Thưa Bà Con,
Chuyển cho Bà
Con đọc “vài hàng về Địa sư Huệ Năng” lượm trên mạng. Sư Huệ Năng có thể nói là
một nhà sư tầm thường, không có gì đặc sắc so với hàng chục huynh đệ của Sư. Trước
khi lâm chung, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn gọi tất cả sư huynh, sư đệ vào chầu để chọn Lục
Tổ. Sư Huệ Năng biết phận mình, cho nên chỉ lấp ló phía ngoài, ngắm nhìn các sư
huynh hàng đầu cố gắng thuyết phục Thầy. Nhưng tất cả đều thất vọng và Thầy
truyền giải tán.
Giữa đêm khuya,
trong khi còn trong giấc nồng, Sư Huệ Năng được Thầy lay dậy và nói:”Ta truyền
y bát cho con. Từ nay con là Lục Tổ Huệ Năng. Con mau xuống núi kẽo các sư
huynh hay được sẽ ám hại con”.
***
Đại sư Huệ Năng
(Năng, zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō),
638-713, là một vị Thiền sư vĩ đại trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Sư kế tiếp
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc.
Trước Huệ Năng,
Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc
điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây.
Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức
là truyền nhân. Tuy nhiên sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh
Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn
bộ các dòng Thiền về sau.
Sư được coi là
người sáng lập Thiền Đốn Ngộ (Thiền Nam Tông)- với chủ trương đạt giác ngộ trực
tiếp, nhanh chóng. Sư tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh",
một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật
Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất
sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về
Huệ Năng.
Truyền thuyết nổi
tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc
được kể lại như sau:
Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa
nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối
cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết
bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu
hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc
trong bếp, nghe đọc bài kệ, bèn nhờ người viết bài kệ của mình như sau:
Bồ-đề
bổn vô thụ,
Minh
kính diệc phi đài
Bổn
lai vô nhất vật,
Hà xứ
hữu (nặc) trần ai?
Bồ-đề vốn chẳng phải cây,
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay vốn không phải vật,
Nơi nào dính bụi trần?
Nghe bài kệ, Hoằng
Nhẫn biết căn cơ của sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi sư
vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng
víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心), sư hoát nhiên đại ngộ.
Sư quỳ xuống nhận
y và pháp, nói:"Pháp, con đã nhận, còn y sẽ trao cho ai?".
Tổ nói:
"Xưa, lúc đầu Tổ Đạt Ma đến đây, vì chưa ai tin nên phải truyền y làm biểu
minh đắc pháp. Nay tín tâm mọi người đã muồi, chiếc y sẽ là đầu mối tranh
giành. Vậy nên đến ông thì dừng lại không truyền nữa. Ông nên đi xa ẩn lánh, đợi thời cơ mà hành đạo,
bởi lẽ người nhận y, mạng như tơ mành".
Sư hỏi:
"Nên ẩn nơi đâu?"
Tổ nói: "Gặp
Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn". Tức là muốn khuyên sư đi về phương Nam.
Khi tiễn sư xuống thuyền.
Tổ muốn tự chèo
đưa sư sang sông, sư bèn nói: "Khi mê thầy
độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua sông.
Suốt 15 năm
sau, sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, sư đến chùa Pháp
Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng "Chẳng phải gió, chẳng phải phướn" - Vô môn
quan, công án 29).
Sau khi sư chen
vào nói "tâm các ông động" thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi sư
"Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?"
Sư không thể giấu
giếm, bèn thuật nguyên do việc đắc Pháp.
Ấn Tông bèn tự
chấp lễ đệ tử, thỉnh cầu được nhận pháp yếu của Thiền và nói với chúng: "Ấn
Tông ta đây thực là phàm phu, nay mới được gặp Bồ-tát thân phàm" Và thỉnh
sư đưa y bát ra để cho chúng được chiêm ngưỡng.
Ngày 15 tháng
giêng, Ấn Tông mời các bậc danh đức đến làm lễ cạo tóc cho sư.
Đến ngày 8
tháng 2, Trí Quang Luật sư chùa Pháp Tính đứng ra làm lễ thọ cụ túc giới cho
sư. Giới đàn này do Ngài Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la triều (Lưu) Tống thiết lập.
Ngài Tam Tạng Bạt-đà-la
từng thọ ký: "Sau này sẽ có Bồ- tát thân phàm thọ giới tại đàn này".
Và cuối thời Lương, có Chân đế Tam tạng đã tự tay trồng hai cây Bồ-đề bên cạnh
đàn và nói với chúng: "Sau 120 năm, sẽ có bậc Đại pháp sĩ dưới cội cây này
diễn pháp vô thượng thừa độ vô số chúng sinh", tức là chỉ cho Lục Tổ
Huệ Năng vậy…
No comments:
Post a Comment