Friday, December 24, 2021

 

Những Giới hạn của Quyền lực

The Limits of Power – Andrew Bacevich


Thưa Quý vị,

Người viết vừa nhận được một quyển sách do một người bạn có nhiều điểm tương đồng trong công cuộc đấu tranh cho một Việt Nam không còn Cộng sản. Rất cảm động với lời đề tặng:”Mến tặng anh Truyết, một người con Việt hết lòng với Tổ quốc. K.A.”; chính vì vậy, người viết ráng đọc cho hết quyển sách, tổng hợp quan điểm của nhiều tác giả và nêu ra những cảm nghĩ riêng tư qua “lời bàn Mao Tôn Cương” cũng như tóm tắt quyển sách nhằm giới thiệu đến bạn đọc.

Sách ra đời vào năm 2008 với tựa đề “The Limits of Power – The End of American Exceptionalism – Những Giới hạn của quyền lực - Kết thúc chủ nghĩa ngoại lệ Mỹ” nhưng thiết nghĩ vẫn còn giá trị cho đến ngày hôm nay. Câu khẳng quyết ngay từ Lời giới thiệu của tác giả nói lên ngay kết luận về nước Mỹ “Cuộc chiến không có lối ra – War without Exit” trong hơn nửa thế kỷ qua với cuộc chiến giữa Hoa Kỳ với Korea, Việt Nam, Iraq, Iran, Syria, Afghanistan v.v…luôn luôn đi đến kết luận là người Mỹ “tạo dựng” ra và cuối cùng “bước ra không lời từ giã” với chính “đồng minh” của mình…

Còn gì bẽ bàng cho các dân tộc kể trên!

Còn gì uất hận cho bằng khi đã là một người con Việt!

***

Tác giả, Andrew J. Bacevich, giáo sư lịch sử và quan hệ quốc tế ở Đại học Boston, đại tá quân đội Hoa Kỳ đã nghỉ hưu, tiếp tục nghiên cứu quan trọng của mình về chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ Thế chiến thứ hai. Ông đã có một người con tên Andrew John Bacevich, 1st Lieutenant, mất trong cuộc chiến ở Iraq ngày 13/5/2007. Trong cuốn “Đế chế Mỹ: Thực trạng và Hậu quả của Ngoại giao Hoa Kỳ - In American Empire: The Realities and Consequences of U.S. Diplomacy (Cambridge, Mass: Nhà xuất bản Đại học Harvard, 2002), Bacevich lập luận rằng chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, bất kể đảng phái nào trong Nhà Trắng, đều hướng tới hướng tới việc đạt được sự thống trị toàn cầu của Hoa Kỳ.

Trong một cuốn sách tiếp theo, “Chủ nghĩa quân phiệt mới của Mỹ - The New American Militarism” (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2005), ông tập trung vào việc tái thiết quân đội trong cuộc sống của người Mỹ, đặc biệt là vai trò phục hồi của nó trong việc thực hiện chính sách đối ngoại kể từ sau Chiến tranh Việt Nam, và ông kết luận. rằng quân đội Mỹ đã tự lồng ghép rất thành công vào các giao dịch chính thức của Hoa Kỳ với phần còn lại của thế giới, đến mức độ được coi là cần thiết cho chính sách đối ngoại hiệu quả.

Trong nỗ lực mới nhất của mình, Bacevich tập trung vào các bài học rút ra từ các cam kết quân sự của Hoa Kỳ ở Afghanistan và Iraq, và ông đưa ra kết luận, không có gì đáng ngạc nhiên, khác với kết luận của nhiều nhà lãnh đạo công quyền và chuyên gia. Theo quan điểm của ông, cuộc chiến ở Iraq lần đầu tiên phơi bày rõ ràng sự đạo đức giả của “câu chuyện đạo đức” từng đã là thiết yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ Thế chiến thứ hai.

Trước hết, xin tóm tắt nội dung cuốn sách. Cuốn sách với 206 trang bao gồm 3 Chương và Phần kết luận và Phần Index.

Trong Chương 1, “Cuộc khủng hoảng của sự lợi dụng – The crisis of profligacy”, tác giả đã miêu tả xã hội Mỹ thấm nhuần văn hóa “quyền được hưởng lợi” (entitlement). Bởi vì người Mỹ coi mình là những người tốt toàn cầu, họ tin rằng các quốc gia khác cần nên hoan nghênh các ý tưởng và thể chế của Hoa Kỳ. Do đó, bài phát biểu nổi tiếng về “cuộc khủng hoảng niềm tin” năm 1979 của Tổng thống Jimmy Carter cảnh báo người Mỹ nên kiềm chế tính kiêu ngạo và tính tự cao của họ đã nhanh chóng bị lu mờ bởi sự lạc quan và đảm bảo của Tổng thống Ronald Reagan về khả năng bất khả xâm phạm của công nghệ. Như Bacevich nói, Tổng thống Reagan đã nói với người Mỹ những gì họ muốn nghe. Hơn nữa, Tổng thống George W. Bush đã đi theo cùng một mô-típ khi đưa ra cho người Mỹ cả “súng và bơ”. Trong khi đó, từ chính quyền Carter cho đến thời tổng thống Reagan, quân đội đã liên tục xây dựng cả về mặt chính trị và ý thức hệ cho một nỗ lực lớn ở khu vực Vịnh Ba Tư.

Trong Chương 2, “Cuộc khủng hoảng chính trị - The Political Crisis”, Bacevich di chuyển vào bên trong Vành đai để xem xét nguyên nhân của tình trạng hỗn loạn hiện nay ở Hoa Kỳ. Ông lập luận rằng đất nước đang trong tình trạng chiến tranh kể từ thời tổng thống của Harry S. Truman và trong thời gian này quyền lực ngày càng tập trung vào cơ quan hành pháp. Quốc hội đã được đưa ra ngoài vòng tròn quyền lực thực sự đối với các quyết định về các sáng kiến ​​quân sự. Hơn nữa, Bacevich khẳng quyết, ai là tổng thống cũng không có gì khác biệt vì hiện tại “những điểm tương đồng ngầm” nầy đã trải qua trong suốt các chính quyền hành pháp Thế chiến II. Những điểm tương đồng này thể hiện bốn niềm tin cốt lõi:

·       Nguyên lý rằng lịch sử có một mục đích;

·       Quan điểm rằng Hoa Kỳ là hiện thân của tự do;

·       Đức tin mà Chúa đã kêu gọi người Mỹ để thúc đẩy sự tự do này, và niềm tin rằng chỉ khi các giá trị của Mỹ chiếm ưu thế trên toàn thế giới thì nước Mỹ mới được đảm bảo.

 

Theo ý kiến ​​của Bacevich, Bush thứ hai đặc biệt thẳng thắn và mạnh mẽ trong việc thúc đẩy các vị trí này. Thật không may, vì những ý tưởng này đã trở nên vững chắc trong giới tài phiệt của những người trung thành với cá nhân tổng thống, nên phạm vi lựa chọn trong chính sách đối ngoại đã bị hạn chế nghiêm trọng. Đặc biệt, với sự khuyến khích của quân đội, sự cứng nhắc về ý thức hệ này đã dẫn đến xu hướng xem sự tương tác của Hoa Kỳ với phần còn lại của thế giới về mặt quân sự. Bacevich xác định James Forrestal, Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của Hoa Kỳ (1949), là “cha đỡ đầu của tư duy quân sự hóa” và theo dõi di sản của mình thông qua các ý tưởng của Paul Nitze và cuối cùng là Paul Wolfowitz. Ông khẳng quyết một cách dứt khoát rằng đỉnh cao hợp lý của trường phái lý thuyết quân sự này là “học thuyết về chiến tranh phòng ngừa hợp lý hóa cuộc xâm lược Iraq”, một hành động về lâu dài đe dọa sự toàn vẹn trong nước và quốc tế của Hoa Kỳ.

Trong Chương 3: “Cuộc Khủng hoảng quân đội – The Military Crisis”, Bacevich đã ghi lại những tác động gây suy nhược mà văn hóa hưởng quyền lợi nói ở Chương 1 và tư duy hạn hẹp giữa các nhà hoạch định chính sách đối với chính quân đội Hoa Kỳ. Đối với ông, kết quả là những người lính được huấn luyện tuyệt vời và can đảm, nhưng hiệu quả của họ đã bị suy yếu nghiêm trọng do môi trường được tạo ra bởi các nhà lãnh đạo tồi, cả chính trị và quân sự. Ông lập luận rằng những gì nhiều người coi là bài học rút ra từ các cuộc xung đột ở Iran và Afghanistan chỉ đơn giản là sai lầm. Niềm tin rằng Hoa Kỳ bây giờ phải chuẩn bị cho “các cuộc chiến tranh nhỏ” thực sự là một bản tóm tắt để mở rộng đế chế Hoa Kỳ, một vị trí mà ông ta tin rằng rõ ràng là nên từ bỏ. Ông mạnh mẽ phản đối lập luận rằng các chỉ huy quân sự cấp cao đáng lý ra nên được giao nhiều quyền lực hơn trên thực địa hơn là chịu sự “chỉ đạo” của hành pháp trung ương!

Và Ông kết luận rằng, hơn nữa, bản chất căn bản của chiến tranh cũng là ở đây để chiếm đóng với những hạn chế của nó khi ở quá xa trung tâm quyền lực (ở Mỹ). Ông cũng tin rằng chiến lược mang tính xây dựng trong chính sách đối ngoại phải thừa nhận rằng quân đội Hoa Kỳ có cả nguồn lực hạn chế và tác động hạn chế. Ông đưa ra các phương án ngăn chặn và tham gia có chọn lọc như những cách tiếp cận chiến lược đầy hứa hẹn. Nhưng những điều nầy không được các hành pháp tiến nhiệm áp dụng; do đó, họ kéo các nguồn lực của Hoa Kỳ vượt quá giới hạn của họ và ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế quốc tế của quốc gia.

Phần kết luận: “Sự Giới hạn của Quyền lực – The Limits of Power”

Giá trị công việc của Bacevich nằm ở khả năng nhìn xa hơn những luận điệu thông thường của các nhà lãnh đạo quân sự và học thuật, chính trị và quân sự. Với lối hành văn lôi cuốn và thuyết phục, tác giả cố gắng lôi kéo những người chỉ trích chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và phân tích hàng loạt các dữ kiện đã xảy ra trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trước đó, Andrew Bacevich đã xây dựng một câu chuyện khác về quá khứ của Hoa Kỳ. Ông cho rằng câu chuyện này tiết lộ một quốc gia với tham vọng đế quốc. Các sự kiện gần đây đã khẳng định phần lớn lập luận của ông, thường là bi kịch, đặc biệt là việc ông xác định sự phụ thuộc ngày càng lớn vào hành động quân sự để giải quyết các vấn đề quốc tế. Ông vẫn bi quan một cách đáng ngại rằng bất kỳ nhà lãnh đạo được bầu nào cũng có thể thay đổi đường lối chính sách hiện tại của Hoa Kỳ (!).

Và 13 năm sau khi cuốn sách ra đời, lịch sử vẫn được tái lập với Tổng thống đời thứ 46 của Hoa Kỳ. Bức tranh rộng hơn thu được từ các phân tích của Bacevich có lẽ còn đen tối hơn trong giai đoạn hiện tại. Các nhà lãnh đạo Mỹ ngày nay không hiểu được giới hạn quyền lực của họ có nguy cơ khiến toàn bộ đặc tính Mỹ sụp đổ. Mặc dù người Mỹ dường như có ý định tạo điều kiện thuận lợi cho phần còn lại của thế giới bằng hình thức tự do của họ, nhưng sự thâm độc trong nước và chủ nghĩa phiêu lưu quân sự đã khiến họ phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn lực nước ngoài, chẳng hạn như dầu mỏ, và dễ bị tấn công hơn trước các cuộc tấn công từ các phần tử khủng bố nổi loạn. Những người ra quyết định nắm quyền hành pháp ngày hôm nay dường như không biết gì về những nguy cơ sắp xảy ra mà các chính sách của họ gây ra. Phải chăng điều nầy thích ứng với chánh quyền Biden như một lời tiên tri?

Họ không nhận ra rằng vị thế của một quốc gia giàu có, quyền lực nhất mà thế giới từng chứng kiến ​​đạt được không phải nhờ sự quyết định và hành xử của chính phủ, mà là nhờ sự làm việc chăm chỉ của nhiều nhân tố phấn đấu, độc lập và không bị kiểm soát cùng sự đáp ứng của đa số người dân Mỹ đóng góp cho sự phồn vinh của Hiệp Chủng Quốc. Đây là một thành quả của toàn dân chứ không phải của một hành pháp nào hết.

Mặc dù Bacevich thể hiện quan điểm của trường phái siêu truyền thống - ultratraditionalist school, nhưng trong quyển sách nầy ông đã tự mô tả mình như là một người theo chủ nghĩa hiện thực, nhưng ông vẫn nêu ra đây “nỗi nhớ về nền cộng hòa khai sáng mà người Mỹ được cho là đã tận hưởng trước Thế chiến thứ hai”, một thời hoàng kim của Hoa Kỳ.

Một điểm quan trọng khác là sự hùng biện của Bacevich. Cuốn sách ngắn gọn, mạnh mẽ này rõ ràng có ý nghĩa như một cuộc luận chiến. Có một số câu nói của Bacevich, chẳng hạn như sự ám chỉ khó chịu của ông về “vị tổng thống được cho là hoàng đế” (the president is supposed to be the emperor) của nước Mỹ, nghe ra có vẻ hoang tưởng và sai lầm nhưng đó là một thực tế trong hiện tại.

Vì vậy, người viết có thể kết luận về những hành động quân sự và ngoại giao của TT hiện nay không kiểm soát thực tại đang xảy ra cũng như các giải pháp quân sự và tham vọng đế quốc đã vô hình chung cắt giảm chính những thành công mà “toàn dân” đã cố gắng thành hình trong cuộc sống.

Để kết luận cho mục điểm sách” hôm nay, người viết xin mượn lời nhận định của Người Quan Sát về cuốn sách “The Việt Nam Upheaval” của GS Vũ Quý Kỳ trng đó GS cũng có những điểm tương đồng với tác giả Andrew trong suy nghĩ về “cuộc chiến không có lối ra…” như:” Đề cập tính cách phức tạp vì những mâu thuẫn nhân quả giữa nhu cầu chính trị của Tổng Thống Kennedy và chủ quyền quốc gia Việt Nam mà TT Ngô Đình Diêm nhất quyết bảo vệ đến cùng, GS Vũ cho hay:"Trước hết, nó phức tạp vì Tổng Thống Johnson không hay biết về những dự tính bí mật của Tổng Thống Kennedy trước và sau khi ông ta bị sát hại. Nó phức tạp vì Tổng Thống Kennedy có nhu cầu hạ bệ Tổng Thống Ngô Đình Diệm trước khi ông thực hiện việc bán đứng Việt Nam. Và hậu quả của hoàn cảnh phức tạp nói trên đã đưa đến sự sụp đổ của nền đệ nhất Cộng Hòa, sự hỗn loạn của lãnh đạo, sự suy sụp của chính quyền quốc gia trên toàn quốc, khiến cho Cộng sản Việt Nam có cơ hội vùng lên. Do đó Trung Cộng và CSBV đã quyết tâm dốc toàn lực đánh dứt điểm để thôn tính Miền Nam. Đó là nguyên nhân chính đưa đến việc Hoa Kỳ đổ quân vào Miền Nam, và bỏ bom Miền Bắc”. Sau đó là Biến cố tại Vịnh Bắc Việt đưa đến Nghị Quyết Gulf of Tonkin Resolution, đã trao cho Tổng Thống Johnson quyền lực và phương tiện để tấn công và chiến thắng Bắc Việt, nhằm chặn đứng hành động xâm lăng Miền Nam. Sứ mạng chính của cuộc Chiến Tranh Không Tập là đánh quỵ khả năng điều động quân lực Miền Bắc khiến họ phải xóa bỏ kế hoạch xâm lăng Miền Nam. Hoa Kỳ có dư sức mạnh và phương tiện để thực hiện sứ mạng đó. Theo quan điểm của Gs Vũ thì: “Điều đáng tiếc là, Tổng Thống Johnson và Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara đã theo đuổi một chiến lược sai lầm và thất bại trong sứ mạng nói trên khiến cho chiến tranh kéo dài, dân Mỹ nản lòng và phong trào phản chiến được CS giật giây bùng lên.”

Quả thật The Limits of Power là một cuốn sách cần được đọc để thấy chiều hướng đi xuống của nền dân chủ Mỹ hiện tại. Tuy cuốn sách xuất hiện cách đây 17 năm, nhưng dường như tác giả Andrew đã thấu được đường đi nước bước của một vị Tổng thống “làm vì” được chống lưng bởi một thế lực thiên tả nhằm xây dựng một xã hội “xã hội chủ nghĩa” không tưởng.

Chúng ta chờ đợi câu trả lời của người Mỹ qua cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào tháng 11 năm 2022 tới đây.

Mai Thanh Truyết

12-24-2021

 


 


 


 

 

Tuesday, December 21, 2021

 

CÂU CHUYỆN MÙA GIÁNG SINH - CHÚA VÀ PHẬT Ở  ĐÂU?

 

Trước năm 1975, trong quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hoà có những sĩ quan là những vị Linh Mục của Công Giáo và Thượng Tọa (hay Đại Đức) nếu là Phật Giáo. Những vị này ở trong quân đội được gọi là các sĩ quan Tuyên Úy để chăm lo phần tín ngưỡng tâm linh cho các chiến sĩ.

Dù là các bậc tu hành, nhưng họ đồng thời cũng là các sĩ quan trong quân đội, và do đó cũng phải chịu chung án lệnh học tập cải tạo như tất cả các sĩ quan quân lực VNCH khác.

Trong một trại học tập tại miền thượng du Bắc Phần có một vị Thương Toạ (không nhớ tên), vốn là một sĩ quan Tuyên Úy và đang bị án học  tập cải tạo.

Một lần người tù chung trại tuổi cao lại thêm bệnh cũ tái phát, điều kiện y tế thiếu thốn nơi trại cải tạo nên đã qua đời. Khi chôn cất người tù đó chỉ có manh chiếu thô sơ, còn bên trong quần áo rách nát không đủ che thân, vị Thượng Tọa thương xót bèn đem chiếc áo cà sa lành lặn nhất của ông mang theo quấn cho người bạn tù vắn số trước khi đi vào lòng đất.

Giữa nơi rừng thiêng nước độc cao nguyên Bắc phần, khí hậu mùa đông vốn đã lạnh lẽo cực kỳ với những người tù đang bị án vô thời hạn này, lại càng khắc nghiệt hơn với vị Thượng Toạ cũng đã già, có cái áo khoác lành lặn nhất đã chôn theo người bạn tù. Bây giờ ông chỉ còn một manh áo Cà sa thô sơ khác rách rưới không đủ che thân.

Cùng chung trại có một sĩ quan Tuyên Úy khác là một Linh Mục Công Giáo. Cha cũng bị học tập cải tạo như ông Thượng Toạ. Vị Linh Mục (không nhớ tên) thấy ông bạn tù Thượng Toạ già yếu lạnh lẽo. Cha cũng có cái aó Chùng Thâm lành lặn ấm áp nhất. Cha đem chiếc áo lành lặn này đổi lấy chiếc áo cà sa rách rưới của vị Thượng Tọa để cho vị TT được đủ ấm chống chọi qua mùa Đông lạnh giá. Cha còn trẻ, khoẻ mạnh, có thể chịu đựng được khí hậu khắc nghiệt này.

Thế là mùa Đông năm đó, mọi người đều thấy vị Linh Mục thì mặc chiếc áo cà sa Phật giáo rách rưới của ông Thượng Tọa, còn ông Thượng Toạ nhà Phật lại khoác trên người chiếc áo dòng thâm đen của nhà Chúa.

Vị Thượng Toạ không còn chiếc áo Cà Sa, nhưng tấm lòng Bồ Tát quảng đại vẫn rạng ngời.

Và vị Linh Mục kia cũng đâu cần phải khoác lên người chiếc áo Chùng Thâm, nhưng tấm lòng nhân ái, biểu hiện tình thương vô cùng của Chúa Cưú Thế.

Chuá và Phật ở đâu xa?

Các ngài ở trong tâm của những vị chân tu đó.

 

Nguồn: Fb ThaiNC








Monday, December 20, 2021

 Thân chuyển một bài viết vui của một người bạn Bác sĩ thú y Nguyễn Thượng Chánh, Montréal dưới đây:

Chuyện vui Vợ Chồng

 

Đàn ông và Đàn bà là cả hai thế giới khác biệt nhau. Họ khác nhau về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ, cũng như về cách hành sự trong cuộc sống. Bởi những nguyên nhân này mà thường xảy ra biết bao nhiêu là chuyện hục hặc, hiểu lầm lẫn nhau, cơm không lành canh không ngọt, khắc khẩu, ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc gia đình… 

Bài gõ này được phỏng theo tác phẩm nổi tiếng đã đạt số bán kỷ lục 8 triệu cuốn : Why Men Don’t Listen & Women Can’t Read Maps (*) by Barbara and Allan Pease, Broadway Books, New York.

Ở đây tác giả không có chủ đích đánh giá hay phán xét sự tốt xấu của các hành động ở phía người đàn ông cũng như ở phía người đàn bà. Tất cả các điều nêu ra dưới đây là kết quả nghiên cứu và nhận xét của giới y khoa và của các nhà tâm lý học Tây phương.

Đúng hay sai đều do bạn đọc tự mình phê phán lấy…

 Đàn ông và đàn bà khác nhau về nhiều mặt : về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ cũng như đôi khi về cách giải quyết một vấn đề ! Họ thường tuân theo những quy luật khác nhau… Đấy là chưa nói đến cá tánh bẩm sinh của từng cá nhân. Ngoài ra, tôn giáo, giáo dục gia đình và kinh nghiệm sống cũng chi phối phần nào cách suy nghĩ và hành động của họ.

 Mỗi khi người đàn ông vào washroom, là họ có một mục đích rõ rệt và nhất định rồi. 

Tại nhà hàng, đàn bà không những xem washroom là một nơi để giải quyết một nhu cầu của cơ thể mà nó còn là một nơi hẹn hò, để các bà tâm sự to nhỏ tám với nhau về đủ thứ chuyện và dĩ nhiên cũng là nơi chốn để làm duyên, để tô lại môi son, thêm chút má hồng và chải lại mái tóc…

 

Bạn có để ý không ? Giữa buổi tiệc, các bà có lệ là thường rủ nhau đi washroom cùng một lúc. Ngược lại, các ông nếu cần đi thì chỉ tự động đi có một mình mà thôi…

 

Lúc xem TV, đến phần quảng cáo thương mại các ông thường bóp cái tầm xa (remote control) lia lịa để đổi đài, ngược lại các bà thì nhẫn nại hơn và vẫn tiếp tục xem phần quảng cáo một cách bình thản… 

Các bà thường phàn nàn các ông sao làm biếng kéo nắp toilet xuống quá mỗi khi tè xong, còn các ông thì càu nhàu tại sao các bà sao không chịu giở nắp lên khi các bà xong việc cho người ta nhờ một tí… 

Các bà thường hay tỉ mỉ từng ly từng chút, chi tiết quá trời nên thường trách các ông sao quá bừa bãi. 

Đàn ông thường phải mất rất nhiều thời giờ để tìm được hai chiếc vớ cùng màu bỏ lộn xộn không thứ tự trong ngăn tủ, nhưng ngược lại các CDs của họ đều được xấp xếp rất ư là có thứ tự trên bàn.

 Đàn ông phải mất cả buổi mới tìm ra xâu chìa khóa xe bị thất lạc, trong khi đàn bà tìm ra ngay chỉ trong một thời gian rất ngắn… 

Đàn bà thường không thấy ánh đèn phụt lên ngay trước mặt báo hiệu xe sắp hết xăng, nhưng họ thấy ngay chiếc vớ bẩn vất bừa bãi trong góc kẹt phòng… 

Các ông thường trách các bà về cách lái xe, còn các bà thì không hiểu tại sao các ông lại rất thích đậu xe kiểu song song (parallel parking) bằng cách vừa nhìn kính chiếu hậu vừa lui vô chỗ đậu hẹp bé tí.               

                         

 

Đàn ông có khiếu xác định vị trí trong không gian, họ đọc bản đồ rất nhanh và tìm ra hướng Bắc rất dễ dàng. Nhờ năng khiếu này mà thuở tạo thiên lập điạ, người đàn ông mới có thể đi săn thú trong rừng để nuôi sống gia đình. Đàn bà nếu có xem bản đồ họ thường xem ngược ngạo. 

Lỡ có lạc đường, thì các bà thường mau mau ngừng xe lại trạm xăng để hỏi thăm, còn các ông thì ít chịu làm như vậy để khỏi quê và bị chê là mình quá yếu, quá dở.H

Các ông thường ráng chạy loanh quanh cả tiếng đồng hồ để tìm đường, miệng thì lẩm bẩm : “Hình như tui có thấy chỗ này rồi”... 

Đàn bà thường có thị giác ngoại biên rộng lớn (wider peripheral vision), đàn ông thì có thị giác hẹp hơn nhưng lại thấy rất xa (narrow tunnel vision). Bởi vậy, nếu có lái xe đường xa, người ta khuyên nên để đàn bà lái xe lúc ban ngày sáng tỏ, còn đàn ông thì nên lái xe lúc về đêm tăm tối vì họ có thể nhận thấy các xe khác từ xa ở phía trước lẫn phía sau…

Đàn bà xem việc đi chợ, đi shopping hay đi window shopping là một cái thú tiêu khiển, một cách để giảm stress mặc dù không cần phải mua một món hàng nào cả.

Ngoại trừ mấy năm đầu vừa mới cưới vợ, đàn ông thường tò tò theo chân bà xã cho bả vui lòng và hãnh diện với thiên hạ, nhưng lần lần vài năm sau thì các ông rất ngại cái món này lắm, nó vừa mỏi cẳng, vừa bực mình và nó cũng vừa mất công mất thời giờ quá đi thôi.

Có thể nói, hầu như các ông xồn xồn ngại cái món bị bắt buộc phải đi tò tò lòng vòng theo vợ trong mấy cái thương xá lắm… 

Trong các tiệm bán thời trang cũng như trong các thương xá người ta thường thấy có băng có ghế cho các ông ngồi chờ các bà.

Đàn ông nếu có muốn mua một món gì thì họ đã biết họ thích cái gì rồi, cho nên đi thẳng vào tiệm mà mua một cái rụp khỏi phải mất công lê bước hết tiệm này đến tiệm khác. 

Đàn bà rất tinh ý, và có lẽ có giác quan thứ 6 gì đó. Người Đàn bà có khiếu bắt mạch, và hiểu rất dễ dàng ý nghĩa của các sự thay đổi trên nét mặt người đàn ông.

Các ông đừng có mong dối gạt các bà được đâu. Nếu có muốn nói dối thì hãy dùng telephone, viết thơ, hoặc gởi email thì có thể dễ thành công hơn là phải chạm mặt thẳng với các bà.

 Đàn ông không có cái khiếu này như ở đàn bà… Đàn bà cũng rất thính tai hơn đàn ông. Nửa đêm, nếu cháu bé khóc oẹ oẹ ở phòng bên cạnh thì thường là các bà hay liền. Nước lavabo nhểu lỏn tỏn thì các bà biết liền, còn các ông thường ngủ khò mà thôi. 

Não của Đàn ông chỉ program để làm mỗi lần một việc mà thôi. Họ chỉ sử dụng có một bán cầu não (thường là phía trái) để suy nghĩ. Mỗi khi ngừng xe lại để đọc bản đồ là họ cần phải vặn nhỏ cái radio xuống rồi mới có thể đọc được. 

Đang xem TV mà bà xã hỏi thì có ông nào nghe đâu. Bởi vậy lúc các ông xã đang lái xe các bà xã đừng nên nói đừng nên hỏi gì hết có thể nguy hiểm đó !

Ngược lại ở đàn bà, mỗi khi suy nghĩ họ thường sử dụng cả hai bán cầu não phía trái và phía phải, và nhờ vậy các bà có thể dễ dàng làm được nhiều việc cùng một lúc. 

Đàn bà có thể vừa đọc sách và vừa nghe radio hoặc vừa làm bếp nấu nướng vừa nói điện thoại. 

Các bạn có để ý không, trong các siêu thị ở quày trả tiền thường các cô thu ngân viên, mắt vừa nhìn các món hàng, tay thì bấm máy lia lịa, đôi khi vừa làm vừa trả lời khách hàng hoặc vừa viết và vừa nói điện thoại kẹp nơi cổ. 

Nếu được hỏi thình lình phía nào là tay phải, phía nào là tay trái, các bà thường hay lộn nếu họ không nhìn vào chiếc nhẫn đeo trên tay. Các ông thường phàn nàn các bà là miệng thì biểu người ta quẹo trái nhưng trong đầu họ thật sự muốn mình quẹo mặt. 

Đàn ông thán phục đàn bà về cách bắt chuyện giữa đám đông hay trong các buổi tiệc. Mặc dù toàn là khách lạ nhưng các bà vẫn có cách trau đổi với nhau về đủ thứ chuyện, người này khen qua người kia khen lại, nói đẩy đưa quên thôi… 

Các bà cho rằng các ông thường hay lạnh nhạt về tình cảm, ít thố lộ tâm sự và có vẻ kín đáo e dè trước đám đông. Các bà nghĩ rằng đàn bà có nhiều tình cảm hơn đàn ông, còn các ông thì cho rằng bọn họ cũng rất tình cảm nhưng ít bộc lộ ra ngoài.

 Tuy nhiều lúc thấy người đàn ông im lặng nhưng thật sự chính lúc đó họ nói một cách âm thầm cho chính họ! đàn ông không thích ai cho mình ý kiến nầy nọ.

 Sự ít nói của người đàn ông có thể được người đàn bà hiểu lầm là mình không còn được thương nữa. 

Đối với chuyện múa lân trên giường, các bà thường trách các ông thiếu sự lãng mạn, sao chỉ muốn vụ đó một cách nhanh chóng, nhào vô là làm liền để các ông có thể hạ hỏa gấp rút rồi sau đó thì lăn ra ngủ khò quên cả người ta nằm bên cạnh, còn các ông đôi khi trách các bà hơi thụ động và thiếu sáng kiến… 

Nói tóm lại, theo Allan Pease thì.... "men want to have sex but women want to make love". 

Đàn ông thường trách đàn bà thường hay nói nhiều và cũng thường hay so sánh quá.

Nói chuyện mới đã đành đi, đàng này chuyện cũ đã nói nhiều lần rồi các bà vẫn có thể hâm nóng lại và đem ra nói nữa. 

Ở người đàn bà, các dữ kiện, tín hiệu, thông tin bên ngoài được cất giữ trong não của họ một cách khá lộn xộn. Cách duy nhất để các bà đem vấn đề ra ngoài là phải nói nó ra và nhìn nhận nó.

Bởi vậy đàn bà nói nhiều hơn đàn ông là lẽ thường. Các bà cần nói ra để bớt căng thẳng tinh thần, để làm giảm stress. Các ông phải ráng nghe mà thôi và đừng bao giờ đề nghị một giải pháp nào hết cho vấn đề mà các bà tuôn ra. Các bà chỉ cần có người ngồi nghe chớ không phải các bà muốn tìm cách giải quyết vấn đề đâu. 

Ở đàn bà, việc nói chuyện và tâm sự là cách duy nhất để họ làm bạn với nhau. Tuy cả ngày đã đi shopping với bà bạn, mà khi vừa về đến nhà các bà cũng còn chuyện để nói với nhau qua điện thoại cả tiếng đồng hồ nữa. 

Các ông mỗi khi cần nói chuyện là họ đi thẳng vào vấn đề. Ở người đàn ông các tín hiệu thông tin bên ngoài được cất giữ riêng rẽ trong những ngăn riêng biệt trong não. Cuối ngày các ông đem nó ra ngoài rất dễ dàng để giải quyết. 

Việc nói nhiều của các bà thường làm các ông bực mình không ít, nhưng đó là dấu hiệu tốt có nghĩa là các bà còn thương, còn quan tâm đến các ông, cần người chia sẻ các vui buồn khổ cực trong cuộc sống vợ chồng. 

Trường hợp các bà im lặng, thì các ông phải đề phòng là có điều chẳng lành sắp xảy ra đó, còn tệ hơn nữa là các bà phớt tỉnh ăn glê, không thèm đếm xỉa đá động gì đến các ông và xem các ông như nơ pa không có, đó là dấu hiệu sắp rã hùn rồi đố tránh khỏi! 

Tóm lại dù Đông hay Tây, dù xưa hay nay, Đàn bà vẫn là đàn bà còn đàn ông vẫn là đàn ông.

Muốn sống hạnh phúc thì cả hai vợ chồng cần nên noi theo những lời vàng ngọc sau đây :

                                                        Chồng giận thì vợ bớt lời.

                                                        Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.

                                                        Râu tôm nấu với ruột bầu,

                                                        Chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon. 

                                                         Chồng gương mẫu… lẹ lên ông già.

 Kính vợ đắc thọ,

Sợ vợ sống lâu,

Nể vợ bớt ưu sầu,

Để vợ lên đầu là trường sinh bất tử...

Đánh vợ nhừ tử, là đại nghịch bất đạo.

Vợ hỏi mà nói xạo, là trời đất bất dung.

Chê vợ lung tung, là ngậm máu phun người.

Gặp vợ mà không cười, là có mắt không tròng. 

Nguyễn Thượng Chánh, DVM

Montreal










Thursday, December 16, 2021

 

Trải nghiệm sau 27 năm trong lãnh vực Quản lý Phế thải – Waste Management

Sau 27 năm làm việc, người viết nhận thấy cho đến hôm nay, tất cả phế thải do con người tạo ra chưa hề được giải quyết một cách rốt ráo như:

PHẾ THẢI à “HẾT” PHẾ THẢI

Mà phải:

·       Phế thải gia cư à Bãi phế thải – Landfill

·       Phế thải độc hại à Thiêu đốt – Incineration

·       Phế thải độc hại à Cô lập thành khối – Micro and Macro-encapsulation

·       Phế thải hạch nhân à Nhốt trong hầm kín (Hoa Kỳ) – Ultra-macro-encapsulation

·       Phế thải hạch nhân à Nhốt dưới đại dương (Nga)

·       Phế thải y tế à Thiêu đốt hay dùng lại – Incineration and Recycling

·       Vân vân…

Xem hình theo thứ tự.

Trong lúc đó, “Sự Thay đổi Khí hậu – The Climate Change” đang còn là một giả thuyết tranh cãi giữa các nhà làm khoa học và chính trị dựa theo những “kết luận” căn cứ theo các mô hình toán – model lập trình từ những dữ kiện thời tiết trong vài chục năm, thậm chí xa nhứt là trăm năm.

Xin thưa, chu kỳ tự nhiên Ấm – Lạnh của Trái đất là khoảng 10-11 thế kỷ. Gần đây nhứt, có thể kể dấu mốc là cuộc di cư của giống dân Viking từ Iceland xuôi Nam chấm dứt chu kỳ Ấm của trái đất trước đó. Người Viking ở Iceland sống được nhờ trồng củ quả và trồng cỏ, chăn nuôi…

Sau đó, bắt đầu chu kỳ Lạnh. Việc đóng băng tăng dần ở Bắc cực và Nam cực.

Và vào thế kỳ 20 trở đi…lại bắt đầu chu kỳ Ấm…

Đó là sự vận hành của chu kỳ tuần hoàn trong thiên nhiên.

Khảo sát sự biến thiên nhiệt độ trên mặt đất trong vài chục năm không thể nào đưa đến kết luận CHÍNH XÁC được.

***

Qua nội dung những tin tức và các thông điệp của xã hội dân sự trong suốt gần sáu năm qua, sau Thượng đỉnh COP21 tại Paris năm 2015, và sau THượng đỉnh COP26 tại Glasgow, Anh vào tháng 11 vừa qua, chúng ta thấy gì?

         Phải chăng, có một cái gì không ổn trong vấn đề ràng buộc và tính áp đặt trong Thỏa thuận COP21?

         Phải chăng, trong tâm khảm của 196 đại diện cho 196 quốc gia đi phó hội Thượng đỉnh COP21 có lấn cấn một “cái gì” (cho tình trạng riêng của mỗi nước), để rồi, khi Thỏa thuận được đúc kết trong “gượng ép” mà vẫn phải gọi là “Thỏa thuận lịch sử” hay “Thỏa thuận bước ngoặt”?

Có phải 196 đại diện tuy đồng sàng nhưng dị mộng?

Theo thống kê, chúng ta đều biết, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, sự tăng trưởng của khí thải nhà kính tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1980 đến 1990. Và hiện tượng trái đất nóng nhứt so với quá khứ xảy ra vào năm 2014, và nhiệt độ không khí tăng lên trung bình ở mặt đất cho thập niên nầy là 0,90C, cao hơn sự tăng nhiệt độ từ thập niên 1880 trở đi.

Vì vậy, với điều kiện công nghệ hiện có và văn minh hiện tại, cũng như suy nghĩ của những nhà hoạch định chính sách trên toàn cầu, thiết nghĩ, cần phải chuyển hướng và sáng tạo một phương cách mới trong việc hạn chế sự hâm nóng toàn cầu, mà ngày hôm nay, được định nghĩa lại là “Sự biến đổi khí hậu – The climate change”.

Phải chăng lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đã đồng ý trên những kết ước không thực tế trên phương diện thực hiện, thiếu nhiều căn bản pháp lý cũng như khoa học trong việc kết luận về vấn đề thay đổi khí hậu, và chịu ảnh hưởng và áp lực chính trị của nhiều hệ thống quyền lực hữu hình như Trung Cộng và vô hình đang khuynh đảo thế giới, nhứt là ở Hoa Kỳ hiện tại?

Trên thế giới hiện nay có hai khuynh hướng khoa học có tỷ lệ ngang ngửa, hoàn toàn trái ngược trong việc giải trình hiện tượng “thay đổi khí hậu toàn cầu” nầy:

-         Khuynh hướng thứ nhứt cho rằng: Trái đất chuyển vận theo chu kỳ Ấm – Lạnh tự nhiên. Khi dân Viking bắt đầu di cư về hướng Nam và định cư ở các quốc gia Bắc Âu, và Ireland cuối thế kỷ thứ 8 vì…chu kỳ Lạnh đã bắt đầu vì đất đã bị đóng băng không còn thích hợp cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Và thế kỷ 20, phải chăng thời điểm nầy là buổi bình minh của chu kỳ Ấm?

-         Khuynh hướng thứ hai nhứt định: Trái đất nóng lên là do sự phát thải khí Carbonic do kỹ nghệ và nhu cầu phát triển của nhân loại. Hạn chế bớt việc phát thải khí CO2 tức là hạn chế được sự hâm nóng toàn cầu. Theo ước tính của IPCC, từ nay cho đến năm 2038, toàn cầu chỉ có thể phát thải tối đa 1.000 tỷ tấn khí Carbonic vào khí quyển mà thôi. Trong quá khứ 140 năm về trước, có 1.900 tỷ tấn CO2 đã bao phủ bầu khí quyển của chúng ta rồi, căn cứ vào nghiên cứu của Khoa Vật lý, Đại học Oxford, Anh.

Nhưng dù sao đi nữa, dù có khuynh hướng nào đi nữa, chúng ta vẫn nhận thấy việc phát thải khí CO2 vào không khí là một trong nhiều nguyên nhân khác nữa làm cho bầu khí quyển “nóng” lên trong hiện tại, và mỗi quốc gia (và chúng ta) đều có trách nhiệm liên đới.

Vì vậy, cần phải động não nhiều hơn nữa về những phương pháp hạn chế (vì không thể nào chấm dứt được) việc phát thải trên:

         Tiền: Thay đổi công nghệ sạch, cần đầu tư nguồn vốn vào nghiên cứu cũng như chấp nhận chậm phát triển trong giai đoạn chuyển tiếp;

         Chấm dứt hẳn việc xử dụng năng lượng hóa thạch. Điều nầy không dễ vì, nếu lấy Hoa Kỳ làm thí dụ, lượng than đá của xứ nầy còn đủ dùng cho 250 năm nữa, Mỹ không thể chấm dứt việc dùng than trong một sớm một chiều được, nhưng kỹ nghệ nầy đã được thay thế bằng phương pháp “hóa khí” – “gasification” than đá trước khi biến thành điện năng, giảm hơn 90% việc phát thải khí CO2 so với phương pháp cổ điển bằng cách đốt than đá trực tiếp;

         Việc áp dụng các loại năng lượng tái tạo (renewable energies) cũng cần phải cân nhắc lại vì, năng lượng tái tạo như thủy điện sẽ không phát thải khí nhà kính, nhưng lại hủy hoại hệ sinh thái toàn vùng. Chính vì vậy mà Ngày Môi trường Thế giới năm nay 2021 cổ súy cho việc phục hoạt hệ sinh thái toàn cầu;

         VIệc cải tiến công nghệ thực phẩm và lương thực để thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn nữa trong tương lai nhằm giảm thiểu nguồn nước tiêu thụ cũng như phân bón và các hóa chất bảo vệ thực vật. Cân bằng nguồn lương thực động vật và thực vật sẽ là một tác động không nhỏ trong việc giảm thiểu việc phát thải khí Carbonic;

         Phải chăng, đã đến lúc chúng ta cần phải xét lại thói quen và cung cách ăn uống của chúng ta nhứt là đối với những người sống trong những quốc gia có nguồn lương thực dồi dào và ăn quá nhiều “thịt” như ở Hoa Kỳ?

         Một gợi ý khác nữa là, nếu chúng ta không giảm thiểu được nguồn phát thải khí CO2 vào bầu khí quyển do điều kiện đặc thù của từng quốc gia, một giải pháp khác được nêu ra là “làm nguội trái đất bằng cách đưa vào bầu khí quyển một lớp mây tinh thể - Salt crystal clouds…để ngăn chận bớt tia sáng mặt trời do hiện tượng phản chiếu gây ra. Đây là một ý tưởng độc đáo của một số khoa học gia nghiên cứu về neo-energie (năng lượng mới). Từ đó, trái đất sẽ bớt…nóng lên!

Chừng ấy suy nghĩ thiết nghĩ cũng quá đủ cho các lãnh đạo toàn cầu và những nhà khoa học có viễn kiến của nhân loại suy gẫm.

Còn riêng đối với mỗi người trong chúng ta, với tư cách của một người dân toàn cầu, ý thức bảo vệ môi trường cần phải phát xuất từ trong TIM và hành động do Ý CHÍ, chứ không qua …LỜI NÓI!

Vì vậy, xin được kết luận là:” Năn nỉ những nhà làm chính trị có dự mưu, những nhà làm khoa theo theo chiều hướng của quyền lực cần nên nghĩ lại và tập trung vào việc giải quyết một cách rốt ráo việc quản lý phế thải cho toàn cầu. Nên nhớ, hiện tại có một bãi rác nổi khổng lồ lớn hơn 2,5 diện tích tiểu bang Texas nằm giữa Hawaii và San Francisco.”

MONG ĐƯỢC LẮNG NGHE!

 














Tuesday, December 14, 2021

 

Đoạn Ái: Nghĩ – Hiểu – Tập

  

Lời người viết: sau hai ngày tham dự buổi lễ 49 ngày của người chị của một người bạn ở Dallas, người viết tự dưng thấy cần phải chiêm nghiệm thêm về “Đoạn Ái” vì: - Quang cảnh buổi lễ đưa đến quá nhiều thương tiếc, nhớ nhung giữa người và người, - Vị thầy giảng trong buổi lễ cũng đưa ra lời khuyên nhũ là đừng bi lụy nhiều quá đối với người quá cố, chỉ nên giữ “trong lòng” (?)…Có đôi lúc trong giữa buổi lễ, người viết nghe  “lùng bùng lỗ tai” và thấy cần suy nghĩ lại. Chính vì vậy, bài viết dưới đây được nhuận sắt lại. (14/12/2021)

 ***

Hôm nay, ngày 23 tháng 11 năm 2017, tôi muốn nói về tôi và với tôi.

Chỉ trong vòng một tháng, giữa tháng 10 và 11, tôi đã trải qua ba chuyến du hành từ miền Tây Hoa Kỳ, San Jose, đến miền Trung, Dallas, và miền Đông Washington DC. Mỗi chuyến kéo dài 5 ngày, nhưng thực sự làm tôi hụt hẫng …vì mệt!

 

Tổng cộng gồm 3 buổi hội luận, thuyết trình chính thức trước cộng đồng, nhiều buổi hội luận, trao đổi với các hội đoàn, nhóm nhỏ, 4 buổi phỏng vấn trên truyền hình, 4 buổi phỏng vấn trên truyền thanh, và hơn 4 giờ thâu youtube ở ba nơi (mỗi youtube kéo dài khoảng 15 phút, như vậy sẽ có 16 youtube sắp ra mắt).

 Tôi nói gì mà lắm thế?

Tôi nói về Đất và Nước nơi sinh tôi ra. Tôi nói về chuyện:

·       Chuyện Môi trường, Thực phẩm, và Y tế;

·       Chuyện Cộng sản Bắc Việt;

·       Chuyện Trung Cộng triệt hạ nguồn lương thực bằng cách chận nước sông Cửu Long từ đầu nguồn bằng đập Cẩm Hồng, Vân Nam;

·       Chuyện TC đầu độc dân tộc Việt qua thực phẩm nhiễm độc vì có chứa độc chất kích thích (excitotoxins) để tạo ra “hương vị giết người” (mượn lời tựa quyển sách “The taste that kills” của BS Russell Blaylock) nhằm mục đích triệt hạ tinh thần chiến đấu của các thế hệ tương lai của dân Việt sau khi Hán hóa Việt Nam;

·       Chuyện CSBV “đu giây” giữa Mỹ và Tây Phương trong trục “Ấn-Thái Bình Dương” với Trung Cộng để còn nước, còn dân và còn mạng; nhưng nếu theo Tàu chắc chắn mất nước, mất đảng, mất dân, và luôn cả mất mạng!

 

Ngày hôm nay (và dĩ nhiên còn nhiều ngày sau nữa nhằm “nhuận sắc” bài viết lại), tôi dứt khoát tập trung để trang trải, để nói về mình trong suy nghĩ, hiểu và tập trong “pháp mônĐoạn Ái. Mùa Thanksgiving năm nay, đối với phong tục tập quán Mỹ là một Mùa Tạ Ơn, gia đình sum họp, ăn gà tây, cám ơn các dân tộc bản địa (indigenous people) nhứt là Dân Da Đỏ giúp những di dân đầu tiên tức là dân tộc Hoa Kỳ hôm nay ở vùng Đất Hứa Mới.

Còn tôi, sẽ không có gà tây, sẽ không có gia đình để sum hợp…tôi chỉ có bàn phím và người tình “một mắt” (tức chiếc computer) để nói lên cảm nghĩ và suy tư của một người con Việt xa xứ về ngày Lễ Tạ Ơn nầy.

1-    Tuổi Capricorn

Tôi tuổi Capricorn. Theo lịch Tây phương, đây là dấu thứ mười của chu kỳ hoàng đạo, nói lên tất cả về công việc khó khăn. Người Capricorn đều có tham vọng và quyết tâm: sau cùng họ sẽ đạt được mục đích mà họ muốn dù có trải qua muôn vàn khó khăn.

Cuộc sống của Capricorn là một “dự án lớn” cho những người mang tuổi này, và họ thích ứng với hoàn cảnh bằng cách áp dụng cách tiếp cận thực tế cho hầu hết mọi hành động họ muốn làm và thực hiện. Capricorn cũng thực tế, từng bước một và thực tế và càng thực tế càng tốt. Người sinh ra dưới ký hiệu Capricorn rất tận tâm với mục đích mà mình chọn lựa, hầu như đến mức bướng bỉnh. Những chiến thắng chắc chắn có mùi vị ngọt ngào nhưng cũng có những đắng cay trong đó …dù mục đích đã đạt được.

Con Dê tượng trưng cho Capricorn. Dê thích leo lên đỉnh núi, nơi không khí trong lành. Trong tận cùng của suy nghĩ, Capricorn mong muốn được lên đến đỉnh cao của lĩnh vực được lựa chọn của người mang tuổi nầy. Không phải lúc nào Dê cũng muốn đi dạo trong công viên, vì vậy Dê đã bị chảy máu, sức móng, rách tai, đôi khi còn bị tổn thương nặng nề vì dư luận, vì định kiến, vì “địa phương tính”… trên đoạn đường đời đã trải qua. Nhưng cuối cùng, Dê cũng “đứng dậy” và đi tiếp. Những đặc tính riêng biệt độc đáo của Dê:

·       Những điểm yếu: - Biết tất cả - Khó khăn trong tha thứ - Không chấp nhận hạ mình - Mong đợi và chấp nhận điều tồi tệ nhứt xảy ra cho chính mình;

·       Những điểm tốt: - Luôn tích cực trong công việc – Biết lắng nghe – Sống với niềm Tin và hướng thượng.

Tất cả những ghi nhận trên được trích từ các mạng lưới toàn cầu và thấy đúng cho người viết! Hy vọng sẽ có ít nhứt một người hiểu được Capricorn Phổ Lập!

2-    Ái

Sau gần tám thập niên (chỉ thiếu một năm nữa thôi!) hiện diện trên cõi ta bà nầy, cuộc sống cũng đã xuyên qua quá nhiều “ngả rẽ” (turning point), quá nhiều bước đi gập ghềnh cũng như phẳng phiu.

·       Có những lúc tưởng chừng như yên ả, nhưng thực sự là những luồng sóng ngầm, giông tố chập chùng đang chờ đợi…

·       Có những lúc hầu như tuyệt vọng nhưng rồi …an bình lại hiện đến…

·       Và cũng có những lúc, một mình chiêm nghiệm lại quá khứ đã qua, và chỉ âm thầm sám hối.

Về Vô minh, Đức Phật định nghĩa như sau: “Và này các Tỷ kheo, thế nào là Vô minh? Này các thầy Tỳ kheo, không biết rõ về Khổ, không biết rõ về Khổ tập, không biết rõ về Khổ diệt, không biết rõ về con đường đưa đến Khổ diệt, đây gọi là Vô minh”. 

Mọi cá nhân hiện hữu đều có “Tự ngã” và thường xuyên cố gắng nuôi dưỡng, phát triển tự ngã giữa sự thật “Vô ngã”. Chính lối tư duy và hành động này đã nuôi dưỡng Vô minh và thúc đẩy con người khư khư lấy ý niệm: “Cái này là của tôi, là tôi, tự ngã của tôi” càng lớn, trong đó chủ thể nhận thức đã có mặt tác ý lên mọi hành động mà con người biểu hiện ra bên ngoài.

Tất cả cũng do chính mình, cũng do cái tôi còn lùng bùng trong vô minh cho nên mới ra cớ sự. Chính vì vậy, suy nghĩ về đoạn ái, đã được tôi chiêm nghiệm và tìm hiểu cách đây khoảng 10 năm. Mười năm ngụp lặn trong những toan tính, trong những cuộc hành trình phức tạp, trong quyết định chín chắn cũng như cũng không chính chắn và trong một cơn “xúc động và tự ái“ vội vã

Để rồi, ngày hôm nay trong cái tĩnh mịch của đêm thâu, mới thấy chữ “ÁI” cũng chính là do vô minh tạo dựng!

Chính là do Vô minh cho nên mới Hành, do Hành mới Thức, do Thức mớiDanh sắc, từ đó, do Danh sắc mới có Thọ, rồi từ Thọ sinh ra ÁI. Kết cục, từ Ái mới nảy sinh ra thất tình, lục dụcĐó là sự vận hành của tất cả Khổ uẩn trong nhân gian.

Ái không phải là thực thể tự có và không thể tự nó vận hành độc lập. Nó càng không phải là bản chất hay lẽ sống của con người mà chỉ là kết quả hiện hành của vô minh. Thêm nữa, Ái còn lấy Vô minh làm thức ăn thức uống, một khi Vô minh hiện hữu đầy đủ, Ái sẽ hiện hữu đầy đủ. Vì thế, Ái mang bản chất của sự Vô minh và Khổ đau.

Kinh nghiệm của cuộc sống ở cõi ta bà nầy cho thấy, con người sinh ra để sống với các khát vọng hạnh phúc không thật và sự thỏa mãn lạc thú với thất tình lục dục. Dục vọng càng bốc cháy thì con người càng khổ đau không nguôi.

,

“Do Vô minh diệt nên Vô minh tận, do Vô minh tận nên nảy sinh ra ra Thức diệt”.

Sau cùng, đây mới thực sự là sự Đoạn diệt của toàn bộ Khổ Uẩn.

3-    Đoạn Ái 

Trên thực tế, đã là con người, cũng do lòng ham muốn thỏa mãn Khát Ái cho nên vô minh theo đó mà vận hành và dẫn đến sự hình thành các cảnh giới khác nhau, gọi là tam giới: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Vì vậy, cần phải bước ra khỏi đời sống khát Ái. Đoạn trừ Ái là đoạn trừ Vô minh.

Nhưng… Vốn làm người, làm sao bỏ được Khát Ái hay Tham Ái…

Do đó, cần phải Đoạn Ái.

Mà Đoạn Ái phải như thế nào?

Chỉ có một con đường duy nhứt để đoạn Ái là chính mình cần có suy nghĩ, thực hành một nếp sống bước ra khỏi thế giới của Vô minh, của lòng khát ÁI. Bởi vì, chính Ái luôn trói buộc con người đi vào sự thỏa mãn của các chấp thủ và chơi vơi trong Khổ uẩn. Thậm chí, Ái còn đưa con người hoài niệm về quá khứ và mở ra những viễn cảnh tương lai hão huyền, không thực tế. Để rồi từ đó dẫn ta đi vào…mê lộ!

Một khi con người chế phục được Ái sẽ đem lại an nhiên tự tại, tâm trí trở nên thanh tịnh, sáng suốt để giải quyết các công việc của chính mình, và cho mọi người. Từ đây, Tuệ sẽ phát triển, cuối cùng Ái sẽ không còn có mặt và Vô minh cũng vắng bóng. Con người an trú trong thế giới an bình của chính mình và cũng không cần phải truy tìm.  

Đó là chân hạnh phúc.

Một khi đã bước ra khỏi thế giới của Vô minh rồi, mặc nhiên, chúng ta đang hành trình trong tiến trình Vô ngã vì đã thoát khỏi lòng khát Ái thì mình không còn chấp thủ mọi hoạt động gây khổ ưu và phiền não cho bản thân và mọi người. Nhưng nói thì dễ, nhưng mấy ai thực hành được. Người viết cũng đang chập chững bước vào, nhưng cũng đã bị vấp ngã luôn. Vấn đề là phải luôn ý thức đừng để phải “lụy” vào trong Ái nữa!

4-    Tập

Nói đến đây, qua những sự hiểu biết và suy nghĩ trên, làm thế nào để Tập đây. Việc nầy, Người có cá tính của con Dê Capricorn đã hành xử như thế nào?

Để trả lời: Vẫn còn ở bậc tiểu học trên con đường tận diệt Vô minh để xóa lòng khát Ái và cuối cùng nhằm tiến tới giai đoạn Đoạn Ái!

Với trình độ nhận thức trên đây, hiện tại, “mình” vẫn còn quằn quại trong chấp ngã, trong khát Ái, làm sao tiến dần đến … Vô minh được?

Làm sao di chuyển cái “Tôi” ra khỏi những định kiến, thiên kiến, thoát khỏi hai chiếc hàm thiết làm cho “con ngựa” Capricorn chỉ đi theo một con đường định sẳn do Vô minh vẽ ra???

Vẫn biết mọi vật trên đời nầy đều Vô thường, phải thay đổi và hoại diệt; không vật gì thường hằng dù chỉ trong phút giây, hay sát na ngắn ngủi. Tôi hiện tại đã không phải là tôi ở sát na trước đó!

Biết mà sao vẫn để Vô minh dẫn đường?

Đó có phải là do Duyên hay Nghiệp kết thành? (Với tôi, Duyên và Nghiệp giống nhau và có cùng một nghĩa.)

Vô ngã là cái tôi được giải thoát.

Vô ngã là sự giải thoát, tức là xa lìa mọi sai lầm của các pháp của tâm thức, không bị xúc thọ ái ràng buộc."trong sự giải thoát là sự hiểu biết".

5-    Kết Luận

Vẫn biết Vô ngã là khi cái Tôi được giải thoát.

Vậy mà, làm sao thoát khỏi cái ngã và thoát khỏi vòng Vô minh qua sự qui kỹ (non-egocentric).

Chỉ còn hình dung được việc tập chú vào tâm niệm kinh Bát Nhã "Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha" để hy vọng vượt vòng Vô minh và mang lại sự an bình trong Tâm và Trí…chứ không hề mong cầu được đi qua…Bờ Giác!

Hôm nay, trong giây phút thiêng liêng và lắng đọng của ngày Lễ Thượng Ngươn năm Tân Sửu (và hôm nay trong giây phút trang nghiêm của mùa Giáng sinh 2021), một người con Việt sống tha hương xin được cúi đầu tạ tội thêm một lần nữa với Đất Trời, mang tội bất hiếu với cha mẹ vì không lo tròn hương khói, vun quén mồ mả ở quê nhà, không cùng chia xẻ nỗi đau vật chất và tinh thần với Bà Con trong nước đang quằn quại dưới bàn tay vô thần, vô dân tộc, vô tổ quốc của cường quyền hiện tại.

Một người:

·       Thời thơ ấu: Không biết Quê là gì?

·       Thời thanh thiếu niên: Chỉ biết Quê qua lời kể của Ba Má Anh Chị.

·       Thời trưởng thành: Biết Quê qua nửa vòng trái đất.

·       Thời lưu vong: Biết Quê trong tâm tưởng và hình như trong vô vọng.

Biết đến bao giờ Tôi mới nhìn lại Quê hương đích thực của tôi đây?

Mai Thanh Truyết

Viết cho ngày L T Ơn 2017

Hiu đính Tết Tân Su và –12/2021 

Ghi chú:

Góp ý của BS LTNV, Việt Nam:” Nhà văn Nguyên Phong cũng là một nhà khoa học, trong cuốn " Muôn kiếp nhân sinh" đã dùng lời của một Phi hành gia khi trở về trái đất từ không gian. Chắc Hiền Huynh cũng đã đọc rồi, tiện đây muội chép lại nha:"Khi tôi từ không gian trở về trái đất với một trải nghiệm lạ lùng, tôi thấy rõ sự tàn bạo đang gia tăng khắp nơi. Tôi cảm nhận nỗi đau khổ của những nạn nhân chiến tranh như thể nó xảy ra với chính mình vậy. Tôi thấy rõ những hậu quả mà con người đang gây ra cho trái đất này, chẳng hạn như tàn phá môi trường không thương tiếc. Càng ngày con người càng trở nên ích kỷ, tham lam, vô cảm, lãnh đạm, mà không nhìn thấy những hậu quả họ đang gây ra cho chính họ,cho gia đình họ,hay cho đất nước của họ. Do đó tôi thấy chúng ta cần phải thay đổi những quan niệm lỗi thời từ trước, vượt ra khỏi những tranh chấp thường tình để hướng đến những gì cao thượng, tốt đẹp hơn. Tiếc thay, hiện nay chính quốc gia của tôi cũng đang tiếp tay cho ảnh hưởng xấu xa này. Làm sao chúng ta có thể nói là nhân loại đã văn minh hơn trước, đã tiến bộ nhiều hơn trước trong khi chúng ta không ý thức gì về những việc chúng ta đang làm." 

Trong bài của Hiền Huynh, phần một Huynh nói về những việc Huynh đã làm trong thời gian trước và tính khí của Huynh theo tử vi. Phần này muội không đề cập, chỉ đến phần 2 Đoạn Ái, muội không tranh luận đúng sai vì Pháp môn nào cũng muốn đưa con người giải thoát. Ở đây muội chỉ nói lên một chút về tu thân của người Cao Đài, và qua phần gợi ý của Nhà văn Nguyên Phong muội cảm nhận được sâu sắc tác giả đã đạt được cảnh giới của tình thương yêu vô bờ, không cần đoạn lìa ái, mà lấy ái là thương để hoàn thiện con người mình hơn nữa. Đúng như người Cao Đài đã và đang sống trong giáo pháp lấy tình thương bác ái trải rộng. Muội có email cho Hiền Huynh nhưng vì vừa làm vừa viết nên chắc lời chưa thỏa ý. Hiền Huynh đọc nếu không cùng quan điểm cũng không vì thế trách muội nhiều chuyện thày lay nhen. 

Thêm nữa đây:” Dạ thưa Hiền Huynh, nếu Hiền Huynh muốn muội có ý kiến thì muội chỉ nói dựa trên Triết lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Dù muội vẫn thường xuyên theo dõi đọc chiêm nghiệm Giáo lý nhà Phật.

    Nói sẽ rất dài, nhưng không biết Hiền Huynh có nghị bàn trong tinh thần Đại Đồng hay không? 

Trước khi đi vào những từ ngữ đặc trưng của Phật giáo, (thật là rối rắm). Tôn giáo chỉ là phương tiện để người ta đạt Đạo., như Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng khuyên dạy các vị trong tăng đoàn," Qua sông bỏ thuyền". Vậy Chơn Lý nào cũng đều Quy nguyên (về một). Nguyên là khởi đầu, là nguồn cội mà người Cao Đài, người tín hữu Công giáo, hay Hồi giáo đều tin rằng đó là Đấng Sáng thế tự hữu và hằng hữu. Để trở về Quy nguyên, đạo Phật gọi là" bản lai diện mục", đắc Pháp, đắc Phật hay cao hơn đạt đến cảnh giới Niết bàn. Người Cao Đài gọi là" phản bổn hoàn nguyên". Đức Thích Ca Mâu Ni đã tìm thấy con đường giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi bằng Pháp Từ Bi, bằng quay trở lại nội tâm gọi là quán chiếu trong im lặng, triệt tiêu những vọng tưởng của quá khứ, những ái dục của thế gian trong 49 ngày với lời nguyện không ra khỏi cội bồ đề khi chưa tìm được Chân Lý. Ngài đã đấu tranh với chính nội tâm mình qua hình ảnh những quỷ mị cám dỗ v.v ...

 Nhưng chúng ta người trần sau biết bao nhiêu lần sinh tử theo vòng luân hồi nhân quả, đến hôm nay làm người là bậc nhơn phẩm để tiến hóa trở thành Thần, Thánh, Tiên, Phật, để đến lúc hiệp cùng Thượng Đế như lời Đức Chí Tôn dạy:"Khai Thiên Địa vốn THẦY, và sanh Tiên, Phật cũng THẦY; THẦY đã nói một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại, THẦY là chư Phật, và chư Phật là THẦY”. 

Các con là chư Phật, chư Phật là các con.

Có THẦY mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

THẦY khai Bát Quái mới tác thành Càn Khôn Thế Giái nên mới gọi Pháp; Pháp có mới sanh ra Càn Khôn vạn vật, rồi mới có người nên gọi là Tăng.

THẦY là Phật chủ cả Pháp, và Tăng, lập thành các đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng THẦY.

THẦY lập Phật giáo vừa khai Thiên lập Địa nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu. Tỉ như lập Tam giáo quy nhứt thì: - Nho là trước, - Lão là giữa, - Thích là chót.

Nên THẦY phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại Vô Vi chi khí, chính là Niết bàn đó vậy... 

Theo lời dạy của Đức CHÍ TÔN như trên và niềm tin vào Chơn giáo của THẦY, qua hình ảnh Đức Hộ Pháp ngồi trên Ngai, tượng hình ảnh Thất đầu xà là thất tình của con người "hỷ, nộ, ái, ố, dục, lạc, bi" nhưng ở nơi chân Ngài chỉ đạp trên 3 đầu xà tượng trưng cho nộ, ố, dục., hầu nhắn cho nhơn sanh hiểu rằng phải kềm chế ba tình cảm này, không để giận, ghét, ham muốn làm chủ tâm mình, còn những mối tình cảm, vui, buồn, thương, mừng thì không phải diệt. 

      Đoạn Ái của Hiền Huynh có thích hợp với thời kỳ? 

Không có lòng Ái Nhân, ái vật thì sao thể hiện được tính yêu thương của con người đồng đức háo sanh của Thượng Đế, đoạn có phải là lìa bỏ hay không? Khi dứt lìa tâm thương thì sao có tâm từ bi? 

Chỉ như vậy thôi, chơn lý đã bị phàm biến đổi. Trở lại câu nói của muội trên đầu, những từ ngữ khó hiểu là do phàm nhân suy diễn, tưởng rằng càng khó hiểu đoạt Pháp thì Pháp càng cao thâm, người phàm tánh tục khó mong giải thoát, và cuối thời hạ ngươn này thì Chánh giáo đã trở nên phàm giáo một phần, từ chỗ đó đường tu thì rất nhiều nhưng đến Niết bàn thì không phải ai cũng đoạt được. Đến độ Đức CHÍ TÔN phải chính mình hạ thế qua huyền diệu cơ bút thông công giảng dạy Chơn truyền, không giao Chánh giáo qua tay phàm nữa. 

Đạo Cao Đài chỉ chọn lựa những tinh hoa của Tam giáo để hoàn thành công cuộc cứu khổ, để nhơn phẩm sẽ trở thành Thần Thánh Tiên Phật, hay để phản bổn hoàn nguyên. Trở về với nhất nguyên nghĩa là hiệp cùng Thượng Đế. Vì nhân sinh quan Cao Đài là con người là Tiểu Thiên địa, mang Tiểu Linh Quang của Thượng Đế chiết ra từ khối Đại Linh Quang của Ngài. 

Đến đây muội tạm dừng vì thật sự "Đạo pháp trường lưu," như bài kinh Thích giáo của Đạo trong Kinh cúng tứ thời, hoặc như Đức CHÍ TÔN "Bất ngôn như mặc tuyên đại hóa". 

Muội có gì thất lễ Hiền Huynh thứ lỗi cho muội vì muội cũng còn phàm tánh lắm.

Muội hy vọng Hiền Huynh phúc đáp ạ.

Thân mến,

ltnv 54@” 

Phổ Lập đáp từ: 

Đoạn nhưng Vô Đoạn

Ái nhưng Vô Ái.