Thursday, September 30, 2021

 

Thân chuyển một bài viết về nghề…Hốt cứt ở Hà Nội, bộ mặt thật của xã hội chủ nghĩa hiện nay.

 

NGHỀ TỔ ( Hốt cứt )

Hàn Sĩ, Tiến-sĩ Vật Lý Hà Nội :

Lúc tôi còn nhỏ, mẹ thường đe tôi “Nếu không học hành tử tế thì sau này chỉ đi hốt cứt thôi con ạ”. Hình ảnh người gánh phân suốt ngày lang thang trong cái thị trấn nghèo quê tôi làm tôi rùng mình. Cái tương lai có mùi khó ngửi này chẳng quyến rủ được ai.

Nhưng mẹ tôi lầm. Thời tôi lớn, đây là cái nghề hái ra tiền. Ít nhất cũng hơn hẳn cái sự kiếm ăn với cái bằng Tiến-sĩ của tôi. Anh biết đấy, viện Khoa-Học của tôi nằm cạnh làng Cổ-Nhuế, tôi có đủ cơ sở để khẳng định với anh điều đó. Làng này sống bằng nghề hốt cứt, có đền thờ Thành-Hoàng hẳn hòi.

Thành Hoàng làng Cổ Nhuế là một vị hốt cứt chính hiệu. Trong đền người ta thờ đôi quang và chiếc đòn gánh cùng mảnh xương trâu cầm tay…

Người làng Cổ Nhuế từ đời này qua đời khác, ngày lại ngày, làm sạch cho Thủ-đô Hà Nội. Vua Lê Thánh Tông đã từng ban cho làng này câu đối:

   “Khoác tấm áo bào, giang tay gánh vác Thiên-hạ,

  Vung hai thước kiếm, tận thu lòng dạ Thế-gian”.

Anh đừng so sánh làng Cổ Nhuế với làng Phượng Lưu; cạnh trường Đại-học Hàng Hải của anh ở Hải Phòng. So sánh như thế là hạ nhục làng Cổ Nhuế của tôi đấy. Ngoài cái vinh quang của nghề hốt cứt (lao động là vinh quang), làng Cổ Nhuế còn là quê hương của một Đại-tướng : Đại-tướng Văn Tiến Dũng cùng một tổ tiên vinh quang như các vị đồng hương gồng gánh của ông. Hơn nữa, làng Phượng Lưu của anh tuy hốt cứt, nhưng chủ yếu sống bằng nghề đạo chích, chứ đâu có được “tôn chỉ mục đích” như dân Cổ Nhuế. Thanh niên Cổ Nhuế ta thề "Chưa đầy hai sọt, chưa về quê hương".

Nhưng dân làng Cổ Nhuế không phải lúc nào cũng được hưởng cái vinh quang của lao động đâu anh ạ. Kề từ những năm hợp-tác ồ ạt vào cuối thập niên 50, nghề hốt cứt đã phải chịu nhiều cay đắng. Người ta ngăn cấm những người nông dân đi hốt cứt, coi như họ là những người trốn lao-động bỏ việc đồng áng để đi “buôn cứt”. Người làng Cổ Nhuế phải tôn trọng Pháp-luật của Đảng, đành ngồi nhà mà tiếc rẻ những bãi… đơn côi không người chăm sóc. Chỉ mãi tới năm 1986, sau đại-hội đổi mới của Đảng, đất đai được chia ra để cho các gia đình nông dân tự canh tác. Nghề trồng rau ở ngoại thành Hà Nội sống lại, người làng Cổ Nhuế mới lại được phép…đi hốt cứt và buôn…cứt. Rau cỏ của xứ ta thơm ngon là nhờ phân Bắc. Các cụ lão-nông chi-điền dạy thế !

Phân hoá-học cho dù là sản phẩm của trí tuệ văn minh, chỉ cho những thứ rau xanh tươi, nhưng nhạt thếch. Đổi mới và cởi trói do mẫu công khai (glasnost) có cái mặt trái của nó.

Trước đây, ai muốn đi hốt cứt thì hốt. Nhưng từ ngày người người đi hốt, nhà nhà đi hốt thì theo qui luật “người khôn, của hiếm”, dân Cổ Nhuế đã chiến đấu ngoan cường đề dành lấy địa vị đầu ngành … cứt Việt Nam. Không biết tại Đại-tướng đồng hương ngày ấy có can thiệp vào chuyện này hay không, nhưng theo quy định của Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội, dân ngoại thành không được phép tự-do đi hốt cứt và lấy cứt nữa. Trước đây, ngoài những bãi cứt vô tổ chức, vô kỷ luật mà ai cũng có thể hốt. Người đi lấy cứt có thể đến làm vệ sinh cho các nhà-xí 2 ngăn ở các thành phố để thu về cho mình một số cứt kiếm được. Bây giờ, người nông dân ngoại thành bị bắt buộc phải mua phân tại chợ Cổ Nhuế, một Chợ tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều không có, được thành lập năm 1989. Giá cả tuỳ chất-lượng (nói sau).

Dân ngoại thành bây giờ trở thành người đi lấy phân thuê cho Cổ Nhuế.. Họ được phân chia địa bàn hoạt động, theo lịch sắp xếp mang sản phẩm đến chợ nhưng không phải tự họ bán. Họ chỉ được nhận phần trăm tiền bán mà giá do ban quản lý chợ Cổ Nhuế quyết định. Chống lại ư? Mất việc ngay, hàng ngàn người thay chân kiếm cứt (xã hội hiện tại cứt hơi hiếm lắm, nay phải kiếm, tức là phải đi làm vệ-sinh để kiếm cứt ở các hố-xí như đã nói trên). Đi kiếm cứt hơn hẳn làm thương nghiệp, đừng nói gì đến nông nghiệp. Một lần tôi hỏi một anh Cổ Nhuế giá cả như thế chắc các anh chóng giàu lắm. Anh đáp:

“Anh Giai ơi, trông thế thôi, chứ kiếm được 2 sọt thì cũng bị ăn mẹ nó hết một sọt rồi còn gì".

Trong chợ phân, xuất hiện phân giả. Người ta dùng đất sét thuồn qua ống nứa, giã nhỏ than chuối trộn lẫn với nghệ bôi bên ngoài và cho tất cả vào phân thật. Đó là bí quyết. Phân giả gây náo loạn chợ phân khiến thanh niên Cổ-Nhuế phải cử ra một bộ phận “kiểm tra chất lượng” trước khi giao hàng. Anh còn nhớ dốc Bưởi chạy về viện Khoa Học không? Trạm kiểm tra được lập ra tại đó, hoạt động từ mờ sáng đến trưa. Mùi uế khí từ tay các kiểm tra viên thọc thẳng vào sọt phân tìm của giả. Nhờ lành nghề và cương quyết, sau đó vài tuần, những đứa làm phân giả bị cắt giấy phép. Tại chợ, cứt được chia làm bốn loại :

- Hạng nhất (first class): là phân lấy từ khu Ba-Đình… nơi có nhiều quan chức nên cứt được gọi là “nạc" ( tiếng nhà nghề chỉ cục phân chất lượng cao )!

- Hạng 2 : từ khu Hoàn-Kiếm, có nhiều dân buôn bán.

- Hạng 3 : từ khu Hai Bà Trưng, Đống-Đa, nơi đa số dân cư là người lao động, xài nhiều rau nên “mờ” (nhiều nước long bòng).

- Hạng 4 : từ ngoại thành, loại này xanh lét vì “nguồn nguyên liệu thuần túy” là rau muống. Bà con nông dân làm gì có thịt mà ăn. Có lần tại chợ xuất hiện một sọt phân để chữ “ Phân ngoại 100% ".

Dân chúng không hiểu tại sao có bọn dám qua mặt Hải Quan, dám nhập “phân ngoại” về xài. Về sau, chủ nhân sọt phân giải thích: Phân lấy về từ bể “phốt” (fosse sceptique) của các Sứ-Quán nước ngoài thì không phải là phân-ngoại thì còn là gì?

Đây là những điều mắt thấy tai nghe, tôi ghi lại để gửi anh để có dịp kể lại cho bà con xa nước nghe chơi… Cho biết quê hương ta dưới chế-độ hiện tại có những thứ mà người ta hoàn toàn không có. Tôi bảo đảm đây là sự thực “trăm phần trăm”.

PBP


Ảnh: của Ли Локвуда chụp tại Hà Nội năm 1967, những thanh niên Cổ Nhuế đầu đội mũ cối, áo bộ đội, xe đạp thồ 2 sọt 2 bên hay trên vai là đôi quang gánh, cây sào lấy cứt gần 2 mét, 1 đầu là chiếc gáo hình nón bằng tôn hay bằng gáo dừa…






Wednesday, September 29, 2021

 

Xin chuyển bài viết của tác giả Trà Nguyễn nói về khủng hoảng nhiên liệu than nhập cảng từ Úc, sau khi quốc gia nầy tham gia vào Bộ Tứ Kim cương gồm Mỹ - Ấn – Nhựt nhằm ngăn chận Trung Cộng uy hiếp và chiếm cứ Biển Đông. Thái độ “trừng phạt” Úc bằng cách ngưng nhập cảng than dùng trong công nghệ năng lượng làm Trung Cộng trúng đòn gậy ông đập lưng ông. Các hình minh họa do người chuyển thực hiện.

 

Trung Quốc buộc phải đóng cửa nhiều ngành công nghiệp vì thiếu điện:

Hậu quả hung hăng trừng phạt Úc

 

 Phẫn nộ vì Úc tố cáo tội ác vi phạm nhân quyền và dân chủ, Trung Quốc leo thang trừng phạt thương mại với Úc. Kết quả là nền kinh tế hung hăng này lập tức rơi vào khủng hoảng thiếu điện trong mùa khô và tình trạng khủng hoảng sẽ trầm trọng hơn khi mùa đông đang tới. Trung Quốc đang vật lộn với tình trạng tăng trưởng bết bát, ngân khố trống rỗng giờ phải đóng cửa hàng loạt ngành sản xuất cơ bản như nhôm, dệt may, chế biến thực phẩm … vì thiếu điện.


Trung Quốc đang mất điện trên diện rộng, nguồn năng lượng thiết yếu nhất của nền văn minh nhân loại ngày nay. Điều này có nghĩa, các thành phố thông minh của Trung Quốc không còn thông minh nữa, các nhà máy, khu vực sản xuất phải đóng cửa không phải do Covid-19 mà là do thiếu điện, năng lực giám sát người dân qua các công nghệ tối tân, vì không có điện, mà cũng suy giảm trầm trọng.  

Cho đến nay, người ta chỉ biết rằng các nhà máy thép, sản xuất nhôm, dệt may… của Trung Quốc có thể phải cắt giảm quy mô hoạt động vì thiếu điện. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng thiếu điện của Trung Quốc có thể lớn hơn và tàn khốc hơn nhiều người nghĩ.

Phóng viên trưởng Javier Blas của Bloomberg News viết trên Twitter: “Cuộc khủng hoảng năng lượng của Trung Quốc: Tình trạng thiếu điện của Trung Quốc ngày càng trầm trọng và phạm vi địa lý ngày càng mở rộng. Mọi thứ đang trở nên tồi tệ đến mức Bắc Kinh hiện đang yêu cầu một số nhà chế biến thực phẩm (như nhà máy nghiền đậu nành) đóng cửa”.

Ảnh chụp màn hình tweet của phóng viên báo Bloomberg về tình trạng Trung Quốc đang thiếu điện trầm trọng (NTDVN tổng hợp).

Nếu xác thực nhà máy chế biến thực phẩm cũng phải đóng cửa vì thiếu điện thì khủng hoảng lạm phát, suy thoái không còn ngấp nghé Trung Quốc nữa mà đang hiện diện mạnh mẽ ở đất nước này.

Gậy ông đập lưng ông

Trung Quốc là nước tiêu thụ than lớn nhất thế giới và tới 70% sản lượng điện ở Trung Quốc được cung cấp bởi các nhà máy nhiệt điện đầy ô nhiễm, công nghệ lạc hậu. Bất kỳ sự sụt giảm nào về tỷ trọng nhiệt điện than sẽ làm tổn hại đến khả năng sản xuất đủ điện cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.


Tuy nhiên, Trung Quốc hiện đang phải đối mặt với tình trạng thiếu than trầm trọng do đã cắt đứt quan hệ giao thương với Úc, một phong cách ngoại giao mà Trung Quốc ưa thích khi muốn ép các chính phủ nước ngoài phải ngoan ngoãn theo quan điểm của Bắc Kinh. Đòn trừng phạt ngoại giao bằng kinh tế đã từng mang lại một số thành công nhất định cho Bắc Kinh trong hai thập kỷ trở lại đây. Tuy nhiên, Trung Quốc càng lớn thì mức độ phụ thuộc vào nước ngoài cũng càng lớn. Mặt khác, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này có quá nhiều bất cân đối vĩ mô lớn khiến bất kỳ một tác động không mong muốn nào cũng khiến nó suy yếu. Đây chính là lý do đòn trừng phạt thương mại hung hăng với Úc trở thành đòn ‘gậy ông đập lưng ông’.

Năm ngoái, chính quyền Bắc Kinh đã áp đặt lệnh cấm không chính thức đối với nhập khẩu than của Úc, điều này ngay lập tức khiến miền nam Trung Quốc, nơi ngốn điện năng lớn nhất trong mùa khô nóng, chìm vào bóng tối.

Ngoài ra, các nhà máy nhiệt điện của Trung Quốc đã quen với việc sử dụng than của Úc. Các thiết kế kỹ thuật đi kèm cũng không dễ dàng thay đổi để bắt đầu sử dụng than từ các nguồn cung khác.

FDI sẽ tiếp tục tháo chạy nếu không muốn là ‘vật tế’ cho các chính sách và quan điểm chính trị gây sốc

Theo nguồn tin từ Bloomberg (27/9), gần một nửa các tỉnh của Trung Quốc không đạt được giới hạn tiêu thụ điện năng theo kế hoạch. Các địa phương như vậy sẽ phải đối mặt với việc cắt điện luân phiên để giảm mức tiêu thụ điện. Ba tỉnh công nghiệp lớn của Trung Quốc, đóng góp ⅓ GDP cho nền kinh tế này, đều đang phải đối diện với tình trạng mất điện trên diện rộng.

Không nghi ngờ gì nữa, cuộc khủng hoảng điện năng này mới là đòn chí mạng đánh vào nền kinh tế thực: sản xuất, việc làm và giá cả của Trung Quốc, chứ không phải là khối nợ của ông lớn bất động sản Evergrande. Trung Quốc hiện phải đóng cửa nhiều nhà máy sản xuất nhôm, dệt may và thậm chí là cả các nhà máy sản xuất dầu đậu nành.

Tại Giang Tô, các nhà máy thép được cho là đã ngừng sản xuất. Một số thành phố thậm chí đã tắt đèn đường. Tương tự, tại Chiết Giang, 160 doanh nghiệp công nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp dệt may, đã phải đóng cửa, hoàn toàn vì thiếu điện chứ không phải vì Covid-19.  

Đồng thời, các hộ gia đình Trung Quốc cũng khốn đốn vì thiếu điện sinh hoạt. Chính quyền tỉnh Sơn Đông đã thực hiện một biện pháp cực đoan, khuyến cáo người dân giảm sử dụng điều hòa nhiệt độ, khuyến khích họ dựa vào ánh sáng tự nhiên thay vì bật các thiết bị chiếu sáng trong nhà.

Theo Nikkei News, các nhà cung cấp của Apple và Tesla đã ngừng sản xuất tại một số nhà máy ở Trung Quốc vào hôm Chủ nhật vừa qua.

Doanh nghiệp FDI khó mà trụ lại Trung Quốc trong bối cảnh quốc gia này không thể cung cấp đủ năng lượng cho sản xuất. Họ có thể rút khỏi Trung Quốc và chuyển đến những quốc gia lân cận, nơi mà các doanh nghiệp không phải là ‘vật tế’ của các chính sách và quan điểm chính trị gây sốc.

Trung Quốc đang chuẩn bị cho một mùa đông khó khăn


Bây giờ chưa tới mùa đông, Trung Quốc đã và đang phải đối mặt với giá điện không thể chịu nổi. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vẫn khẳng định và hy vọng sẽ tiếp tục ngăn chặn việc khai thác, vận chuyển than từ các mỏ tại Trung Quốc.

Tại Trung Quốc, giá điện tăng vọt vào mùa đông không phải là hiện tượng bất thường. Tuy nhiên, năm nay dù chưa tới mùa đông, Trung Quốc đang phải đối mặt với giá than tăng chóng mặt, điều này chắc chắn sẽ thúc đẩy thêm tình thế tiến thoái lưỡng nan về điện. Năm ngoái, việc Trung Quốc cấm vận chuyển than ở Úc đã dẫn đến trong việc căng thẳng phân bổ điện trên diện rộng, và chính quyền Trung Quốc đã phải hạn chế cung cấp điện cho các tỉnh.

Tuy nhiên, đối với Trung Quốc, mùa đông sắp tới được dự báo sẽ khó đối phó hơn. Hiện tại, Trung Quốc đang thực hiện các biện pháp cắt điện nghiêm ngặt hơn và tiết kiệm điện đáng kể vì Trung Quốc muốn tiết kiệm đủ điện cung cấp cho mùa đông tới.

Chưa biết nhiều ngành sản xuất của Trung Quốc sẽ phải đóng cửa trong bao lâu khi mùa đông đang tới, nhưng chắc chắn các doanh nghiệp ở Trung Quốc cảm thụ sâu sắc nhất việc họ là 'vật tế' trong mọi chính sách gây sốc và quan điểm chính trị cực đoan của chính quyền này. 

Trà Nguyễn








Monday, September 27, 2021

 

Tất cả là Một

Oneness - Once and for All  

Lời sau cùng của Cố GS Nguyễn Ngọc Huy:

‘Lúc tắt hơi mới biết được mạng trời

Khi nhắm mắt mới đành thôi hoạt động'

 

Oneness còn có thể hiểu như: - trạng thái hợp nhứt (state of being united), - thỏa thuận (agreement), - trạng thái hay phẩm chất thành một (?) (the state or quality of being one), - tính độc đáo (uniqueness), - sự đơn độc (singleness), - tính tương tự (sameness).

Đối với người Hindi, Oneness còn có nghĩa là phẩm chất của sự hợp nhất thành một - the quality of being united into one.

Cũng có có quan niệm rằng, chúng ta có thể bắt đầu với ý tưởng nếu chúng ta đến từ ngôn từ Oneness, thực sự chỉ có một người trong chúng ta (one of us) ở trong từ nầy.

“Nhất thể” hay "Ý thức thống nhất" – Oneness or Unity Consciousness là một khái niệm cuối cùng nhận được sự lưu tâm và chấp nhận trong lãnh vực khoa học rộng hơn sẽ được diễn giảng ở phần dưới đây.

1-    Về quyển sách Oneness của John Griven

Chương trình Tinh thần Toàn cầu trong quyển sách của John Greven cho rằng sự Đồng nhất gồm một bức tranh lớn trong đó có tác giả và bác sĩ chữa bệnh tâm hồn (mind-body healing) Deepak Chopra cùng với tác giả và nhà khoa học xã hội Riane Eisler cùng có chung một suy nghĩ…

Bạn đã bỏ lỡ điều gì?

Trong Oneness, tác giả John Greven mời độc giả nhìn thế giới như hiện tại, ngay lúc này, không có suy nghĩ riêng của phản ảnh những ẩn dấu bí mật bị che khuất qua nhiều mặt - without the mind’s own reflections obscuring its multifaceted mystery.

Bạn đã bỏ lỡ điều gì?

Trong Oneness, tác giả John Greven mời độc giả nhìn thế giới như nó thực sự, ngay bây giờ - the world as it really is, right now.

Oneness đưa người đọc, từng bước một, đến thực tế không thể chối cãi đó là bản thân - self. Nội dung của cuốn sách nầy là tìm kiếm một trải nghiệm hàng ngày của một người, để chỉ ra điều gì đó mà tâm trí có thể đã lướt qua. Nó không chỉ ra bất cứ điều gì mới, hay bất cứ điều gì bạn có thể đạt được, hoặc bất cứ điều gì bạn có thể mang thêm vào chính mình. Nó không chỉ ra những việc tốt bạn đã làm trong cuộc sống của bạn để nhấn mạnh bạn phải là một người tuyệt vời như thế nào. Nó đang chỉ ra một cái gì đó rất đơn giản, một cái gì đó quá rõ ràng, khi nó được chỉ ra và nhìn thấy; để rồi, bạn tự hỏi làm thế nào và vì sao nó đã bị bỏ lỡ được?

Làm thế nào tâm trí có thể có một cái gì đó quá rõ ràng như đã được đãi ngộ sẳn (for granted)?

Làm thế nào tâm trí dễ dàng ném ra viên ngọc quý giá thuận lợi cho những phản cảm  của tâm trí?

Hoặc:

·       Bạn có thể đã tìm kiếm qua sự tự giác – self-realization, sự giác ngộ - enlightenment, hoặc tư tưởng của Đức Phật, hay Thượng đế hoặc một số mục tiêu khác có chung hay ngụ ý một điều tương tự.

·       Bạn có thể đã tìm kiếm trong nhiều năm hoặc bạn có thể bắt đầu tìm kiếm. Cho dù bạn đã đi du lịch trên cùng một lối đường trong một thời gian dài hay bạn chỉ cần thực hiện bước đầu tiên. Hai việc trên cũng không có gì khác biệt.

Cuốn sách nầy mời bạn hãy nhìn vào một không gian đã bị lướt qua, để xem điều gì là hiển nhiên và đưa cuộc tìm kiếm đó đến một kết thúc…ngay bây giờ.

2-    Giác ngộ

Trong hàng ngàn năm, các thầy giác ngộ từ các tín ngưỡng khác nhau, các nhà triết học tiếng tăm, nhà huyền bí – mystics, pháp sư - shamans, và nhà hiền triết – sages… đã cố gắng chia xẻ một thông điệp quan trọng với chúng ta: nhận thức của chúng ta về sự chia ly là một ảo ảnh - our perception of separation is an illusion

Trong mạng lưới của cuộc sống phi thường này, chúng ta được kết nối với mọi thứ. Chúng ta là một - In this extraordinary web of life, we are connected to everything. We are one.

Và hiện nay, vật lý lượng tử đang cung cấp cho chúng ta cùng một thông điệp là mô tả cách các dạng nguyên tử (subatomic), một khi được nối với nhau và sau đó tách ra, vận hành theo cách không liên kết tức thời, truyền thông tin và tác động lẫn nhau trên các khoảng cách lớn. (And now quantum physics is providing the same message… describing how subatomic particles, once joined together and then separated, behave in a nonlocal way instantaneously communicating information and impacting each other over great distances).

Những dạng nguyên từ vướng mắc về căn bản vẫn là một thực thể duy nhất, mặc dù chúng đã được tách ra.

Nguyên tắc vướng mắc nầy giúp chúng ta đóng khung được những trải nghiệm không bình thường của mỗi chúng ta về việc …biết được ai đang nghe điện thoại trước khi chúng ta trả lời hoặc nhận biết điều gì đó về một người ở cách xa ngàn dặm.

Kết nối phi tiêu điểm (nonlocal connections) tồn tại bởi vì chúng ta bị vướng mắc lẫn nhau!

Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Tất cả hình thức và vật chất trong vũ trụ đều bắt nguồn từ cùng một điểm kỳ dị đặc biệt (singularity).

Tất cả chúng ta đều vướng mắc. Chúng ta được kết nối bởi cả nguồn gốc của ý thức và bởi các dạng nguyên tử (subatomics) tạo ra hình dạng vật lý (physical forms) của chúng ta.

Vật lý lượng tử cho thấy hành động tập trung sự chú ý của chúng ta thay đổi cách thế giới hành xử xung quanh chúng ta. Hành vi của các dạng nguyên tử, các khối vật chất chung quanh chúng ta bị thay đổi bởi hành động quan sát của chúng ta (the act of our observation).

Như thí nghiệm hai khe (double slit experiment) cho thấy, photon và electron có một cách tương tác (behaving) khi chúng không được nghiên cứu cặn kẽ (chúng có các dạng tác động giao thoa của sóng di chuyển đồng thời qua cả hai khe hở). Tuy nhiên, chúng có mô hình tác động hoàn toàn khác nhau khi chúng được đo để xác định thông qua hai lỗ mở mà chúng di chuyển. Khi chúng được quan sát, sóng lượng tử sụp đổ và các photon và electron chọn một lỗ mở để di chuyển, tạo ra mô hình tác động của các hạt riêng lẻ đập vào màn hình.

Khoa học đang cung cấp bằng chứng về bản chất có sự tham gia của vũ trụ mà chúng ta đang sống. Ý thức là một lực lượng sáng tạo làm thay đổi thực tế chúng ta đã và đang trải nghiệm.

Mỗi suy nghĩ chúng ta có là năng lượng có thể tạo ra hình thức và giúp thể hiện thực tế mà chúng ta mong muốn.

Như vật lý lượng tử tiết lộ, các dạng nguyên tử tồn tại ở nhiều vị trí trong sóng lượng tử cho đến khi quan sát được thực hiện và kết quả được chọn.

Trong mỗi suy nghĩ, nếu chúng ta đã chọn một điểm lựa chọn vì sự chú ý, ý định, hoặc trọng tâm của chúng ta, vô hình chung, chúng ta làm sụp đổ biển khả năng (sea of possibility) thành một kết quả duy nhất (single outcome). Nói chung, khi chúng ta cùng nhau tập trung và các ý định được đặt thẳng hàng (aligned), chúng ta sẽ phóng đại sự chọn lựa một khả năng mong muốn. (Khoa học phía sau Bí mật - The Science Behind the Secret, Travis Taylor).

Trong nhiều năm, một tổ chức có tên là Viện Khoa học Noetic đã nghiên cứu bản chất của ý thức và khả năng kết nối với nhau và với vũ trụ theo những cách chúng ta chưa hiểu được trong hiện tại.

Nghiên cứu xử dụng các tập hợp số ngẫu nhiên đã ghi lại sức mạnh của suy nghĩ và cảm xúc tập thể của chúng ta trước và trong các sự kiện quan trọng trên thế giới. Những nghiên cứu này đang cung cấp bằng chứng về nhận thức tập thể của chúng ta trước khi các sự kiện thế giới xảy ra ...

Các nghiên cứu nghiêm ngặt khác cũng đang cung cấp bằng chứng có ý nghĩa thống kê về sức mạnh mà chúng ta phải xử dụng suy nghĩ của mình để tác động đến thế giới vật chất chung quanh chúng ta.

Điều này sẽ có ý nghĩa gì khi chúng ta thức dậy khỏi giấc mơ chia tay tập thể?

Chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra rằng khi chúng ta hướng những suy nghĩ, lời nói và hành động có hại cho người khác, chúng ta sẽ tự nhận chúng vì không có "cái khác".

Vì sao?

Vì, chúng ta là một. Và vì suy nghĩ của chúng ta là năng lượng có thể tạo ra hình thức, chúng ta có sức mạnh tập thể để cùng tạo ra (co-create) thế giới mà chúng ta mong muốn có.

Như nhiều người khôn ngoan đã chia xẻ, chìa khóa chính là tưởng tượng tới các cảm xúc đã có rồi, thứ mà chúng ta mong muốn, như thể chúng đã ở ngay đây.

Chúng ta hãy tưởng tượng một hành tinh hòa bình và yêu thương, phong phú, lành mạnh và an toàn cho tất cả mọi người.

Khi chúng ta tưởng tượng thực tế chúng ta chọn với cảm xúc đã tồn tại xung quanh chúng ta, chúng ta chọn nó từ một từ trường lượng tử của các khả năng. Khi chúng ta chọn khả năng của một hành tinh lành mạnh, hòa bình và từ bi, chúng ta sẽ cùng tạo ra thực tế này.

3-    Tính bất nhị - Nondualism

Trong tâm linh, chủ nghĩa vô song, còn được gọi là bất nhị, có nghĩa là "không hai" (not two) hoặc "nhất bất phân chia trong một sát na"- “one undivided without a second”  Nondualism nguyên ủy là đề cập đến một trạng thái ý thức trưởng thành, trong đó sự phân đôi của Tôi - Người khác (I-Other) là "vượt qua - transcended" hay không phân biệt, và nhận thức đó được mô tả là "vô tâm - centerless" và "không có sự phân đôi – without dichotomies ".

Mặc dù trạng thái ý thức này dường như có vẻ như tự nhiên, thường tuân theo sự chuẩn bị kéo dài thông qua thực hành khổ hạnh (ascetic) hoặc thiền định, hoặc chiêm niệm (contemplative)…từ đó có thể bao gồm các mệnh lệnh đạo đức (ethical injuntions).

Trong khi thuật ngữ "chủ nghĩa bất nhị" có nguồn gốc từ Advaita Vedanta, những mô tả về ý thức bất nhị không được tìm thấy trong Ấn Độ giáo - Hinduism, Phật giáo (Tánh Không – Emptiness - Nyata), Hồi giáo – Islamic, và các truyền thống Kitô giáo phương Tây và Tân Platonic – Henosis - Hiệp hội huyền bí). (Advaita Vedanta (/ ʌðˈvaɪtə vɛˈðɑːntə /; tiếng Phạn: अद वैत वैत có nghĩa là non-duality nhằm thể hiện tâm linh trong một truyền thống bản địa ở Ấn Độ).

Ngược lại, trong truyền thống Phật giáo, tính bất nhị được phát triển trong các triết lý Vệ Đà và hậu Vệ Đà - Vedic and post-Vedic Upanishadic. Tính bất nhị nầy có liên quan đến giáo lý về Tánh không, và hai giáo lý chân lý, đặc biệt là giáo lý Madhyamaka về tính bất nhị của chân lý tuyệt đối và tương đối. Những giáo lý này, cùng với giáo lý về Phật tánh đã là những khái niệm có ảnh hưởng trong sự phát triển tiếp theo của Phật giáo Đại thừa - Mahayana Buddhism, không chỉ ở Ấn Độ, mà cả Phật giáo Đông Á và Tây Tạng, đặc biệt là ở Thiền (Zen) và Kim cương thừa - Vajrayana.

4-    Tâm linh nhất thể - Oneness spirituality - Chìa khóa của Hạnh phúc & Thay đổi Thế giới

Tâm linh nhất thể là gì?

Đó là để có một sự hiểu biết sâu sắc và có kinh nghiệm rằng tất cả chúng ta đều là MỘT trong tất cả các biểu hiện của cùng một Ý thức - Consciousness.

Chúng ta cần có điều này tức thì. Bởi vì xã hội chúng ta đang sống bị bệnh về mặt đạo đức, và chúng ta cũng vậy.

Điều trên do chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa vật chất phóng đại, hầu hết mọi người được thúc đẩy để theo đuổi ham muốn của riêng họ bằng bất cứ giá nào. Không cần phải nói, điều này gây ra xung đột và đau khổ cho người khác, và cho cả hành tinh chúng ta đang sống. Và mọi người vẫn không lưu ý hay biết rằng đây không phải là một chiến lược thông minh ngay cả trong việc theo đuổi hạnh phúc cá nhân của chính họ.

Tình huống này giống như nếu mọi tế bào trong cơ thể bạn quyết định tự hành động và tiêu thụ càng nhiều chất dinh dưỡng và năng lượng càng tốt - thậm chí nhiều hơn mức cần thiết. Từ đó, các bộ phận trong cơ thể bạn sẽ sớm bị bệnh và điều đó sẽ gây hại cho sức khỏe của toàn bộ cơ thể - bao gồm cả các tế bào tham lam kia.

Thách thức ở sự nhất thể là làm cho các tế bào riêng lẻ hiểu rõ hai điều:

·       Mối quan hệ của chúng (tế bào) với nhau và toàn bộ cơ thể con người;

·       Những gì một cuộc sống tế bào tốt là thuộc về tất cả bộ phận trong con người.

Nếu Bạn, trong khi theo đuổi hạnh phúc cho chính mình, làm tổn thương những người khác cũng đang tìm kiếm hạnh phúc, sẽ không tìm thấy nó, dù ở thế giới này hay thế giới tiếp theo. Tâm linh nhất thể sẽ cung cấp cho chúng ta một cách khác để sống một cuộc sống đúng nghĩa và hạnh phúc.

Nguyên tắc mà chúng ta tìm thấy trong tất cả các truyền thống tâm linh, và điều đó có thể tạo ra một sự khác biệt căn cội (radical) cho thế giới là gì? Đó là sự Nhất thể - Oneness.

Điều này giống như mỗi tế bào tự chăm sóc lấy chính nó, nhưng cũng hợp tác với những tế bào khác, và đặt căn bản là lấy sức khỏe của tất cả bộ phận của cơ thể làm mục tiêu. Kết quả là, các tế bào có được tất cả thức ăn và năng lượng cần thiết, cùng với một môi trường tốt hơn và tuổi thọ dài hơn trong một cơ thể lành mạnh.

5- Làm thế nào để thực hành Oneness?

Có một cách để bắt đầu suy ngẫm và cởi mở về việc thực hành sự Tánh nhất thể là xem xét những cách nào bạn mang lại sự tôn trọng đối với tất cả các sinh vật sống trong cuộc sống của bạn? Ví dụ về điều này có thể là: Bạn có thể dành thời gian để nhận diện mức độ quan trọng của một con nhện trong nhà mà bản năng bạn muốn giết, vì vai trò của nhện trong cuộc sống hàng ngày của bạn là đảm bảo trong nhà có… ít ruồi, kiến ​​hoặc côn trùng khác  có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bạn!

Có baio giờ Bạn có thể dành thời gian để suy ngẫm về những nỗ lực của tất cả mọi người, vật chất, tài nguyên có liên quan đến việc làm cho bạn có một ly nước không?

Bạn có thể suy nghĩ về sự độc đáo của những phẩm chất của cuộc sống mà bạn có mà bằng lời nói, sự hiện diện, hỗ trợ, hành động của bạn cho phép một người khác trong cuộc sống của bạn trải nghiệm chất lượng cuộc sống tốt hơn.

Các cơ hội để phản ảnh, chiêm nghiệm sự Nhất thể là vô hạn. Nó cho bản thân chúng ta một khoảnh khắc để thấy các kết nối vô tận tồn tại trong mọi trải nghiệm và hành động mà chúng ta tham gia hàng ngày.

Khi bạn thực tập chánh niệm (mindfulness), chiêm nghiệm (contemplation), và suy gẫm (reflection) về tánh nhất thể, điều này có thể giúp bạn mang lại cái nhìn sâu sắc và nhận thức rõ hơn về hiệu quả của hành động của bạn và đánh giá cao hơn cho thời điểm hiện tại bạn đang trải qua. Và TẤT CẢ điều đó đòi hỏi trong chính ngay một sát na (khoảnh khắc) đó phát sinh.

 

5-    Kết luận

Con người cần có đức tin – spiritual faith. Mà đức tin là gì?

Một đức tin tôn giáo dù dưới bất cứ hình thức nào như Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Bà la Môn, Ấn độ giáo, Cao đài, Hòa hảo, Islamic, Chúa Jesus, Đức Phật Thích Ca, Phật Bà Quan Âm, Đức Mẹ Maria, Thánh Mohamed, v.v…Tất cả chì là MỘT, chí có khác tên gọi mà thôi. Nếu nghĩ như vậy, thế giới sẽ là Oneness – một nhất thể - Tất cả là Một và Một là tất cả.

Nếu nghĩ như trên, bạn sẽ thấy rằng nhận thức cá nhân của bạn không bao giờ thực sự tách rời khỏi ý thức lớn hơn khác. Bạn chỉ đơn thuần trải nghiệm nó như tách rời trong khi bạn có sẳn một cơ thể, một hình thể - a body, a physical form. Giống như một con sóng trên biển, bạn là một cá thể riêng biệt và độc đáo - a distinct and unique individual, nhưng đồng thời bạn không bao giờ tách rời khỏi biển, từ nguồn cội của bạn. Bạn là MỘT và là TẤT CẢ.

Vì vậy, những ngôn từ như: Nhứt nguyên – Nhứt thể - Nghĩ cùng một hướng – Thần giao cách cảm – Nhị nguyên (Dualism) – Đa nguyên (Pluralism) – Tính độc đáo (Uniqueness) -  Sự đơn độc (Singleness), - Tính tương tự (Sameness).v.v…tuy là những “chữ” viết khác nhau, nhưng thiết nghĩ cho cùng là để diễn đạt cùng một ý niệm:”Một là tất cả - Tất cả là một”

Riêng suy nghĩ của người viết, sau khi góp nhặt cát đá, chuyển dịch những suy nghĩ trích từ mạng lưới toàn cầu, vẫn thấy rằng… đối với cá nhân người viết, phải chăng con sói cô độc (solitary) nhưng không cô đơn (lonely) trong rừng sâu là hiện thân của sự đơn độc hay là tất cả không gian chung quanh gộp lại cũng  chỉ là Một?

Mai Thanh Truyết

Một suy nghiệm sau cơn mộng du 78 năm dài

Houston, 20/7/2020












Saturday, September 25, 2021

Desire – Lý Thuyết Ham Muốn

                                                                                           de·sire                                                                                                                                    dəˈzī(ə)r 

Danh từ: Một cảm giác mạnh mẽ “muốn có” một cái gì đó hoặc “mong muốn” một cái gì đó xảy ra.

Động từ: Ham muốn mạnh mẽ trong việc “cho” hoặc “muốn’ một cái gì đó.

 

Lý thuyết ham muốn cho rằng việc thực hiện một ham muốn đóng góp cho hạnh phúc của một người bất kể lượng niềm vui (hay sự không hài lòng). Một lợi thế rõ ràng của lý thuyết Desire là nó có thể hiểu theo cung cách diễn đạt của Wittgenstein. Ludwig Wittgenstein là một triết gia bị ám ảnh bởi những khó khăn về cách diễn đạt  ngôn ngữ, muốn giúp chúng ta tìm cách thoát khỏi một số vũng bùn mà chúng ta gặp phải trong giao tế, trong diễn đạt, và ngay cả trong suy tư...

Cung cách đó được hiểu theo “Meaning of Language” dưới đây:

Từ đó, chúng ta thấy từ ngữ DESIRE được hiểu theo từng tâm cảm, từng thể trạng của mỗi con người.

Và bài viết chỉ mong trình bày một số suy nghĩ góp nhặt cát đá, suy diễn theo suy nghĩ chủ quan của người viết  nhằm mục đích chia xẻ cùng bạn đọc về một khía cạnh của tư tưởng và tâm ý.

1-    Desire – Ham muốn là gì?

Ham muốn – Desire, Thèm muốn – Craving, Khao khát – Longing. Những từ trên gợi ra cho chúng ta cái cảm giác thúc đẩy con người đạt được hoặc sở hữu một cái gì đó. Ham muốn là một cảm giác mạnh mẽ, xứng đáng hoặc không xứng đáng, đúng đắn hoặc không đúng đắn, thúc đẩy sự chiếm đoạt được hoặc sở hữu một cái gì đó (trong thực tế hoặc trí tưởng tượng).

Ham muốn là ở trong một trạng thái đặc biệt của tâm lý. Đó là một trạng thái tâm lý quen thuộc với tất cả những người đã từng muốn uống nước, muốn ăn một món ăn… hoặc muốn biết những sự kiện gì đã xảy ra cho một người bạn cũ. Nhưng từ sự quen thuộc đó không làm cho chúng ta dễ dàng đưa ra một lý thuyết về ham muốn. Mặc dù có sự tranh chấp trong chính mỗi ham muốn của bản thân, nhưng dù sao chúng ta cũng có thể tự khắc phục ham muốn của chính mình.

Ham muốn là một trạng thái của tâm – ý (heartily spirit) (người viết tự nghĩ ra từ ngữ nầy, không biết có đúng không, xin nhờ chỉ giáo) thường liên quan đến một số hiệu ứng khác nhau: một người ham muốn có xu hướng hành động theo những cách nhất định, cảm nhận theo những cách nhất định và suy nghĩ theo những cách nhất định.

Nếu tôi mong muốn uống trà chẳng hạn, thì tôi thường sẽ tự pha cho mình một tách trà; và nếu tôi không tự cảm thấy mình cần uống trà ngay lập tức, tôi sẽ không cảm thấy cái thôi thúc phải nấu nước sôi để pha trà… Tôi, lúc ấy sẽ thấy ý nghĩ về trà rất dễ chịu (vì không phải làm gì cả!). Từ đó, tôi sẽ thấy suy nghĩ của mình liên tục chuyển sang ý tưởng về trà. Từ đây, tôi sẽ đánh giá rằng trà có vẻ như là một ý tưởng tốt. Và như thế, như thế tiếp tục. Những hiệu ứng khác nhau này đã là trọng tâm trong tâm-ý của tôi về những nỗ lực để phát triển các lý thuyết; và đó chính là lý thuyết của ham muốn.

2-    Triết lý về sự ham muốn

 

Hiểu được ham muốn đòi hỏi ít nhất hai điều kiện:

 

·       Thứ nhất, có một lý thuyết về bản thân ham muốn – desire itself;

·       Thứ hai, có một số quen thuộc với các loại ham muốn có được – desire that there are.

Một khi nắm được một sự hiểu biết về ham muốn, chính ta có thể làm sáng tỏ một số tranh cãi chung quanh những điều ham muốn.

Lý thuyết thỏa mãn ham muốn là một dạng chủ nghĩa chủ quan về hạnh phúc theo nghĩa thông thường, theo đó, để có được một cuộc sống tốt (tốt theo suy nghĩ riêng của từng cá nhân) phải làm với thái độ của một người tạo dựng ra một cuộc sống theo lòng ham muốn của mình hơn là bản chất thực sự của cuộc sống.

Có nhiều hình thức khác của chủ nghĩa “chủ quan” (subjectivism):

·       Lý thuyết mục tiêu thành tựu – Aim-achievement theories;

·       Lý thuyết hiện thực hóa giá trị - Value-realization theories;

·       Lý thuyết hạnh phúc – Happiness theories;

·       Và một số hình thức của chủ nghĩa khoái lạc – Hedonism.

Nhưng thực sự, tựu trung tất cả những lý thuyết trên chỉ nhằm thực hiện mục tiêu của lý thuyết “hoàn tất ham muốn” – desire-fulfillment mà thôi.

Còn đối với chủ nghĩa khách quan (objectivism) thì sao?

Các lý thuyết khách quan về hạnh phúc – well-being gồm:

·       Lý thuyết cầu toàn – perfectionism;

·       lý thuyết “danh sách khách quan” – objective- list theories.

Hai quan điểm trên trái ngược với chủ nghĩa chủ quan là: - Ít nhất một số điều liên quan đến bản chất tốt hay xấu (pro/con – attitudes) đối với chúng ta về căn bản nhưng không liên quan đến thái độ của chúng ta. Sự “hoàn tất ham muốn” cũng đóng một vai trò trung tâm trong một số lý thuyết về hạnh phúc, trong đó kết hợp lại các yếu tố chủ quan và khách quan.

Vì vậy, lý thuyết thực hiện ham muốn ngày nay chắc chắn là một trong những lý thuyết hàng đầu về hạnh phúc.

Một số nhà triết học coi “lý thuyết hoàn tất ham muốn” là lý thuyết hàng đầu.

Nếu đó là lý thuyết ngự trị của thế kỷ 20 và 21, lý thuyết nầy không mang lại sự chú ý thời trước đó. Một số nhà triết học cổ đại và trung cổ hàng đầu đã đưa ra quan điểm để từ chối nó. Ví dụ, trong Plato’s Gorgias (C. 380 BCE), chính Callicles, một đệ tử của Socrates đã khẳng quyết rằng:”Ông, người thực sự muốn sống nhằm cho phép những ham muốn của mình được đánh bóng tối đa (he who would truly live ought to allow his desires to wax to the uttermost).

Trong De Trinitate (C. 416 C.E.), Thánh Augustine đã thảo luận ngắn gọn về ý tưởng “tất cả đều được ban phước, bất cứ ai cùng sống như nhau” (all are blessed, whoever live as they will). Augustine tiếp tục khẳng quyết, tuy nhiên, lòng ham muốn (hoặc ý chí) đó là điều tối thiểu của sự cần thiết cho hạnh phúc.

 3-    Các căn bản trong việc/sự ham muốn 

a-    Như vậy, thực sự ra, lòng ham muốn có căn bản nơi đâu và là gì?

Sự chấp nhận, nhu cầu cần được chuẩn duyệt - Acceptance, the need for approval.

Sự tò mò, nhu cầu học hỏi - Curiosity, the need to learn.

Nét ăn uống, nhu cầu thực phẩm - Eating, the need for food.

Gia đình, nhu cầu nuôi con - Family, the need to raise children.

Danh dự, sự cần thiết phải trung thành với các giá trị truyền thống - Honor, the need to be loyal to the tradition values.

Chủ nghĩa lý tưởng, sự cần thiết của công bằng xã hội - Idealism, the need for social justice.

• Độc lập, nhu cần cần thiết cho mọi cá thể - Independence, the need for individuality.

• Đặt hàng, nhu cầu cho (mọi việc) có tổ chức và ổn định - Order, the need for organized, stable,

b-    Và một số ham muốn nguyên thủy (primal desire) của con người là gì? 

·       Sống còn”: Sống một cuộc sống bền lâu và khỏe mạnh - Survival: Live a long and healthy life.

·       Bảo vệ: An toàn, chăm sóc và bảo vệ cho chính bạn và những người thân yêu - Protection: Safety, care and protection for yourself and loved ones.

·       Tự do: Tự do khỏi sự nguy hiểm, sợ hãi và đau đớn - Freedom: Freedom from danger, fear and pain.

·       Tiện nghi: Điều kiện sống thoải mái - Comfort: Comfortable living conditions.

·       Niềm vui: Thưởng thức đồ ăn, đồ uống và trải nghiệm - Pleasure: Enjoy food, beverages and experiences. 

c-    Ham muốn thâm sâu nhứt của con người là gì? 

Ham muốn thâm sâu nhất (deepest desire) của bất kỳ con người nào là được Yêu Thương và được Trân Trọng.

Không có ai trên thế giới này không muốn được xem là đẹp đẻ hay tài giỏi hết.

Sẽ không có ai phải nhăn mặt (frown) khi được nghe “I love you” đến từ của miệng của người mình thương hết!

d-    Ham muốn mạnh nhứt (strongest) của con người là gì? 

TS Erica Goodstone nhận định rằng:”Ham muốn tình dục là thứ ham muốn mạnh mẽ nhứt của con người. Khi được thúc đẩy bởi năng lực của ham muốn này, quý ông và quý bà phát triển một số phẩm chất đáng kinh ngạc, bao gồm nhãn quan và trí tưởng tượng, lòng can đảm và ý chí cùng khả năng kiên nhẫn liên tục bất chấp mọi trở ngại và khó khăn (visualization and imagination, courage and willpower and ability to persist in spite of all obstacles and difficulties). 

e- Như vậy, có phải ham muốn có nghĩa là tình yêu?

Tình yêu là ham muốn, không có định nghĩa nào khác hơn nữa... Đối với một số người, đó là sự đáp lại tình cảm của họ, một số người khao khát được gần gũi với người yêu. hoặc người mình yêu. Nhưng cũng có vài ngoại lệ, là ai đó nghĩ rằng “có thể chỉ muốn người mình yêu hạnh phúc mà thôi, không cần thiết để được đáp lại” (tình yêu đơn côi chăng?) 

Chỉ có những người dối lòng là những người nói

rằng tình yêu đích thực không có ham muốn! 

4-    Ham muốn có ý nghĩa gì trong Phật giáo?




Trong Phật giáo, dục vọng, vô minh, và chấp ngã nằm ở gốc rễ của mọi đau khổ. Theo dục vọng, Phật tử đề cập đến tham ái, vật chất và bất tử, tất cả đều là những ham muốn không bao giờ có thể được thỏa mãn cho mỗi con người.

Làm thế nào để một Phật tử thoát khỏi phải “chấp ngã”?

 

 

Có vài thực tiễn dưới đây để cho mỗi chúng ta cùng suy nghiệm nhằm “bớt đi” tính chấp ngã của chính mình:

* Thiền – Meditation: Thiền chỉ đơn giản là ngồi yên và cố gắng chú ý đến thời điểm hiện tại cho dù đó là hơi thở của bạn, cơ thể bạn hay những gì đang xảy ra xung quanh bạn ngay bây giờ;

* Từ bi – Compassion;

* Sự phụ thuộc lẫn nhau – Inter-independence;

* Chấp nhậnAccepting;

* Mở rộng - Expansiveness.           

 5-Tam giác vàng

Điều gì là tuyệt vời về tam giác này?

Thực sự nó có ý nghĩa gì?

Một số người thành công nhứt đã theo hướng nầy và họ thành công vì “Năng lực của một tư duy tuyệt vời”.

Cuộc hành trình đến tam giác vàng bắt đầu với Ham muốn - Desire. Đó là sân ga từ nơi con tàu vận mạng bắt đầu lăn bánh. Con tàu sẽ dừng lại sau mỗi trạm và những người không có đủ kiên nhẫn sẽ rời khỏi tàu. Còn những người ở lại là người có đức tin (tùy theo suy nghĩ của bạn, có thể là đức tin (faith) mà cũng có thể là niềm tin (believe). Đây là một thuộc tính quan trọng thứ hai để thành công.

Trong sự so sánh nầy, Đức tin kiên định – Consistent Faith và Khát vọng – Desire vững chắc chuyển Tâm Ý thành Hành động – Action.

Hành động giúp chúng ta tăng thêm ham muốn. Kết quả của Hành động làm cho Đức tin mạnh mẽ hơn và thêm một lần nữa, Hành động được tăng thêm, và từ đó tiếp tục mãi mãi Hành động.

Phản ứng dây chuyền không kiểm soát của hành động này sẽ đưa chúng ta đến nơi chúng ta thực sự thuộc về… (actually belong).

6-    Thay lời kết 


Quý bạn vừa thả lòng với những định nghĩa, nhận đình cùng suy diễn hết sức trừu tượng về một danh từ hay động từ “Desire” tạm dịch là “Ham muốn” từ những suy nghĩ của các triết gia cho đến suy nghĩ của đời thường trong cõi ta bà nầy.

Để rồi bạn chuyển qua một vài suy diễn trong tinh thần Phật giáo…

Người viết không dám nói thêm nhiều nữa, chỉ mong mỗi người trong chúng ta nhìn về, nghĩ về Ham muốn” trong chiều hướng nào?

Và dù trong chiều hướng nào đi nữa chỉ mong Quý Bạn vẫn còn tỉnh táo để biết chính mình:

·       Đang nghĩ gì?

·       Đang làm gì?

·       Và suy nghĩ gì, làm gì đó có thích hợp với đạo lý của “Đời thường” không?

Xin chia xẻ vài suy nghĩ cùng Bạn trong mùa chay tịnh của Thiên Chúa giáo và mùa “cách ly tự nguyện” vì cô Coronavirus.

Và đây cũng là những suy nghĩ mà chính người viết cũng cần suy gẫm!

Phổ Lập Mai Thanh Truyết

An Nhiên Tự TạiHouston, 26/3/2020

 

Phụ chú: Góp ý của một người bạn 

Kính Thưa Anh Truyết và các Chị Em, 

Bài viết anh phân tách về sự Ham Muốn rất hay.  Tôi xin góp một chút ý kiến.  Sau khi tất cả diễn biến về những thể loại ham muốn, thì chính ta nhìn lại chính mình, những ham muốn đó có đạt hiệu quả hay không, có khi được, nếu sự ham muốn đó trong tầm tay, có khi xa vời vì quá to lớn viển vông, có khi vì cái ta muốn thắng vì tự ái cá nhân.

Nói chung tất cả ham muốn đó do ta tự vẽ ra để trở thành một mục đích mà ta phải thực hiện dù tốt hay xấu. 

Vậy làm sao sống cho có  những mục tiêu tốt, chính là ta phải tự nhìn lại trong ta,  vì ta muốn cái này, muốn cái kia, nói chung muốn đủ thứ trên đời, khi không đạt được thì phiền muộn, bất bình, hoặc đau khổ.

 Như lời Phật dạy đó là Tham, Sân, Si.  Những thứ đó chỉ là trừu tượng và viễn vong, nhưng nếu không có Ý muốn đó,  chúng ta sẽ đứng giữa ngã ba đường,  mà ta phải chọn một con đường để đi. 

Vậy ta phải vạch ra con đường, sao cho dung hòa .  Đó là một con đường chính giữa không có dính mắc hai bên.. Phải luôn nhìn lại chính mình, cảnh giác cái ham muốn thắng, mà phải quên mình nghĩ đến cái chung trong hiện tai. 

Tôi đã luôn suy nghĩ ( đó cũng là cái ta xấu xí) tai sao ta có mặt trong đời này, tai sao ta không là cây cỏ, con chim, cái kiến , hoặc là, người giàu có, hoặc nữ hoàng hay là những người nổi tiếng.  Vậy thì cuộc sống này phải có lý do, mổi người mổi nhiệm vụ, có trách nhiệm phải chu toàn đối với cha me sinh ra ta, với gia đình ta đang có mặt, lo cho con cái cháu chắt trong tương lai. Và với xã hội ta đang sống. Tai sao mình không sanh trong một nước khác mà mình sanh trong nước Việt Nam, vậy ta cũng có trách nhiệm đối với tổ quốc, 

Ta phải làm tất cả những gì trong đời này với tất cả lòng biết ơn, đã cho ta có cuộc sống có ý nghĩa, dù có phong ba bão táp, và vui sống.  Nếu những ai đã từng đi vượt biên, sẽ hiểu được cái chết trong tích tắc giữa đại dương mênh mông không bến bờ. Hoặc đi máy bay nhìn xuống thấy con người mất hút trong quả đất.Trời đất bao la , ta chỉ là một sinh vật nhỏ bé trong vũ trụ . 

 

Chúng ta cũng may mắn là sanh ra được toàn vẹn, không tật nguyền, còn biết suy nghĩ phải trái, nếu không may sanh ra mà bị chứng bệnh vô não ngẩn ngơ thiếu hiểu biết, thì chúng ta sẽ ra sao.  Chúng ta lại được các đấng vĩ nhân hướng dẫn tâm linh biết nhân quả nghiệp báo, giống con rùa mù mà gặp bọng cây, đã mù làm sao thấy được bọng cây, Quả là may mắn. Chúng ta sanh ra không tự chọn, chúng ta chết đi cũng không biết được ngày. 

 Vậy chúng ta hôm nay gặp nhau đây là một cái duyên hanh ngộ thật đáng vui mừng, nên chúng ta phải quý trọng lẫn nhau.