Thưa Bà Con,
Hôm nay ngày Mồng Một tháng Giêng
năm Tân Sửu, 2021, xin chuyển đạt bài viết của Cố GS Nguyễn Văn Trường, hai lần
Tổng trường Giáo dục thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Mời Bà Con chiêm nghiệm về thân phận
của mỗ chúng ta trong cõi TA BÀ nầy nhân ngày đầu năm…
***
CHÂN VÀ VỌNG
GS. Nguyễn Văn Trường 2014
Vọng: Tâm vọng - Hằng
biến-hư giả-giả hợp?
Theo Phật gia, đối nghịch với
chân tâm - hằng tồn, bất biến, thanh tịnh, mà ai ai cũng có, bình đẳng - là cái
tâm hư giả. Hư là không thực như trong ‘hư danh, hư ngôn’[19]. Giả cũng là
không thực, như trong ‘giả mạo’[20].
Cũng còn gọi là tâm giả hợp: Đủ duyên thì thành, hết duyên thì mất, như
mây khói, có đó rồi mất đó. Cái tâm ấy đổi thay từng thời điểm một. Phật gia
còn gọi nó là tâm vọng. Vọng nói: trông xa; như trong chiêm vọng (trông mong),
danh vọng, uy vọng (mà người thường mong ước), hoặc như trong ‘hy vọng, thất vọng,
tuyệt vọng’[21]. Không nên nhầm lẫn tâm vọng với hư tâm là cái tâm ‘không tự
cho là đủ, còn cần phải học hỏi thêm’[22]
Nếu chân tâm hằng tồn, tuyệt đối
trong sáng và tinh khiết thì tâm vọng là hư giả, giả hợp, trong cái nghĩa: đổi
thay từng thời điểm một.
Vọng nói phù du, ảo ảnh,
có đó rồi mất đó.
Nhà Phật còn gọi tâm vọng là vọng
ngã, vì người đời thường đồng nhất mình với nó, nghĩ rằng nó là chính mình.
Đã nói chân tâm, phải xét vọng
ngã. Cái nầy soi sáng cái kia.
Phần sau đây dành cho vọng
ngã.
Chân thuộc tiên thiên, con người
ngay khi sinh ra đã sẵn có. Đó là Trời, Chúa ban cho mọi người.
Vọng thuộc hậu thiên. Nếu đời
người là cuộc hành trình từ sinh đến tử, thì vọng ngã hình thành trong quá
trình nầy. Vọng ngã, trong một giới hạn nào đó, là thành quả của sự dưỡng nuôi,
của giáo dục, của kinh nghiệm bản thân.
Con người luôn phải thích nghi
với môi trường: trong bụng mẹ, trong gia đình, ở học đường, ngoài xã hội, từ
lúc còn là thai nhi, cho đến chết. Học ăn nói, đi đứng—ăn coi nồi ngồi coi hướng,
tiên học lễ hậu học văn—sống theo gia phong, gia đạo; vào trường, học để luyện
mình trở nên một thành viên hữu ích của cộng đồng; vào đời, học qua giao lưu với
tha nhân, qua những kinh nghiệm chung sống, và như thế mãi, ta tích lũy—kiến thức,
giá trị, kinh nghiệm, thói quen,… để có một nếp sống—và tôi luyện tài khéo và
tính tình. Theo đó, ta xây dựng cho chính mình một nhân cách, nhân phẩm, có
danh, có phận. ‘Phải có danh gì với núi sông.’ ‘Không thành danh cũng thành
nhân.’ ‘Vi nhân nan, vi nhân nan, làm người, khó! Làm người, khó!’ Là những câu
mà ta thường nghe nhắc nhở. Hệ quả là ta có một cái ‘tôi’, một cái ‘ta’, một
hình ảnh về mình, mà ta gán cho một nhãn hiệu là tư cách, nhân cách, hay danh
phận của mình, mà từ của Phật gia là: vọng ngã.
Là người
ai cũng có vọng ngã. Như đã nói, vọng ngã là hậu thiên, ta tự xây dựng lấy.
Luân hồi lục đạo— súc sanh, ngạ
quỷ, atula, người, trời? Nghĩ cho cùng,
đó là những tâm thái—trạng thái tâm linh— của con người, từ cái sống bản
năng—như thú vật—đến sự thăng hoa cao độ của vọng ngã. Trong cuộc hành trình từ
sinh đến tử, trên thế gian, không mấy ai tránh khỏi luân hồi trong cái nghĩa nầy,
và luân hồi luôn tái diễn. Con người vì đó mà đảo điên, quay cuồng trong hỉ-nộ-ái-ố-ai-lạc-dục,
trong khổ lạc. Khóc rồi cười, cười rồi khóc. Phật gia cho rằng cái nguồn của mọi
điên đảo, của mọi khổ đau, là vọng ngã: Vọng ngã là tội đồ. Vọng ngã che lấp
chân tâm. Ta mù vì tâm vọng, chẳng nhận được chân tâm ngay trong ta, và vì thế,
ta khổ.
R. Tagore nhận thức trong ‘Thơ
Dâng’:
‘Tên tôi là một nhà tù,
Tôi đã tự nhốt mình vào đó và
tôi đang than đang khóc.
Ngày qua ngày, tôi đã dày công
tô đắp bức tường chung quanh.
Ngày qua ngày, nhà tù vươn tới
trời xanh; trong bóng tối của nó, tôi không còn thấy tôi đâu nữa.’[23]
Giác Ngộ
‘Phật’ hàm ý: giác ngộ hoàn
toàn[24], viên giác.
Giác ngộ đầu tiên của hành giả
là: ngục tù vọng ngã—con người không thấy bất cứ cái chi ngoài nhà tù nầy.
‘Ngày qua ngày, nhà tù vươn tới trời xanh; trong bóng tối của nó, tôi không còn
thấy tôi đâu nữa’. Tiếng kêu của Tagore
cũng là tiếng gào thét của những con người giác ngộ–không phải là không nắm bắt
được chân tâm—mà là thấy mình đã mất mình—vong thân—trong vọng ngã. Con người cảm
nhận khổ sở trong cái nhà tù nhỏ hẹp nầy của mình. Rất nhiều người chỉ có định
kiến, thành kiến, biên kiến, và tin chắc rằng vọng ngã là trụ đồng kiên cố biện minh cho cái ‘tôi’ vĩ-đại của
mình, để không thấy những gì khác. Bên
trong cái ‘tôi’ là ánh sáng. Bất cứ ánh sáng ấy ra sao—mờ nhạt, chói mắt, xanh,
vàng, trắng, đỏ, khổ hay lạc—tôi bằng lòng nó, vì nó là tôi. Thế là tôi tự giam
mình trong cái ‘tôi’ của tôi. Sực tỉnh,
tôi giựt mình, ngộ ra rằng, lâu nay tôi mù, tôi dốt vì không biết bất cứ cái gì
bên ngoài. Và ngay chính mình, mình không biết mình là ai.
Giác ngộ thứ hai: Thân
phận con người là con rối mà xã hội là ông thầy tuồng?
Nói giáo dục là nói có sự tác
động bên ngoài và phản ứng bên trong: có dạy, có học, có tập luyện theo bài bản
hay không theo bài bản. Sống là tương quan với một xã hội cụ thể trong một bối
cảnh lịch sử cụ thể. Theo đó phải nói ngôn ngữ của xã hội ấy, theo những qui định
của xã hội ấy: qui định trong cấu trúc ngôn ngữ, trong nghĩa các từ, qui định
trong nếp sống, phong tục tập quán, luật pháp… Đứa bé vừa chào đời phải nhờ sự
chăm sóc của mẹ cha mà sinh tồn. Không có sự chăm sóc nầy đứa bé khó sống sót.
Rồi nó được chuyển giao một gia phong, gia đạo, những tập tục, truyền thống dân
tộc, nói chung là cả một di sản ngàn đời của tiền nhân mà ít nhiều nó hãnh diện
nhận lãnh. Một chuỗi dài những tác động
qua lại, theo đó, đứa bé tôi luyện thành người hữu dụng.
Tóm lại, ngay từ lúc lọt lòng
mẹ, con người bị qui định, và như thế suốt giòng đời. Rồi đến một tuổi nào đó,
con người như sực tỉnh, tự vấn: Tôi là ai? Tôi phải chăng chỉ là sản phẩm của
các qui định của xã hội? Tôi phải chăng chỉ là anh kép hay cô đào hát trên sân
khấu mà xã hội—gia đình, học đường và môi trường— là ông thầy tuồng, người viết
kịch bản? Vọng ngã, cái ‘tôi’ vĩ-đại của tôi, chẳng qua là một con rối do trò đời
điều khiển?
Tỉnh thức!
Tỉnh
thức! Tôi từ chối cái khám đường chật hẹp vọng ngã và khẳng định, tôi phải ra
khỏi đó. Ở đó, thiếu sinh khí. Tôi từ chối và khẳng định không là một con rối
cho xã hội luôn giựt giây điều khiển. Tôi cảm nhận có một cái tôi-thực-chất, một
cái tôi-chân-như, mà tôi đã đánh mất. Tôi đi tìm tôi.
Cái vọng ngã ấy, không ý thức
nó thì không sao, mà ý thức nó rồi thì cảm thấy nó là tội đồ, là nguyên nhân của
vô minh, nguyên nhân cho sự tha hóa, vong thân. Vong thân vì tôi cảm nhận đã mất
cái tôi-chân-như, cái tôi-thật-là tôi, mất trong nhà tù vọng ngã. Vọng ngã lại
là những sở đắc, tích lũy suốt giòng đời, cho đến giờ nầy. Nói là nhà tù, vì
khi sực tỉnh, thấy rằng mình đã bị cột, nhốt trong nó. Càng muốn tháo gỡ, càng
muốn ra, càng bị thắt chặt.
‘Không thành danh, cũng thành
nhơn.’
‘Phải có danh gì với núi
sông.’
Những câu tục ngữ học đầu đời,
giản đơn, như câu thiệu nghề võ, thế mà có hiệu quả chết người, vì nó có thể
giam người trong một cái danh phù du, hão huyền, hay chỉ trong một cái tên gọi.
Cái tôi-chân-như là gì? Nó là
một thực thể rõ ràng, phân biệt với cái tôi-vọng-ngã hằng biến? Hay vọng ngã là
biểu hiện bên ngoài của cái-tôi-chân-như bất-biến-hằng-tồn ở đâu đó bên trong?
Hoặc cái tôi-chân-như chỉ là kết quả của một lý luận, hệ quả logic của con người?
Vọng ngã là phù phiếm, hư giả, sinh tử, tử sinh, giả hợp, phù du, thì có thể là
những biểu hiện của một cái gì chân như, hằng tồn bất biến hay không?
Mọi suy tư, mọi logic, mọi biện
giải đều là ngôn từ, qui ước, và chỉ dẫn đến những quan niệm, nguyên lý, nguyên
tắc trừu tượng đều không-thật-có vì chỉ có trong trí não, trong luận cứ.
Nếu Phật-Tánh chỉ là hệ quả của
một lý luận, suy từ cái vọng ngã—mà tôi cảm nhận thật-có ở mỗi thời điểm—thì Phật
Tánh chỉ là một ý niệm trừu tượng. Theo đó cũng không thật.
Ở đây, hình như mỗi người phải
‘tự đốt đuốc lên mà đi’.
Tuy nhiên,
Đông đảo là những người theo lời
gọi của ‘thầy’—Đại Đức, Thượng-Tọa, Hòa Thượng, Giáo Chủ: ‘Đời là khổ, hành khổ,
hoại khổ, khổ-chồng–lên-khổ, hãy theo ta, ta có con đường tu thoát-khổ? Hoặc
như một ông bạn tu hành rất mực của tôi dạy: tu là để tịch diệt sinh tử,…?’
Trong thực tế, nói khổ phải
nói lạc. Cuộc sống có khổ, có lạc. Đời người là một cuộc hành trình đầy khổ và
lạc, do có lắm vấn đề, vô cùng đa dạng và phức tạp. Thất tình lục dục, có đủ cả
và đó chỉ là cái nhìn vĩ mô.
Không khổ làm gì có lạc?
Không lạc làm gì có khổ?
Cuộc sống là vấn đề, có lo âu,
phiền toái, bực dọc, đổ mồ hôi, có khi cả nước mắt, để thích ứng. Mà vấn đề là
thử thách. Thử thách khả năng—suy tư, tìm tòi, thử nghiệm, ứng xử, hành động,
giải quyết. Thử thách tính tình— siêng
năng, cần mẫn, kiên nhẫn, bền lòng, chịu khó, bình tĩnh, năng động mà không
giao động... Đó là cái giá phải trả để trưởng thành, để có cái vui—lạc thú-- cảm
nhận mình lớn mạnh.
Cho nên không nhẹ dạ theo ‘thầy’,
không theo những khẩu hiệu, không theo những câu thiệu, nhất là không theo những
lời lẽ ‘nhân danh’. Nhân danh Kinh, Tổ, hay Phật.
Cũng không có lời giải lười biếng.
Không có bữa cơm miễn phí. Muốn được một cái gì có giá trị, có bổ ích, phải chịu
khó.
Chân-tâm, Phật-Tánh? Tôi là
ai? Là gì trong cuộc đời nầy? Cái ý, cái lý của cuộc sống? Đó là vấn đề trọng đại
của cuộc hành trình còn lại của tôi. Nó nằm trong tôi, bức thiết với tôi. Tu là
hành trì, trực nghiệm, thực nghiệm, kinh nghiệm. Tôi phải để công, để sức, để
thời gian, không chỉ nghe kinh, tìm hiểu, suy tư, lý luận, mà thực chất phải
hành, để nhận thức khoảng cách giữa tri và hành, lý luận và thực sống, vọng và
chân.
Vấn đề của tôi không hẳn là của
thầy—sư, sãi, giáo chủ, giáo hội. Thầy
là người, cũng như tôi, có ưu, có khuyết.
Cái biết của thầy, cũng như của tôi, cũng giới hạn, cho nên không có lý
do để tôi giao cái việc khó khăn nhất của tôi—tôi là ai? cuộc đời nầy là gỉ?—nhờ
thầy giải quyết.
· Có một số thầy muốn lập giáo, xây dựng
giáo hội, giáo phẩm, để ban pháp, và đem pháp đến mọi người, mọi trình độ, cho
nên phải tạo duyên cho mọi người đến chùa.
Thế nên, chùa phải to, phải rộng, phải ‘hoành tráng’, và như các chùa
Tàu, có xin xăm, có cúng sao, có cầu hồn, và chùa ngày nay, có cả đại nhạc hội
gây quỹ.
· Có thể vì thế nên trong nghi thức quy
y, ‘thầy’ bảo người tín hữu phải nguyện: “nương tựa, vâng lời, phục tùng tam bảo”[25]
Phật, Pháp, Tăng.
- Phật thì xa
ở thời gian.
- Pháp thì là
cái rừng ngôn từ. Ngôn từ do qui định của con
người, như mọi vấn đề thuộc con người, nó hằng biến trong nội dung và cả cấu
trúc hình thức. Huống chi, kinh kệ là truyền khẩu, rồi kiết tập—lần 1, lần 2, lần
3—rồi đến các tổ giảng theo các tổ, rồi phiên dịch từ Phạn, Pali,…Tam sao thất
bổn.
- Còn lại là
Tăng, mà đại diện là hàng giáo phẩm VN mới
hình thành từ 1963, và cần phải củng cố và ổn định quyền bính. Thế nhưng, vừa hình thành chưa được một thập
niên thì đã tranh chấp nội bộ--tranh chấp ảnh hưởng hay quyền lực—giáo hội chia
ra từng mảnh. Giờ lại có thêm tăng quốc doanh.
· Xây dựng giáo hội, giáo phẩm, giáo quyền,
tổ chức thần quyền—theocraty—là việc của các ngài Tăng Thống, Tổng Thư Ký, chủ
tịch, tổng vụ trưởng, vụ trưởng, vụ phó chuyên ngành—nội vụ, ngoại vụ, tài
chánh, nghi lễ, cư sĩ, tăng sự,…--không ‘mắc mớ’ đến việc tu hành hay thân phận
làm người mà chúng ta vấn hỏi. Không nên
can dự vào. Chú tâm của hàng giáo phẩm là trật tự, đẳng cấp, quyền bính, quyền
lực,.., cho nên họ cũng không hiểu, không biết gì nhiều về những vấn nạn của
chúng ta.
· Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc tùng
gây quỹ, bán đấu giá tượng Phật, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời,...
dâng sớ cầu an, cầu hồn, … giới thiệu ca sĩ, vận động xin tiền, xây chùa, xây
thêm phòng họp, trai đường,.. cũng không can gì đến chúng ta.
Hãy trở về với những vấn
đề của chúng ta,
Đó là:
· Tìm lại chính mình. Tìm cái tôi mà mình
cảm nhận đã mất trong những qui định xã hội. Hoặc muốn rõ ý nghĩa hay cho một ý
nghĩa cho cuộc hành trình trăm năm nầy của mình.
· Hoặc chỉ làm nhẹ những ràng buộc của
môi trường, đang đè nặng cuộc sống hằng ngày.
· Hoặc đơn giản hơn nữa chỉ là một sự là
tỉnh thức. Ý thức ở mỗi thời điểm về mình, về tha nhân, về những tương quan phức
tạp—mình-và-môi trường— trong quá trình đổi thay của cuộc sống. Tự tin mà không
cao ngạo, nghe giảng, nghe kinh mà tìm hiểu và kiểm nghiệm trong thực tiễn hằng
ngày. Tin ở tam bảo mà không ỷ lại,
không mất mình trong tam bảo hay vì tam bảo. Tam bảo, mà dạy cầu hồn, cầu phước,
cầu an, cầu siêu thoát, là tam ma. Nói khất thực—xin ăn—mà thật sự là xin tiền—
là nói dối.
· Tỉnh thức cũng là trực nhận vọng ngã.
Trực nhận là sống ý thức ở mỗi thời điểm. Một thời điểm, không đo lường được. Cho nên, không thể diễn tả cái xảy ra ở một
thời điểm bằng lời. Nó vô ngôn, nhưng thật sự hiện hữu ở thời điểm mà nó xảy
ra. Nhìn lại, ta có thể diễn tả nó bằng lời, để ghi lại. Nhưng nó là nó, lời
không nói hết được, và không lúc nào là trung thực với nó. Lời chỉ nói được những
ký ức về nó, một hình ảnh ít nhiều thô sơ của nó, mà không là nó. Cho nên có
câu: ‘Lời không nói hết ý, ý không nói hết tình.’ Huống chi là những sự việc gồm
cả tình lẫn ý, và những thứ khác nữa.
· Sự việc xảy ra ở một thời điểm là thật
có, thật sự hiện hữu, nhưng nhất thời, có đó rồi mất đó. Nó phù du, qua nhanh
như chớp, ta không nắm bắt nó được, không giữ nó bất biến dù trong một thời khoảng
ngắn, vô cùng bé; nó không thuộc bất cứ ai, nó vừa hiện, liền biến mất. Nó vô
ngôn, không diễn tả được bằng những qui ước của loài người. Cái-thật-nhất-thời
nầy là tuyệt đối thật: tuyệt đối trong cái nghĩa là nó tự hiện—hiện hữu, tự biến—tự
hủy diệt ngay sau đó; nó tự-lai-tự-khứ.
Vì ta không nắm bắt nó được, ổn
định nó được trong một thời-khoảng dầu rất ngắn, ta gọi nó là phù du, là giả hợp,
là hư giả, là vọng.
Thật sự, bản chất của nó—vọng
ngã—là thật, nhất thời thật có, nhất thời hiện hữu. Còn tâm-chân-như trong giới
hạn hiểu biết và lý luận, thì: bên ngoài là kết quả của một lý luận, ít nhiều
logic, vì vọng mà nói chân, vọng nguồn của khổ đau thì chân là nơi an nhiên tự
tại, vọng là phù du thay đổi, thì chân là hằng tồn vĩnh cữu.
Vọng chân đối kháng, thì nếu vọng
là phù du, thì chân cũng phù du.
Tỉnh thức là luôn vấn hỏi
về vọng và chân.
· Nhưng Phật gia sẽ bảo:“Chân ở đây là
chân thật tuyệt đối, ‘chân thật bất hư’. Kinh sách ghi chép như vậy. Và Phật là
Đức Giác Ngộ, giác ngộ sự huyền diệu của chân tâm.
Sư dạy: “Ai tu nấy hưởng. Hãy
theo ta, ta dạy cho con đường giải thoát.”
Tín hữu theo sư. Kẻ không tin
thì bảo sư lấy kinh kệ lấp miệng người. Đường Tăng—nhân vật chánh trong Tây Du
Ký—khi tìm được chân kinh, thì thấy là kinh vô tự, không có một chữ?
Giác ngộ?
Thêm một
lần nữa, xin lặp lại:
Không có lời giải lười biếng,
Không có free lunch.
‘Hãy tự đốt đuốc lên mà đi.’
Mỗi người chúng ta chỉ có một
cuộc đời để sống, trên dưới trăm năm. Rất giới hạn, phải biết trân trọng. Đó là
một cuộc hành trình từ sinh đến tử. Càng đi, càng khám phá. Khám phá là giác ngộ.
Giác ngộ: thật-giả, đúng-sai, đẹp-xấu, giàu-nghèo, khổ-lạc,… cái tính đối-đải,
tương đối –nghiệt ngã hay may mắn— của cuộc đời.
Một sự giác ngộ tạm thời, đúng
đó rồi lại sai đó, một sự giác ngộ bất toàn, nhờ vậy mà con người tiếp tục cuộc
hành trình, luôn mở rộng tầm nhìn, luôn hướng thiện—cái thiện nhứt thời tuyệt đối,
nhưng tương đối trong cuộc hành trình.
Một sự tương đối nhứt thời, xảy
ra ‘cùng khắp’ và thường xuyên như có vẻvô tận và không bị gián đoạn.
Đức Giáo Hoàng Benedict XVI và
Francis I, gọi đó là sự độc tài chuyên chế của chủ nghĩa tương đối—the
dictatorship or tyranny of the relativism.
Vậy thì Chúa ở đâu? Chân-như ở
đâu? Sự thật tuyệt đối, vĩnh hằng ở đâu?
‘Hãy tự đốt đuốc lên mà
đi.’
‘Trong quy y, ngoài sự quy y
còn lý quy y. ‘Lý quy y là trở vế với chính mình.’
Sư ở chùa. Phật ở tâm.
‘Nước của Đức Chúa Trời là ở
ngay trong bạn - the realm of God is within you,” là tựa của một quyển sách của
Lev Tolstoy. Nó gợi ý: đừng tìm Nước của Chúa - sự thật tuyệt đối ở ngoài, mà
phải nhìn lại bên trong chúng ta.
Cái ở ngoài - tiếp cận, tương
giao với ngoại nhân - là sự thật tương đối. Chân-như ở bên trong, thực chất là
nội tại, toàn vẹn bất khả phân?
Tỉnh thức là đốt ngọn đuốc bên
trong. Ánh sáng đến đâu, thấy đến đó. Không có phép lạ. Phép lạ do Chúa, do Trời,
do những ngẫu nhiên ngoài dự đoán, tính toán của con người.
Phép lạ không là bùa chú,
không do các pháp sư, cậu trạng, bà bóng, thầy bùa, thầy chùa, sư sãi.
Nhất thiết không tòng phạm với
giới buôn thần bán thánh.
Người tu không để dính mắc ở
trụ hay vô trụ.
Tu là tỉnh thức. Tỉnh thức để
buông xả?
Và lời sau cùng để suy nghiệm
là lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma:
“Khi trong tay anh nắm chặt một
vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống,
thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với
quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một
mức độ nào đó mà thôi.”
Nguyễn văn Trường
Ghi chú: Chúng tôi chân thành cám ơn bác sĩ Nguyễn văn
Vĩnh, giáo sư Vương Thúy Nga, giáo sư và nhà văn Trần Bang Thạch và ông đồ Đỗ
Chiêu Đức đã chịu khó đọc, góp ý, khuyến khích. Nhờ vậy, chúng tôi có những hiệu
chính thích ứng.
Mục Lục
[1] Internet
[2] Phật tuy tịch rồi, còn tượng
Ngài lưu lại, cũng như Phậtở đời mãi, thế là ‘trụ trì Phật Bảo. Thiều Chửu.
Hán Việt Từ Điển. Tái Bản Lần thứ hai. trang 20
[3] Pháp tuy tịch rồi, nhưng
kinh sách còn lưu truyền lại, thế là ‘trụ.trì
Pháp Bảo’, Thiều Chửu. Hán Việt Từ Điển.
Tái Bản Lần thứ hai. Trang 20
[4] Thiều Chửu. Hán Việt Từ Điển. Tái Bản Lần thứ hai. Trang
6
[5] Thơ Tố Hữu. Nguồn Internet
[6] Thơ Tố Hữu. Nguồn
Internet.
[7] Duy Lực Thiền. Posted on
09/07/2013. Internet.
[8] Nhi Chỉ Nhược. Giải thoát tức thì. Tâm Vô Trụ. Nguồn :
Internet.
[9] Nguyễn Duy Nhiên, Ấm một
Bình Minh. Sinh Thức 55-1.
Phật học Online. Trái Tim của Bụt.
[10] Phật học Online. Trái Tim của Bụt
[11] Từ mượn của một bức tranh
Thiền của giáo sư Nguyễn Đức Hiển.
[12] "thịnh và suy, hủy
và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Tức là bát phong có bốn cặp: Một là hưng
thịnh, lợi lộc và suy sụp, điêu tàn. Hai là hủy báng, gièm pha và danh dự, tiếng
thơm. Ba là xưng dương, tán tụng và cơ bài, chỉ trích. Bốn là phiền não, khổ
đau và an lạc, hạnh phúc.’ Nguồn: Cư Trần Lạc Đạo, Bát Phong. Phật Học Ngày
Nay. Internet
[13] Nhân là nguyên nhân, chỉ
cho những sự vật chính đó là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa
lam nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật gì có tánh cách
trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được thành. Như phân, nước, ánh
sáng, nhân công... là trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân
duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật
chung quanh nó.
Chữ "Nhân duyên" lại
có nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó
"duyên" với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ
v.v... là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành ra cái nhà. Vì
các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau, mà thành ra vật thế này hay
thế khác, nên trong kinh chép: "Chư pháp trùng trùng duyên khởi". Thập nhị nhân duyên gồm có: 1. Vô minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh sắc, 5.
Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão tủ. Tạnh Thư Phật Học. Thích Thiện Hoa. Phật Học
Phổ Thông. Internet.
[14] Nhi Bất Nhực, Tâm Vô Trụ.
Giải Tức Thì. Nguồn: Internet/
[15] Pháp Bửu Đàn Kinh.
Internet
[16] Pháp Bửu Đàn Kinh.
Internet
[17] Pháp Bửu Đàn Kinh.
Internet
[18] Pháp Bửu Đàn Kinh.
Internet
[19] Đào Duy Anh: Hán Việt Từ
Điển
[20] Thiều Chửu: Hán Việt Từ
Điển. Lạc Thiện: Hoa Việt Thông Dụng Từ
Điển.
[21] Thiều Chửu. Hán Việt Từ
Điển
[22] Thiều Chửu. Hán Việt Từ
Điển. Lạc Thiện: Hoa Việt Thông Dụng Từ
Điển. Đào Duy Anh: Hán Việt Từ Điển.
[23] Nguyên Nguyên Huỳnh Hồn Cẩm.
Nguồn Thiền. Nhà Xuất Bản Văn Học Thông Tin. trang 34.
[24] Thiều Chửu. Hán Việt Tự
Điển. Lạc Thiện. Hoa Việt Thông Dụng Tự Điển.
Đào Duy Anh. Hán Việt Từ Điển.
[25] HT Thích Thiện Hoa. Phật
Học Phổ Thông. Sự Quy Y.
[26] Lời của Đức Phật.
[27] HT Thích Thiện Hoa. Như
Trên.
[28] Nguồn. Internet
No comments:
Post a Comment