Saturday, October 31, 2020

Bác Sĩ Nguyễn Duy Cung - Một Quân Y Sĩ Nhân Bản

 

Thưa Bà Con,

Your Story kỳ nầy xin được giới thiệu BS Quân y Nguyễn Duy Cung, môt BS chuyên khoa về mổ xẻ. Vào những ngày cuối của cuộc chiến, anh không di tản như bao nhiêu người bạn khác, quyết định ở lại vì còn khoảng hơn trăm thương bịnh binh ở bịnh viện Nguyễn Thai Học, Gia Định. Quyết định nầy cũng kéo theo hơn chục y tá ở lại cùng với ông. Nhưng rồi ông cũng không giữ được bịnh nhân vì họ cũng đã bị sự tàn nhẫn vô nhân đạo của CSBV đuổi khỏi bịnh viện ngay sau ngày 30/4/1975. Người viết đã từng đến thăm BS Cung nhiều lần ở tại tư gia và rất cảm động khi thấy ông sống trong hoàn cảnh cô đơn, hiu quạnh, không người chăm sóc, dù gia đình (vợ và con) vẫn còn sống chung!

Thương thay cho một tấm lòng nhân bản của một người Bác sĩ Quân y của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Bài nói chuyện dưới đây nhân ngày ra mắt sách của Ông tại Westminster. Và Ông mất đi chỉ hơn một tháng sau ngày nầy (10/2014).

***

Bác Sĩ Nguyễn Duy Cung - Một Quân Y Sĩ Nhân Bản

                                                                                        Bài phát biểu ngày 28/9/14 tại Westminster,CA

Tôi nhận được bản thảo của quyển sách “Đời y sĩ trong cuộc chiến tương tàn” của tác giả Nguyễn Duy Cung từ một người bạn. Tuy nhiên qua nhiều bận bịu với công cuộc tranh đấu cho Việt Nam, tôi quên hẳn đi. Nhưng vừa mới đây, nhân một ngày “nghĩ dưỡng sức’ tôi đọc “một lèo” bản thảo cuốn sách.

Tôi đọc và tiếp tục đọc.

Buông tập giấy ra, tôi hình dung được Bác sĩ Nguyễn Duy Cung, môt người tôi được nghe qua nhiều người bạn kể những hành động của ông đặc biệt trong những ngày hấp hối của VNCH vào tháng 4 năm 1975, nhưng tôi chưa bao giờ được gặp anh trong thời điểm xáo trộn đó.

Cảm nghĩ đầu tiên của tôi là một sự bất ngờ lý thú, bất ngờ vì thấy cuộc đời của tác giả dù trải qua nhiều giai đoạn nghiệt ngã của Đất Nước và của chính bản thân ở cuối đời…mà anh vẫn giữ được tấm lòng trung hậu với tha nhân và những người thân thuộc chung quanh mình. Đó là một đức tính hiếm có của một con người.

Xin trích một đoạn khi anh nói về sự hiểm nguy trong cuộc chiến: “Cuộc đời của tôi đã đi qua những đoạn đường chông gai thời chinh chiến tàn khốc, đôi khi quá kinh hoàng trong cơn bơm rơi đạn nổ, nhiều lúc tưởng chừng như không thể nào thoát được lưới tử thần nếu không có bàn tay mầu nhiệm đã cứu vớt tôi. Tôi có người Mẹ thân yêu đã mất cách đây 50 năm, lúc tôi còn trẻ. Tuy nhiên, tôi có linh cảm như Mẹ tôi lúc nào cũng ở bên cạnh để che chở cho tôi và giúp tôi tránh khỏi những tình huống vô cùng khó khăn và đen tối”.

Lời văn tuy mộc mạc nhưng nói lên cái tâm lành của tác giả, cung cách duy tâm của người con Việt chống Cộng sản, luôn nghĩ đến và nuôi dưỡng một niềm tin mãnh liệt là có một Đấng thiêng liêng che chở mình qua hình ảnh và tình thương của người Mẹ.

Tôi cảm phục và đồng cảm với Bác sĩ Cung trong những giây phút cuối cùng của cuộc chiến. Trong lúc nhiều đồng nghiệp khác và cộng sự viên đều bỏ đi tìm đường di tản, anh Cung vẫn tiếp tục mổ xẻ, băng bó các vết thương của những người chiến binh Việt Nam trong nhà thương Nguyễn Thài Học. Xin nói, đây là một việc làm hiếm hoi của một người bác sĩ “thời hiện tại” mà ở xã hội xã nghĩa đầy ác tính nầy, chúng ta ít thấy được tinh thần phục vụ của một lương y thể hiện đúng theo lời thề Hyppocrates trước khi ra trường.

Tôi không nghĩ quyết định trên của anh Cung thuần túy là do lương tâm của một người y sĩ, mà còn là một níu kéo thiêng liêng nào đó, cầm giữ anh lại.

Tôi muốn nói, đó là Hồn Nước.

Hồn nước đã giữ chân anh, cũng như bao nhiêu người con Việt khác dù biết rõ người Cộng sản và con đường xã hội chủ nghĩa khắc nghiệt và phi nhân bản như thế nào rồi. Chính vì sự đồng cảm đó với anh, cho nên tôi quyết định viết một vài suy nghĩ về cuốn sách “Đời y sĩ trong cuộc chiến tương tàn”. Mặc dù cuộc chiến nhìn từ bên ngoài có thể được xem như cuộc chiến tương tàn theo ý của BS Cung, có lẽ vì dưới cặp mắt của một y sĩ, thương vong bên nào cũng là nạn nhân của chiến cuộc hết! 

Nhưng thực sự, đây chỉ là kết quả của một cuộc chiến do cộng sản Việt Nam mang đến cho quê hương mà thôi. Và, theo chủ quan của tôi, đây không phải là cuộc chiến tương tàn mà là…cuộc xâm lăng của Cộng sản tiến chiếm Miền Nam thân yêu của chúng ta. Tôi có những suy nghĩ khác với BS Cung về cuộc chiến đó, đúng như BS Cổn trong phần mở đầu tuyên bố, mỗi người nhìn vào cuộc chiến tùy theo cảm nghĩ của mình.

Hiện tại, anh đang sống trong những giây phút xế chiều của cuộc đời, anh đang chịu nhiều đau thương của thân xác do cơn bịnh ngặt nghèo gây ra, nhưng anh vẫn viết lại cuộc đời của anh trong một trạng thái hết sức bình thản, an nhiên, và đầy nhân hậu. Anh vẫn lạc quan và cám ơn cuộc đời đã cho anh nhiều ưu đãi. Và trong những giai đoạn khốn khó nhứt như hiện tại, anh vẫn nghĩ đó là những thử thách để cho anh cố gắng vượt qua.

Tôi không thấy anh thể hiện trong lời văn những tư tưởng yếm thế, buồn phiền hay hờn giận trong suốt chiều dài của cuốn sách. Nếu có chỉ là một bàng bạc thoáng qua vì cảm xúc quá độ; nhưng ngay sau đó, anh nghĩ lại và tự khuyên mình quên đi để thứ tha…

Có lẽ chính vì cái Tâm lành đó làm anh vượt qua cơn đau để có một tầm nhìn tích cực và nhân bản hơn trong cuộc sống phù du nầy.

Anh vẫn vui với miếng xôi, với dĩa bánh cuốn, hay cái bánh bao mà bạn anh mang đến trong những lần ghé thăm anh. Anh vẫn say sưa chăm chú vào ván cờ tướng anh đánh với bạn, không phải để tranh thắng thua, mà chính là tìm lại được những giây phút trân quý bên bạn.

Anh cám ơn tất cả, cám ơn bạn bè, và đặc biệt anh không tiếc lời cám ơn người vợ luôn bên cạnh anh và chia xẻ với anh trong mọi tình huống mỗi khi anh có dịp san sẻ trong cuốn sách. Bây giờ, trong những giây phút cuối của cuộc đời, anh nói:” Tôi may mắn gặp được một người vợ hiền tuy nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, nhưng thật “đảm đang” gan dạ, đã không “bỏ” tôi trong thời buổi khó khăn khi tôi còn ở trong các trại tù tập trung của cộng sản”.

Hoặc:” Sang Hoa Kỳ, vợ tôi biết chấp nhận thiếu thốn về vật chất riêng tư cho mình, đi làm lụng cực nhọc để cho tôi có đủ phương tiện học hành…”.

Thưa anh Cung,

Từ một bác sĩ giải phẩu gan dạ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, trực diện với nhiều biến cố gian nan suốt một thời gian dài, nhờ lòng quyết tâm để vươn lên, không đầu hàng nghịch cảnh, anh đã trở thành một Bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ khéo tay tại Hoa Kỳ.

Xin được khâm phục anh. Anh đã vượt qua bao nhiêu thử thách nhưng Tâm anh vẫn bình an, vẫn an nhiên tự tại. Trong anh, tôi nghĩ, anh không có tư tưởng chiếm đoạt, một suy nghĩ của đa số đàn ông, trong anh không có cái “của tôi”, do đó, tôi nhìn thấy được niềm an lạc nơi anh. Ngay cả đối với Vợ, anh nói là “được gặp” chứ anh không nói là “vợ của tôi”.

Anh đã thoát ra ngoài cái thường tình!

Chính vỉ vậy, anh mới đứng dậy được với nỗi đau thể xác do cơn bịnh và nỗi đau tinh thần do …tình người! Ở tuổi như anh, như tôi, mọi sự đều trở nên vô thường phải không anh?

Thưa anh Cung,

Anh không là một nhà văn. Anh viết một mạch hồi ký về cuộc đời như anh nói chuyện. Anh viết để cho con cháu, bạn bè biết về cuộc sống của anh, bình dị và thản nhiên.

Tôi cũng như anh, tôi không là một nhà văn, chỉ “nghĩ sao nói vậy người ơi”, rất Nam Kỳ. Nhưng tôi viết trong sự chân thật, tôi đáp lại tấm chân tình của anh đối với người thân và tha nhân.

Duyên hội ngộ cho phép tôi chỉ đếm thăm anh một lần duy nhất, và sau đó, vì hoàn cảnh, vì sự “cấm đoán”, tôi không còn dịp để thăm anh. Hôm nay, nhân anh có mặt trong buổi Ra Mắt sách nầy do Diễn đàn Cựu Sinh Viên Quân Y QLVNCH, tôi xin nghiêng mình kính cẩn với tâm phục một Người Lính Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ đầu hàng trước nghịch cảnh và luôn luôn ngẩng cao đầu …đi vào con đường cứu nhân độ thế.

Anh là Một Người Lính Việt Nam Cộng Hòa Nhân bản!

Tôi viết các suy nghĩ trên liên tưởng đến ngày 14 tháng 7. Ngày nầy cách đây 225 năm, người dân Pháp đã biết đứng lên tháo bỏ gông xiềng phong kiến, khơi mào cho tư tưởng tự do ngày nay.

Thưa anh,

Bao giờ những người con Việt làm được như người Pháp năm xưa để mang lại niềm an lạc cho dân tộc Việt?

Viết lên những dòng chữ nầy, tôi hy vọng luôn được làm bạn với anh để được học hỏi nơi anh, một người Lính đích thực của Việt Nam Cộng Hòa.

 


 

 

 

 

 

 

 

 


Friday, October 30, 2020

 

Thưa Bà Con,

Chưa đầy một tuần lễ nữa, cuốc bầu cử 3/11/2020 sẽ diễn ra quyết liệt giữa đương kim Tổng thống Trump và Cựu PTT Biden. Câu chuyện “Dầu trong đá” (fracking) là một đề tài nẩy giữa giữa hai Ông. BÀi viết dưới đây hy vọng giải đáp một phần nào về sự khác biệt quan điểm giữa hai Ông trong vấn đề nầy.

 


Dầu Trong Đá

Năng lượng điều tiết giá dầu thế giới: Dầu khô trong đá –

Oil Shale hay Dầu thu được từ đá phiến bitum

 

1. Tình trạng dầu lửa trên thế giới

Trên thế giới hiện tại có một cơn khủng hoảng trầm trọng. Đó là cơn khát dầu thô, nhiên liệu chính cho mọi vận chuyển đường thủy, đường bộ và đường hàng không. Cho đến nay, giá xăng dầu tiếp tục tăng đồng biến với giá dầu thô. Giá dầu giao động khoảng $100 Mỹ kim/thùng vào giữa năm 2015. Cuộc khủng hoảng lần nầy khác với cuộc khủng hoảng trong những năm đầu thập niên 70 ở thế kỷ trước và có nhiều hình thái đặc biệt.

Trữ lượng dầu hỏa trên thế giới, qua nhiều thăm dò và nghiên cứu của những cơ quan khác nhau như: Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (1997), Báo Washington Post (1996), Kỷ yếu Năng lượng quốc tế 1998 (International Energy Annual), Phòng Thống kê LHQ (1994). Theo ước tính 2016, trữ lượng dầu thô hiện chiếm vào khoảng 6.050 tỷ thùng hay 962 tỷ m3. Cũng cần biết: 1 barrel = 42 Gallon = 159 lít = 0,16 m3.

Cũng theo ước tính của Cơ quan Địa chất HK (US GS) thì với trữ lượng nầy, nhân loại chỉ có triển vọng sử dụng trong vòng 50 năm tới mà thôi.

Đứng trước tình trạng sử dụng xăng dầu ngày càng tăng theo nhu cầu và đà gia tăng dân số hiện nay, giới hạn tiêu thụ trên sẽ thấp hơn 50 năm nếu căn cứ theo mức sản xuất của OPEC và các quốc gia sản xuất dầu độc lập. Nhưng trên thế giới hiện tại, còn có nhiều quốc gia đang tiếp tục truy tìm và khai thác những khu vực có triển vọng có mỏ dầu ở trong đất liền cũng như ở trong trầm tích của thềm lục địa như ở Việt Nam, Alaska (Hoa Kỳ), Nam Dương, Venezuela, Liên bang Nga v.v... Do đó trên thực tế, chúng ta có thể ước tính một cách lạc quan hơn con số 50 năm. Đó là chưa kể đến những phương pháp và nguyên liệu khác đang được nghiên cứu để thay thế xăng dầu. Tuy nhiên, tùy theo tình hình biến động mà giá dầu có thể tăng bất ngờ do tình trạng "tạm ngưng" sản xuất của OPEC làm tăng thêm khủng hoảng năng lượng trên thế giới. Đó là cuộc khủng hoảng vào năm 1973. Ngay từ năm 2014, chúng ta cũng đang sống trong một giai đoạn của một hình thức khủng hoảng vì giá dầu đã tăng gần gấp đôi so với năm ngoái.

Đứng trước những bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào để tạo nên cuộc khủng hoảng năng lượng xăng dầu trên thế giới, các nhà khoa học đã có những bước tiên liệu để ngăn chặn hay hạn chế các bất trắc có thể xảy ra cho thế giới. Thế giới đã nhìn thấy hiểm họa của việc sử dụng dầu thô làm nguồn nguyên liệu chính cho công nghệ phát triển và di chuyển.

Vì đó là:

- Nguồn nguyên liệu có trữ lượng giới hạn và đã báo hiệu trước thời gian bị cạn kiệt không xa;

- Mức ô nhiễm môi trường đặc biệt là sự hâm nóng toàn cầu là một nguy cơ thật sự mà thế giới cần phải giải quyết;

- Sau cùng, phương hướng tập trung để giải quyết hai vấn nạn trên là: truy tìm nguyên liệu để thay thế xăng dầu và biện pháp giải quyết mới để giảm thiểu việc phóng thích khí monoxide carbon (CO) và thán khí (CO2) vào bầu khí quyển.

Hai hướng giải quyết trên là hai định hướng tối ưu trong hiện tại để tiến đến việc ngăn ngừa khủng hoảng năng lượng xăng dầu, và giảm thiểu được lượng thán khí, tác nhân chính của sự tăng nhiệt độ của bầu khí quyển.

Trước cơn khủng hoảng hiện tại, thế giới đặc biệt là Hoa Kỳ đã nhắm đến giải pháp tập trung vào việc truy tìm những loại năng lượng mới cũng như những biện pháp hạn chế mức sử dụng năng lượng hiện tại.

Để có thể hạn chế mức sử dụng xăng dầu, Cơ quan Bảo vệ Môi trường HK (US EPA) cho phép áp dụng rượu cồn hay ethanol để trộn vào xăng dầu chạy xe. Có thể pha trộn đến tỷ lệ 70% rượu trong xăng (Ba Tây đã thay thế xăng rượu cồn 100% cho việc chạy xe). Vì vậy mà mức sản xuất rượu cồn ở Hoa Kỳ trong năm 2004 là 12,5 tỷ lít, 17% cao hơn so với năm 2003. Các tiểu bang trồng bắp để sản xuất ra rượu ethanol ở Hoa Kỳ là Iowa, North và South Dakota, Nebraska, Wisconsin. Hiện nay, trong hầu hết các tiểu bang, xăng được pha cồn ethylic với tỷ lệ 10%.

Hiện nay, với nhu cầu giải quyết nạn khan hiếm năng lượng xăng dầu và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, ethanol quả thật là một nhu cầu cấp bách cho thế giới. Do đó tiêu chuẩn đặt ra cho công nghệ lên men nầy là:

·       Truy tìm loại vi khuẩn làm tăng tiến trình lên men nhanh hơn và cho hiệu suất cao;

·       Và giảm thiểu tối đa các phó phẩm khác không cần thiết trong quy trình. Và theo như đã dự trù, trong năm 2025, HK sẽ giảm lượng tiêu thụ xăng dầu từ 10 đến 15% so với mức tiêu dùng năm 2004 do việc sử dụng ethanol trong các phương tiện di chuyển.

2- Lịch sử Dầu khô trong đá

Con người đã sử dụng loại dầu khô trong đá (còn gọi là dầu đá phiến) làm nhiên liệu từ thời tiền sử, vì nó được đốt ngay không qua một quá trình chế biến nào. Người Anh của thời kỳ “đồ sắt” (Iron Age) cũng dung “loại dầu khô” để đánh bóng và xem như là một món hàng trang trí. Bằng sáng chế đầu tiên để chiết xuất dầu từ đá là Bằng sáng chế Vương miện Anh 330 (British Crown Patent 330) được cấp năm 1694 cho ba người tên là Martin Eele, Thomas Hancock và William Portlock, người đã "tìm ra cách để chiết xuất” và tạo ra số lượng lớn “dầu” ở điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường ra khỏi một “loại đá”.

Thuật ngữ “dầu khô trong đá” thường dùng để chỉ bất kỳ loại đá trầm tích nào có chứa chất rắn bitum (được gọi là kerogen) có thể thải ra một loại chất lỏng có chứa dầu lửa trong quá trình nhiệt phân. Loại dầu nầy dầu được hình thành hàng triệu năm trước bằng cách lắng đọng phù sa (silt), bùn cát và các mảnh vụn hữu cơ trên trầm tích lòng ở đáy hồ hay đáy biển. Đặc biệt tại bang Toronto, Canada, loại dầu nầy nổi trên mặt đất dưới dạng hình tròn đường kính khoảng 1-2 cm, cho nên việc khai thác rất dễ dàng.

3. Hướng giải quyết của Hoa Kỳ

Tại Hoa kỳ vào năm 2005, Bộ luật về Chính sách Năng lượng ra đời cho phép các tiểu bang như Colorado, Utah, và Wyoming nghiên cứu sản xuất đầu từ trong các lớp đá của ba tiểu bang nầy.

Dầu khô kết dính trong những lớp đá ở ba tiểu bang nầy dưới dạng asphalt giống như nhựa đường và có tên là bitumen. Lớp dầu "khô" có cơ cấu gồm các hỗn hợp chất hữu cơ thiên nhiên nằm chen lẫn bên trong những lớp đá.

·       Nếu các lớp đá trên được đun nóng, dầu thô sẽ chảy ra và tính chất của dầu tương đương như những loại dầu thô trích ra từ những túi dầu. Phương pháp nầy có tên là "chưng cất bằng nhiệt" (retorting);

·       Kỹ thuật dùng áp suất bẻ gãy các lớp đá để phóng thích dầu (fracking).

Trữ lượng dầu thô dưới dạng này ở 3 tiểu bang trên đã được nghiên cứu từ lâu nhưng mọi cố gắng để thương mại hóa đều không thành công vì kỹ thuật ly trích trên còn bất lợi vì giá thành còn cao so với dầu thô trích từ các túi dầu trong thiên nhiên.

Tuy nhiên với cuộc khủng hoảng giá cả của dầu thô vào năm 2015 trên thế giới, phương pháp lấy dầu trong đá có thể biến thành hiện thực.

Khả năng sản xuất thương mại

Theo sự ước tính của các nhà khoa học, việc khai thác dầu trong đá cần phải đầu tư nhiều về nguồn vốn và giá thành sản xuất còn cao khoảng $70 Mỹ kim/thùng. Do đó, nếu giá dầu thô trên thế giới lớn hơn $70, thì hiệu quả kinh tế của phương pháp nầy bắt đầu tăng. Hiện tại Bộ Nội vụ Hoa Kỳ đã cho phép 6 công ty bắt đầu nghiên cứu khai thác trên 160 mẫu đất ở vùng Colorado. Các công ty đó là Chevron, Oil Shale Exploration, EGL Resources v.v... Cũng có một vùng nằm trong khai thác ở Wyoming và Utah. Các công ty dự tính bắt đầu khai thác thương mại vào tháng 8, 2008. Nhưng mãi đến năm 2016, khi giá dầu bắt đầu giảm, việc sản xuất thương mại dầu khô mới bắt đầu. Năm 2017 giá thành sản xuất 1 thùng dầu bằng phương pháp “fracking” nầy giảm xuống giao động khoảng $US50. Năm 2019, giá thành sản xuất xuống còn $US40.

Vấn đề bảo vệ môi trường trong việc khai thác

Sau khi thông qua về những vấn nạn môi trường có thể xảy ra qua quy định của Bộ Luật Chính sách Môi trường Quốc gia (NEPA) trong đó phương pháp trích dầu khô từ đá phải chứng minh hay đạt được những tiêu chuẩn sau đây:

·       1. Khả năng và tính khả thi của phương pháp;

·       2. Hiệu quả kinh tế so với việc khai thác dầu thô hiện tại;

·       3. Và giải quyết được tất cả những vấn nạn môi trường qua việc khai thác bằng phương pháp trên.

Trữ lượng dầu từ nguồn này ước tính khoảng hơn 800 tỷ thùng theo nghiên cứu và tính toán của Văn phòng Quản lý Đất HK (BLM). Lượng dầu thô trong đá có ở miền Trung Tây Hoa Kỳ ước tính khoảng 12 ngàn dặm vuông nằm trong ba tiểu bang Colorado, Utah, và Wyoming. Với diện tích nầy, lượng dầu sẽ có trữ lượng lớn hơn gấp 3 lần trữ lượng hiện tại của Saudi Arabia và có thể cung ứng năng lượng cho Mỹ trong 110 năm tới.

Trước những thông tin đầy lạc quan về cung cách giải quyết cuộc khủng hoảng dầu thô hiện tại, vấn đề môi trường trong phương pháp nầy đã được lưu ý đến rất nhiều qua nghiên cứu những vấn nạn có thể xảy ra khi khai thác và biến chế

Hiện tại, cho dù khai thác bất kỳ một công nghệ mới nào, nhất là công cuộc khai thác tài nguyên thiên nhiên, việc bảo vệ môi trường là yếu tố hàng đầu. Trong phương pháp chưng cất bằng nhiệt để trích dầu thô trong đá nầy có 4 yếu tố chính gây ảnh hưởng lên môi trường.

Đó là:

- Sự ô nhiễm không khí qua sự phát thải những hạt bụi nhỏ;

- Nhất là ảnh hưởng đến sự hâm nóng toàn cầu do sự phóng thích khí carbonic. Hai vấn nạn này nếu không khắc phục được thì việc sản xuất kỹ nghệ có thể bị hạn chế;

- Ngoài ra việc ô nhiễm nguồn nước sông Colorado cũng là một yếu tố cần lưu ý. Cho đến nay, chưa có biện pháp tiên liệu nào để ngăn chận nguồn ô nhiễm từ lòng đất đá vào nguồn sông trong khi khai thác;

- Và vấn nạn thứ tư cần phải kể đến là con người cũng chưa tiên liệu được mức cân bằng sinh học giữa đất, đá và sông.

Qua các vấn nạn vừa nêu trên, con người đã tiện liệu các giải pháp để ngăn chặn hay hạn chế 4 vấn nạn kể trên căn cứ vào những căn bản khoa học hiện có để giải quyết vấn đề chúng ta đang đứng trước cơn khủng hoảng dầu hiện tại.

Và đây cũng là vấn đề của mỗi người trong chúng ta, người tiêu thụ xăng dầu trực tiếp, cần phải thay đổi não trạng trong cung cách sử dụng xăng dầu trước tình thế mới. Đó là hạn chế mức tiêu thụ hàng ngày bằng nhiều cách như: không phí phạm khi sử dụng xe trong di chuyển, chỉ di chuyển khi thực sự cần thiết, hay dùng xe công cộng như xe buýt hay đi chung xe khi đi làm việc, đi bộ hay dùng xe đạp, sử dụng hệ thống điện thoại, điện thư trong giao dịch để tránh bớt di chuyển v.v...

Làm được như thế, chúng ta đã giải quyết một phần cuộc khủng hoảng ngày hôm nay và hạn chế được sự phát thải nguồn khí carbonic, nguyên nhân chính cho sự hâm nóng toàn cầu.

4. Thay lời kết

Qua những tin tức đan kể ở phần trên, quả thật sự khai thác dầu khô trong đá ở Hoa Kỳ đã điều tiết được giá dầu trên thế giới do OPEC, mà trước đây, những đại công ty ở Trung Đông hoàn toàn quyết định giá cả cho thị trường. Hiện nay, giá dầu đã bình ổn khoảng trên dưới $US50/thùng (giá thị trường ở Houston hiện tại là khoảng  $US2.00/Gallon).

Vào ngày 14/3/2017, Kate Richard, Giám đốc điều hành của công ty đầu tư năng lượng Warwick Energy, cho biết “rủi ro thị trường dầu mỏ lớn nhất cho năm 2017 là viễn cảnh chiến tranh chia sẻ thị trường - hoặc ít nhất là một cuộc thách thức - giữa các nhà khai thác dầu khô trong đá của OPEC và Mỹ”. May mắn thay, chuyện nầy chưa xảy ra cho đến na9m 2020 nầy…

Vì vậy, bắt đầu từ đây, và nếu không có gì biến động đột ngột trên thế giới, giá dầu vẫn SẼ được bình giá như trên trong một thời gian dài…

Nước Mỹ trung bình sử dụng 12 triệu thùng dầu hàng ngày cho nhu cầu năng lượng chung, nhập cảng khoảng 3 triệu thùng/ngày. Vào cuối năm 2015 trở đi, HK cho tăng mức sản xuất dầu khô trong đá, từ đó tạo ra hiện tượng cung cấp quá tải, do đó, giá dầu tụt xuống cho đến bình ổn khoảng $US50.00/thùng vào giữa năm 2016 cho đến bây giờ.

Với Hoa Kỳ, hiện tại, phải hạn chế sản xuất loại dầu này vì tất cả kho dự trữ đã quá tải. Trước đây vì lý do an toàn, mỗi bồn dầu dự trữ phải chừa 5% thể tích cho không khí. Nhưng, vào cuối năm 2016, thể tích an toàn cho không khí chỉ còn 2%. Có lẽ chính vì vậy mà TT Trump đã cho bán một phần dự trữ để vừa tăng mức an toàn trong lưu trữ, vừa kích thích tăng trưởng trong những năm 2017 và 2018 chăng?

Nếu đường ống dẫn dầu từ vùng Trung Hoa Kỳ xuống Galveston thuộc tiểu bang Texas được thực hiện trở lại (do lịnh cấm của cựu TT Obama), Hoa Kỳ có thể cung cấp dầu và khí đốt cho Âu Châu, từ đó, Liên hiệp Âu Châu sẽ không còn bị áp lực của Putin trong vấn đề cung cấp dầu khí nữa. Đây có thể là một thế chiến lược mang Hoa Kỳ trở về vị trí siêu cường kinh tế và chính trị?

Có thể nói, thời hoàng kim của các quốc gia Á Rập ở Trung Đông đã qua rồi. Nga Sô, với 50% tổng sản lượng quốc gia tùy thuộc vào dầu khí, và kể từ khi giá dầu sụt xuống từ trên dưới $100.00/Gallon còn khoảng $50.00, việc điều hành quốc gia trở nên khó khăn như thế nào cho Putin trong những năm trở lại đây!

Một trường hợp khác, xứ Venezuela hoàn toàn tùy thuộc vào việc khai thác và xuất cảng dầu. Hàng năm Hoa Kỳ nhập cảng hơn 10 tỷ Mỹ kim dầu từ xứ nầy cho đến năm 2015. Và, hiện nay Venezuela đang đứng trước khủng hoảng toàn quốc và đang trở thành một quốc gia… phá sản và đi dần vào tình trạng vô chính phủ (2020).

Vì vậy, có thể nói ngày nào Mỹ còn sử dụng món hàng “dầu khô trong đá”, sẽ không còn có những cuộc khủng hoảng dầu như thời thập niên 70 ở thế kỷ trước nữa. Vì Hoa Kỳ có thể hóa giải ngay tức khắc bằng cách sản xuất phụ trội loại dầu nầy mỗi khi OPEC giảm sản xuất để làm “giá” vì cán cân cung - cầu sai lệch.

Và đây mới đích thực là vũ khí của Hoa Kỳ nhằm điều tiết mọi khủng hoảng năng lượng ít ra trong một thời gian dài trong những năm sắp đến.

Thế giới đang thủ đầy bất an và biến động hiện nay, nhưng với giá đầu thô đang bình ổn trong suốt những năm vừa qua nhờ sự khai thác dầu khô trong đá – Oil shale. Việc nầy sẽ giúp Hoa Kỳ giữ được thăng bằng với những đối trọng hay đối thủ bất tận của Hoa Kỳ như Nga và Trung Cộng.

Mai Thanh Truyết

13.08.2017 – Hiệu đính 10-2020 

Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam - VEPS


















Tuesday, October 27, 2020

 

Thưa Bà Con,

TT Ngô Đình Diệm là người khai sáng nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa.

Nhằm kỷ niệm ngày Cụ qua đời 2-11-1963, người viết xin ghi lại thành quả của Đệ I Cộng Hòa qua:

·      Giáo dục được đặt mục tiêu: Dân tộc – Nhân bản – Khai phóng;

·      Chính sách “Người cày có ruộng” phân phối ruộng cho nông dân và bồi thường cho điền chủ bị truất hữu theo thời giá;

·      Đặt nền móng dân chủ qua: Hành pháp – Lập pháp – Tư pháp.

***

 

Thành Quả Của Đệ Nhất Cộng Hòa

 

 

Bài nói chuyện tại buỗi lễ tưởng niệm Cố Tổng        thống Ngô Đình Diệm ngày 4/11/2018 tại Houston

 

 

 

 

 

 

 

Thưa Quý vị,

Đứng trước bàn thờ và di ảnh của Cụ Cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Người đã để lại một di sàn cao quý trong suốt 9 năm nắm giữ riềng mối quốc gia từ 1954-1963, đem lại cương thường đạo lý cho trên 20 triệu bà con miền Nam thời bấy giờ. Ngay sau khi TT Diệm bị hạ sát, TT Tưởng Giới Thạch thốt lên lời nuối tiếc cho số phận nước miền Nam Việt Nam, ông nói:” Một trăm năm sau, Việt Nam Cộng Hòa chưa có được Ngô Đình Diệm thứ hai”.

 

Với chủ trương “Bài phong, Đả thực, Tiểu trừ Cộng phỉ”, T.T. Ngô Đình Diệm dưới mắt tôi, là một người yêu nước chân thành. Cụ không là tu sĩ, nhưng đã sống một đời đạo hạnh. Cụ không TU nhưng Cụ đã HÀNH đạo trong cuộc sống hằng ngày.

 

Có thể nói, Cụ Ngô Đình Diệm là khau sáng nền Đệ Nhứt Cộng Hòa và người thành lập Quân đội VNCH sau khi quân đội pháp bàn giao lại. Cụ cũng là người mang lại trật tự an ninh cho dân chúng chấn chỉnh lại ngành Công an, Cảnh sát sau khi dẹp xong sứ quân Bình Xuyên…Nhưng hôm nay, tôi muốn nhắc đến hai điểm nổi bật nhứt trong việc phát triển căn bản cho miền Nam. Đó là:

·       Xây dựng lại nền giáo dục miền Nam;

·       Chính sách cải cách ruộng đất ở miền Nam.

  

1-    Chính sách giáo dục của nền Đệ nhất Cộng Hòa ở Miền Nam

Vào năm 1958, một đại hội giáo dục toàn quốc (từ vỹ tuyến 17 trở vào) đã nghiên cứu và chấp nhận 3 nguyên tắc căn bản định hướng cho nền giáo dục Việt Nam là nhân bản, dân tộc, khai phóng. Và định hướng giao dục nầy được ghi rõ trong hiến pháp thời bấy giờ.

  1. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy nhằm mục đích phát triển toàn diện con người;
  2. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống, mật thiết liên quan đến những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và bảo đảm hữu hiệu cho sự sinh tồn và phát triển của quốc gia;
  3. Nền giáo dục việt Nam phải có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ xã hội, thâu thái tinh hoa các nền văn hóa thế giới.

Xin kể một câu chuyện có thật liên quan đến Cụ Ngô Đình Diệm:” Khi vừa “giải phóng” xong, Hoàng Dũng, một giảng viên đại học Huế, có kể về trường hợp Ông Lê Khắc Cầm, Gs đại học Huế khi “thống nhất” đất nước. Ông được Gs Nguyễn Văn Hạnh, từ Bắc vào, mời tiếp tục giảng dạy. Ông trả lời:” Cho tôi ra Bắc coi giáo dục miền Bắc XHCN thế nào đã, tôi mới quyết định”. Nhưng ngay sau chuyến ra Bắc, Lê Khắc Cầm nói lời chia tay thẳng thừng với Nguyễn Văn Hạnh”.

Hoàng Dũng kể tiếp: “Ông Lê Khắc Cầm vô SG bán thuốc lá vỉa hè kiếm sống và quyết không trở lại bục giảng cho đến chết”.

Được biết, Cha của Lê Khắc Cầm là một vị quan của chính phủ Ngô Đình Diệm, trong một cuộc họp, ông ấy chất vấn Bộ trưởng Giáo dục "vì sao cũng tốt nghiệp đại học như nhau, lương của giáo sư lại cao hơn nhiều lương kỹ sư và lương các nghề khác?" (Thời đó, lương của GS trung học tốt nghiệp ĐHSP có chỉ số lương 470, còn Kỹ sư, chỉ số 430).

TT Ngô Đình Diệm thấy sự lúng túng của Bộ trưởng Giáo dục đã rất lễ độ nói: “Dạ thưa anh, xin anh cho phép tôi được trả lời thay cho ông bộ trưởng ạ”.

- “Tôi xin hỏi anh, anh có con không?

- Có.

- Anh có yêu con anh không?

- Có.

- Anh có muốn con anh học giỏi và nên người không?

- Tất nhiên là có, thưa tổng thống.

- Vậy thì chính phủ phải ưu tiên trả lương thiệt cao cho giáo sư thì họ mới toàn tâm toàn ý dạy cho con của anh học giỏi và nên người chứ”.

 

Nói đến đây cũng cần có đôi lời về tình trạng giáo dục Bắc Việt & Việt Nam sau ngày 30/4/1975.

Thưa Quý vị,

Trước năm 1975, tại miền Bắc, hệ thống giáo dục trung học phổ thông chỉ có 10 năm. Thực chất của CSBV là nhằm mục tiêu đưa các em thanh niên ra chiến trường. Đặc biệt hơn nữa, rõ ràng CSBV không hướng đến việc đào tạo kiến thức phổ thông mà đặt trọng tâm vào việc xây dựng một cán bộ cộng sản nhiều hơn.

Riêng năm 2018, hai hiện tượng “ưu việt” mới của CSBV là:

·       Bộ tự điển tiếng Việt …lai Tàu của Bùi Hiền;

·       Và loạt sách đánh vần “kiểu mới” (văn minh và khoa học gấp vạn lần kiểu đáng vần cũ) áp dụng cho lớp 1.

·       Và gần đây nhứt vào 27/10 vừa qua, Bộ GD&ĐT lại ra thông cáo đuổi học cho sinh viên ĐHSP nào bám dâm hơn 4 lần. Thật hết nước nói!

Bây giờ xin hãy thử so sánh từng điểm của nền giáo dục trước năm 1975 với hiện trạng “giáo dục” ngày hôm nay, dưới chế độ CSBV, chúng ta thấy gì?

  1. Nhân bản: Nhân bản thời xã hội chủ nghĩa là tự do đàn áp, tra tấn và “cướp ngày”;
  2. Dân tộc: Dân tộc trong nghĩa Hán tộc đại đồng, chữ Tàu phải nằm trong chương trình giáo dục phổ thông;
  3. Khai phóng: còn có nghĩa là khai thông biên giới và chỉ tiếp cận với một văn minh duy nhứt là văn minh của Hán tộc;
  4. Khoa học: là khai thác, tận dụng tối đa sức lao động của người dân để cung phụng cho lý tưởng “đại đồng” của chủ nghĩa, tức là toàn đảng cùng giàu cùng hưởng thụ.

Vậy chính sách giáo dục quốc gia của Miền Nam trước 1975 khác xa HOÀN TOÀN giai đoạn giáo dục của xã hội chủ nghĩa hôm nay về căn bản và kết quả!

Thưa Quý vị,

Xin được sang qua chính sách cải cách điền địa của TT NĐD.

2-    Chính sách Cải cách điền địa

Ông Ngô Đình Diệm, vào ngày 7 tháng 7 năm 1955, được bổ nhiệm làm Thủ Tướng Chánh Phủ. Ở chức vụ Thủ Tướng Chánh Phủ, ông ban hành 2 Dụ, số 2 và số 7 năm 1955, liên quan đến vấn đề thuê ruộng, vì từ trước ở Việt nam, việc thuê ruộng không có giấy tờ hợp đồng giữa người thuê mướn và chủ ruộng nên thường chủ ruộng lấn ép làm thiệt hại quyền lợi của người thuê.

Giá thuê ruộng từ 40% đến 60%, tùy theo ruộng tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Luật về thuê ruộng qui định lại rõ qui chế tá điền. Từ nay:

-        Giá thuê ruộng từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoặch cho ruộng làm 1 mùa/năm;

-        Giá thuê từ 15 đến 25% cho mùa gặt chánh của ruộng 2 mùa/năm.

-        Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả ruộng và phải báo trước chủ ruộng 6 tháng. Chủ ruộng muốn lấy ruộng lại phải báo trước tá điền 3 năm.

Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sinh sống nên số ruộng bỏ hoang tính ra lên đến 500.000 mẫu tây. Trong thời gian chánh phủ cho kiểm kê, nếu chủ ruộng vắng mặt, số ruộng này sẽ bị trưng thu để cấp phát cho tá điền.

Sau đó, Luật Cải Cách Điền Địa ở Miền Nam thực hiện từ khi Tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền bằng Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956 nhằm hữu sản hóa nông dân, ngõ hầu thâu ngắn cách biệt giữa người giàu và nghèo. Đây là một gia tài quý đã được người đi trước mang lại thành công trong việc thu ngắn khoảng cách giàu nghèo trong dân chúng, và nhứt là tạo điều kiện cho người dân thẩm thấu được tinh thần dân chủ pháp trị, một nền móng căn bản cho dân chủ, tự do, và nhân quyền.

Xin được tóm tắt sau đây:

·       Điền chủ có quyền giữ cho mỗi người 100 mẫu đất, phải canh tác 30%, số còn lại cho mướn theo điều kiện luật hợp đồng đã ban hành.

·       Ruộng truất hữu, chủ ruộng được bồi thường theo giá ruộng, 10% bằng tiền mặt, 90% trả bằng trái phiếu với lãi xuất 3%/năm.

Kết quả là: Có lối 1035 điền chủ bị truất hữu vì mỗi người có trên 100 mẫu. Diện tích ruộng truất hữu là 430.319 mẫu, tính thêm 220.813 mẫu của Pháp kiều. Năm 1958, tổng số ruộng truất hữu là 651.132 mẫu.

Số tá điền trở thành điền chủ từ năm 1957 – 1963 là 123.193 người.

Chánh sách Cải Cách Điền Địa ở trong Nam làm cho chủ ruộng và tá điền đều hài lòng. Số ruộng đất bị Việt Minh trước đây tịch thu phát cho tá điền vì chủ ruộng vắng mặt, nay chánh quyền đem trả lại cho chủ và bồi hoàn tiền nếu bị truất hữu.

Xin kính cẩn nghiêng mình trước di ảnh Cụ.

Nói như thế,

Còn chính sách Cải Cách Ruộng Đất của Hồ Chí Minh và CSBV thì sao?

Xin trả lời ngày là:

·       Kể từ sau 1954, ngoài Bắc, ngay sau khi chia đôi đất nước, HCM và CSBV áp dụng chính sách đấu tố tàn bạo với danh nghĩa “lấy của người giàu chia cho người nghèo” và hiện tại vẫn tiếp tục dùng chính sách trên, cướp đất, cướp ruộng công khai để “vỗ béo” cho tầng lớp lãnh đạo cộng sản hiện tại. Bà Cát Hanh Long là người đóng góp vàng, tài sản cho HCM và là người bị xử tử đầu tiên trong chính sách CCĐĐ của CSBV.

 

Dưới thời CCRĐ của CS Bắc Việt, về thuế nông nghiệp, chúng ta thử nhìn lại sơ lược để có ý niệm cụ thể nông dân bị phá sản.

·       Thuế sẽ đánh 5% trên 100 kg lúa, 45% cho 1000 kg lúa trở lên, tối đa là 64%. Thêm vào đó, nông dân trả phụ thu cho đảng 15%. Cả 2 thứ thuế phải nộp một lần, cho đảng và Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và một phần gửi cho Kominforme làm nghĩa vụ quốc tế.

·       Bồi thường được quy định là khoảng 1 Mỹ kim cho một thước vuông, trong lúc đó thời giá là từ 1000 đến 2000 Mỹ kim/m2 (vụ đàn áp mới nhứt của dự án Ecopark tại Văn Giang, Hà Nội là một thí dụ điển hình năm 2013).

Đó là trước năm 1975. Sau khi chiếm toàn cõi Việt Nam, CSBV áp dụng một chính sách CHIẾM ĐẤT quyết liệt hơn, tàn nhẫn hơn, sắt máu hơn, không những là đất nông nghiệp mà là đất tư nhân ở trong thành phố hay bất cứ nơi nào từ Bắc chí Nam với chính sách gọi là QUY HOẠCH đất đai. Chúng sử dụng cả sức mạnh gọi là chuyên chính vô sản qua bộ máy công an đề ép buộc người dân phải “nhả đất” cho chúng, nếu không thì là tù tội và mạng sống nữa!

Chính sách CCRĐ/CSBV nầy không phải là một sai lầm mà là một tội ác có tính toán của HCM nhằm biến người dân trong vùng kiểm soát của CS thành những “con vật” mất hết ý chí phản kháng, chỉ biết cuối đầu vâng phục Bác và Đảng. Tất cả “con vật” trên mang cùng một họ; đó là họ “SỢ” (tất cả chúng ta đều mang chung một họ Sợ, lời của Nguyễn Tuân).

Ngày nay, theo báo cáo chánh thức của Viện thống kê Hà Nội, số tử vong là 172.008 người trong đó có 70% bị chết oan ức bao gồm những tiểu địa chủ bị nâng lên cho đủ 5% theo tiêu chuẩn của Trung Cộng qui định, và những cán bộ đảng viên đi theo kháng chiến chống thực dân vì lòng yêu nước tinh ròng không cộng sản.

3-    Thay lời kết

Qua những nhận định trên, chúng ta thấy sự khác biệt của hai nền giáo dục đặt trên căn bản xã hội pháp trị và xã hội chủ nghĩa đã đưa “đầu vào” (học sinh) và “đầu ra” (kết quả học tập) như thế nào rồi.  Vì vậy, bằng bất cứ giá nào mọi người con Việt trong và ngoài nước cần phải xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản của xã nghĩa CSBV hầu mang lại một chính sách giáo dục đúng đắn cho các thế hệ Việt về sau.

Cách đây 58 năm năm, cố Cố vấn Ngô Đình Nhu trong quyển sách Chính Đề Việt Nam (nhà xuất bản Đồng Nai, Sài Gòn, in lại do Kim Lai ấn quán (Los Angeles) năm 1988) khẳng quyết là:Trung Cộng giải quyết không được công cuộc phát triển của dân tộc Trung Hoa. Nhưng số người 800 triệu (thời điểm 1960) dân cần phải nuôi, là một thực tế không thể phủ nhận được. Sự bành trướng mà TC bắt buộc phải thực hiện, dưới áp lực nhân khẩu kinh khủng đó đã mở màn. Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta”. (Dân số TC năm 2018 là 1 tỷ 406 triệu)

Quả thật đây chính là một lời tiên tri cách đây 58 năm, và ngày hôm nay, TC không cần phải thôn tính nước ta bằng võ lực, vì chính những người cộng sản Bắc Việt đã tự hiến dâng đất nước thân yêu và 96 triệu con dân Việt cho TC nhằm mục đích bảo vệ quyền lực và quyền lợi của họ.

Vì vậy, chính sách đuổi dân chiếm đất, đặt biệt là đất nông nghiệp để làm Khu chế xuất, Khu công nghiệp, Đặc khu kinh tế cho TC của CSBV đã phát động từ 43 năm qua phải là mộtkích hoạt” để toàn dân Việt đứng lên làm cách mạng bất tuân dân sự nhằm tẩy xóa chế độ CSBV ngày hôm nay.

Hôm nay, nhân ngày giỗ Cụ, Xin lắng lòng cúi đầu tưởng niệm một vị Khai Quốc Công Thần thời đương đại…

Xin cám ơn Quý vị đã lắng nghe,