ty Lưới điện Nhà nước Trung Cộng - State Grid Corporation of China cung cấp, dựa trên số lượng các tòa nhà chung cư đã hoàn thành nhưng không xử dụng điện trong sáu tháng liên tiếp trong năm 2010. Con số đó rất có thể tăng gấp đôi vào năm 2020.

Trung Cộng vẫn khoe khoang có mức tăng trưởng đều đạn và cao nhứt thế giới trong suốt ba thập niện từ những năm 1990 trở đi. Nhưng trên thực tế, họ tăng gia xây cất những thành phố ma trong những năm kinh tế toàn cầu chậm phát triển hay khủng hoảng (2008). Để từ đó tính vào lời tức quốc gia và đầu người. Trên thực tế, cho đến hiện nay có khoảng 200 triệu người dân sống dưới mức nghèo là 2 US$/ngày và 300 triệu sống với 2-5 US$/ngày!





Thursday, March 24, 2022

 

Thưa Quý Bà Con,

Dưới đây là những suy nghĩ của người ngoại quốc mà người gửi lượm trên FB và trên Mạng để chia xẻ những khác biệt văn hóa căn bản giữa người “mình” và Tây phương. Xin mỗi Quý Bà Con đọc xong và tự chiêm nghiệm:
 

Xin đừng mãi làm đứa trẻ con nuôi hoài không lớn.

Một giáo sư Anh văn người Canada tên Mick Builder bình luận về giáo dục trong một buổi trao đổi với những đồng nghiệp Việt:” We are the best qualified. We are better educated. We were taught to think independently. We were encouraged to have an opinion, and not to be afraid to speak it out loud. You were not taught how to think, but to serve the state. To conform. To obey. To be part of the beehive.”

Tạm dịch: “Chúng tôi là giáo sư giỏi nhứt. Chúng tôi được giáo dục tốt hơn. Chúng tôi được dạy cách suy nghĩ độc lập. Chúng tôi được khuyến khích để đưa ra ý kiến và không cần phải sợ nói lớn ra. Còn các bạn không được dạy cách suy nghĩ, mà là chỉ để phục vụ chính quyền. Để thuần phục. Để tuân lời. Để sống theo bầy đàn.”

Ông bị hầu như cả hội trường phản đối. Và sau đó, trên FB rộ lên không biết bao nhiêu phỉ nhổ vì …”tự ái dân tộc” bị xúc phạm (!) của tâm lý thuần phục Khổng Nho của CSBV.

Cũng như trước đây Ông cũng đã bị một vụ tương tự như khi trình bày về 10 khác biệt văn hóa về suy nghĩ giữa Người Việt và Tây phương:

·       1. Người Việt từ nhỏ được dạy phải vâng lời cha mẹ. Người Phương Tây từ nhỏ được dạy cách suy nghĩ độc lập. 

·       2. Người Việt tới trường được dạy phải yêu bác hcm. Người Phương Tây tới trường là để học chứ không bị bắt phải yêu ai cả. 

·       3. Người Việt khi học được dạy học thuộc lòng. Người Phương Tây khi học được dạy phải biết cách suy luận và đặt câu hỏi. 

·       4. Người Việt ra ngoài đời được dạy phải ôn hoà, sống theo lối “ai sao thì mình vậy.” Người Phương Tây được khuyến khích làm chính mình, sống độc lập. 

·       5. Người Việt về mặt chính trị được dạy là phải thuần phục chính quyền. Người Phương Tây chỉ coi chính quyền chỉ là đại diện cho người dân, phục vụ người dân. 

·       6. Người Việt khi có ai nói ý kiến khác mình cảm thấy khó chịu và phản kích lại. Người Phương Tây khi ai nói khác mình thì im lặng lắng nghe. 

·       7. Người Việt khi tranh luận khích bác nhau là chính. Người Phương Tây khi tranh luận nói chuyện hòa nhã, chấp nhận ý kiến khác biệt trong tinh thần tương kính. 

·       8. Người Việt khi bị ai đó chỉ trích là ghét luôn người đó. Người Phương Tây khi bị ai đó chỉ trích, xem đó là ý kiến xây dựng để tiến thân. 

·       9. Người Việt khi nói hay làm sai chối quanh chối quẩn tới cùng. Người Phương Tây khi sai chỉ nói “tôi xin lỗi.” 

·       10. Người Việt tự cao về bản thân, nói nhiều về bản thân khi có dịp.. Người Phương Tây dù có 20, 30 năm kinh nghiệm nhưng vẫn khiêm tốn nhẹ nhàng. 

Trên đây là những lượm lặt …góp nhặt cát đá trong tinh thần VÔ ÚY.

Phổ Lập