Friday, November 7, 2025

 


Chiến tranh vì “Nước” ở Trung Đông

 

Về địa lý, hai con sông Tigris và Euphrates có nguồn chính ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) và chảy qua hoặc qua vùng lãnh thổ của Syria, Iraq rồi đổ ra biển qua vùng hạ lưu (như khu vực cửa sông ở Iraq). Vì vậy, thượng nguồn, Thổ Nhĩ Kỳ có lợi thế lớn về kiểm soát, Đã và đang xây nhiều đập và dự án thuỷ lợi trong khu vực hệ thống sông này.

Hiện tại, có khan hiếm nguồn nước, mùa khô ngày càng kéo dài, dòng chảy giảm, khiến các nước hạ lưu chịu tổn thương lớn ở Iraq và Syria, vì thiếu một thỏa thuận toàn diện và ràng buộc giữa các quốc gia có cùng dòng chảy khiến việc phối hợp trở nên khó khăn.

Qua kinh nghiệm về việc xây dựng các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong hiện đang gây ra nhiều tranh cãi làm chúng ta liên tưởng đến các tranh chấp đã xảy ra trên các sông Tigris và Euphrates ở vùng Trung Đông.

Trung Đông là một vùng đất khô cằn, ít sông suối và số các quốc gia trong tình trạng khan hiếm nước (dưới 1000 m3/năm cho một người dân) đang ngày càng tăng. Nếu năm 1955 chỉ có ba quốc gia trong vùng lâm vào tình trạng này, năm 1990 đã có thêm sáu nước, và các khoa học gia ước tính là năm 2025, Ai Cập, Iran, Oman và Syria cũng sẽ bị thiếu nước trầm trọng. Với hiện tượng biến đổi khí hậu và dân số tăng nhanh, lượng nước thiếu hụt ở những nước không có dầu mỏ, tình trạng ô nhiễm các nguồn nước trở nên phổ biến, thì việc quản lý và phân phối các nguồn nước giữa các quốc gia ven sông đang trở nên nóng bỏng.

Vì luật pháp quốc tế về các nguồn tài nguyên nước xuyên biên giới còn chưa đầy đủ, còn nhiều lỗ hõng, vì vậy, cách ứng xử theo thông lệ hay theo công ước quốc tế không được các nước ở đầu nguồn tuân thủ nên nhiều tranh chấp đã, đang và sẽ xảy ra.

Các cạnh tranh nguồn nước trong vùng Trung Đông đã có từ hàng nghìn năm nay. Thánh luật Sharia chi phối tất cả các hoạt động thường ngày của người Hồi giáo có nguồn gốc từ quy luật phân chia các nguồn nước. Và từ “rivalry” trong tiếng Anh có nghĩa là cạnh tranh cũng xuất phát từ tiếng Latin “rivalis” để chỉ người dùng chung dòng nước. Nguyên Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Boutros Boutros-Ghali đã nói: “Cuộc chiến tranh tương lai ở Trung Đông sẽ không là một xung đột về chính trị mà là một cuộc tranh chấp”. (Lượm lặt trên mạng).

Thổ Nhĩ Kỳ hiện kiểm soát 88% lượng nước chảy vào sông Euphrates và 40% nước sông Tigris. Syria chỉ kiểm soát 12% lượng nước sông Euphrates còn Iraq tuy không kiểm soát nước sông Euphrates nhưng nhờ các phụ lưu có nguồn từ dãy Zagros mà làm chủ được 51% lượng nước sông Tigris. Nhiều đập thủy điện đã được xây dựng trên hai con sông này như các công trình của Iraq xây năm 1927 hay đập Haditha trên sông Euphrates, hồ chứa Al Tharthar, các đập Mosul, Saddam trên sông Tigris.

1-    Câu hỏi được đặt ra là liệu “cuộc chiến vì nước” có thể xảy ra?

Khả năng xảy ra có thể nói có nguy cơ rất cao xảy ra xung đột hoặc căng thẳng lớn liên quan tới nước giữa các quốc gia liên quan, bởi vì:

Khi nguồn nước thiết yếu bị giảm mạnh, và một quốc gia hạ lưu cảm thấy bị thượng nguốn “hạn chế” hoặc “chi phối”, thì áp lực xã hội-chính trị sẽ gia tăng.

Đã có nhiều tiền lệ về sử dụng nước như công cụ chính trị/chiến lược (ví dụ: Trung Cộng trên thượng nguồn xây dựng trên 10 đập bậc thềm dọc theo 1000 Km của sông Mekong trong địa phận của họ, nhằm điều chỉnh dòng chảy trong việc xây dựng thủy điện và cung cấp nước dùng cho việc phát triển nông nghiệp.

Các nhà phân tích cảnh báo rằng khủng hoảng nước trong khu vực này có thể trở thành vấn đề an ninh chỉ sau khủng hoảng lương thực và kinh tế trong vùng.

Tuy nhiên, những trở ngại lớn khiến “cuộc chiến toàn diện” khó xảy ra giữa các quốc gia có lẽ không dễ xảy ra ngay lập tức, vì:

  • Các bên đều có lợi ích kinh tế-chính trị trong việc duy trì hợp tác hoặc ít nhất không mở màn xung đột toàn diện vì nước, do chi phí rất lớn.
  • Thực tế hiện tại có nhiều hiệp định nhỏ, cơ chế đàm phán (dù chưa đầy đủ) đang tồn tại. Ví dụ: giữa Thổ Nhĩ Kỳ-Syria, Thổ Nhĩ Kỳ-Iraq có các thoả thuận tạm thời.
  • Ngoài lưu lượng nguồn nước, vẫn còn nhiều yếu tố khác như công nghệ, nhu cầu tái sử dụng, nước ngầm, bảo vệ môi trường… nên việc “bắt đầu chiến tranh vì nước” không phải là kịch bản duy nhất hoặc đơn giản.
  • Chi phí quân sự sẽ quá cao vì chiến tranh sẽ kéo theo yếu tố quốc tế, liên minh, chi phí nhân mạng rất cao, các bên có thể chọn giải pháp khác như thương lượng, đồng minh, áp lực ngoại giao.

2-    Các diễn biến có thể xảy ra

Dưới đây là một vài diễn biến có tính cách có thể xảy ra:

  • Căng thẳng gián tiếp: Thường nguồn (Thổ Nhĩ Kỳ) tăng đập, giảm lưu lượng, hạ nguồn (Iraq, Syria) phản ứng mạnh về ngoại giao, biểu tình, khiến quan hệ bị xấu đi, có thể dẫn tới các biện pháp trả đũa kinh tế hoặc hỗ trợ nhóm dân quân.
  • Xung đột cục bộ/chiến tranh “nước nhỏ”: Ví dụ một quốc gia sử dụng đập hoặc điều phối nước để gây áp lực với khu vực tự trị hoặc nhóm dân tộc ở hạ lưu, dẫn đến đối đầu quân sự nhỏ.
  • Hợp tác hoặc thoả thuận ngăn ngừa: Các quốc gia có thể ký giấy tờ, thiết lập ủy ban phối hợp để tránh xung đột, thực tế đang diễn ra một phần.
  • Thảm hoạ nhân đạo và khủng hoảng dân cư: Dòng chảy giảm mạnh dẫn tới mất mùa, di cư, bất ổn nội bộ lớn trong nước hạ lưu, từ đó, ảnh hưởng lớn hơn so với “chiến tranh vì nước”.

Xác suất về khả năng tạo ra chiến tranh: “Cuộc chiến vì nước” có thể xảy ra trong khu vực lưu vực sông Tigris/Euphrates, đặc biệt dưới áp lực khan hiếm nguồn nước ngày càng cao. Nhưng cũng phải nói khó, vì chiến tranh giữa các quốc gia vì một lý do “nước” rất khó xảy ra, ít khả năng “ngoài ý muốn” là một xung đột quân sự toàn diện giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq chỉ vì nước trong ngắn hạn ít nhất là hiện nay.

Quan trọng hơn cả có thể là do một nguy cơ lớn hơn là căng thẳng, bất ổn, khủng hoảng dân sinh và môi trường. Đây cũng là một dạng “chiến tranh” kiểu khác (kinh tế-xã hội) dù không dùng súng.

3-    Vai trò của Thổ Nhĩ Kỳ - Việc kiểm soát thượng nguồn

Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát ~90% nguồn nước Euphrates và ~50% của Tigris. Với dự án GAP - Southeastern Anatolia Project với hơn 20 đập lớn (Atatürk, Ilısu…) cho phép Ankara điều tiết nước như một công cụ chiến lược.

Thổ Nhĩ Kỳ coi nước là tài nguyên quốc gia chứ không phải “tài nguyên xuyên biên giới”, trái với quan điểm “chia sẻ công bằng” của Iraq & Syria. Chính vì vậy, sự căng thẳng chính trị và ngoại giao giữa ba quốc gia liên quan đến hao dòng sông Tigris và Euphrates  liên tục leo thang, nhất là khi mực nước vùng hạ lưu xuống đến mức nguy hiểm cho Iraq và Syria.

4-    Bối cảnh khan hiếm nước ở Iraq & Syria

 4.1- Iraq

Iraq phụ thuộc vào dòng chảy hơn >70% nguồn nước mặt vào hai sông Tigris và Euphrates. Dòng chảy giảm 40–60% so với trung bình dài hạn theo Bộ Tài nguyên Nước Iraq vào năm 2024–2025. Các nguyên nhân gồm sự biến đổi khí hậu khiến lượng mưa giảm, mùa khô kéo dài, nước ngầm cạn kiệt, và việc tận dụng và phí phạm nguồn nước trong dân chúng. Nông nghiệp chiếm 85% lượng nước tiêu thụ, nhưng hiệu suất tưới chỉ đạt 30–40% do kỹ thuật tưới tiêu vẫn còn trong giai đoạn “thô sơ”. Sau cùng là do áp lực xã hội vì nạn mất mùa, làn sóng…di cư nông thôn, và việc giảm thiểu nguồn điện từ thủy điện.

4.2- Syria

Sông Euphrates phát xuất từ Thổ Nhĩ Kỳ có dòng chảy giảm từ 500 m³/s cam kết xuống còn ~200 m³/s, khiến hồ Assad và đập Tabqa gần cạn (2024). Các khu vực nông nghiệp miền Bắc - Đông Syria (Raqqa, Deir ez-Zor) bị ảnh hưởng nặng; nhiều giếng cạn khô. Hệ thống quản lý nước bị chia cắt do chiến tranh và các nhóm kiểm soát địa phương khác nhau. Cả hai nước hạ lưu Iraq, và Syria đều đang ở tình trạng an ninh nước nghiêm trọng nhất trong 50 năm qua.

5-    Phản ứng cụ thể của Iraq

Iraq phụ thuộc lớn vào hai con sông Tigris và Euphrates cho nguồn nước ngọt; việc lưu lượng giảm vì các đập ở thượng nguồn (của Thổ Nhĩ Kỳ) và vì biến đổi khí hậu tạo ra áp lực lớn lên an ninh nguồn nước của Iraq. Iraq xem việc điều tiết nước tại thượng nguồn như một vấn đề an ninh quốc gia, và cảnh báo nếu không có giải pháp ổn định thì sẽ có tác động lớn tới nông nghiệp, môi trường, sinh kế người dân.

Lưu lượng trung bình tại biên giới Thổ - Iraq theo ước tính trước khi có các đập của Thổ Nhĩ Kỳ là vào khoảng 20–22 tỷ m³/năm. Sau khi các đập Ilısu và Cizre hoạt động (từ 2020s) lượng nước giảm  xuống còn ~9–10 tỷ m³/năm, theo Bộ Tài nguyên Nước Iraq. Còn dòng chảy đến Syria rất nhỏ, chánh yếu là phụ lưu Khabur, không đáng kể so với Euphrates.

·        Iraq đã chính thức yêu cầu Thổ Nhĩ Kỳ tăng lượng nước xả từ các đập ở thượng nguồn nhằm đảm bảo lưu lượng tới Iraq. Ví dụ, vào tháng 7- 2022, Bộ trưởng Tài nguyên Nước Iraq Mehdi al‑Hamdani yêu cầu phía Thổ Nhĩ Kỳ “xem xét lại lượng nước được xả để giúp Iraq vượt qua tình trạng thiếu nước”.

·        Iraq kêu gọi một thỏa thuận song phương dài hạn với Thổ Nhĩ Kỳ để đảm bảo một phần “công bằng và hợp lý” trong phân chia lưu lượng nước chảy tới. Ví dụ: Bộ trưởng nước Iraq cho biết “chúng tôi đang hướng tới một thỏa thuận toàn diện với Thổ Nhĩ Kỳ” rằng nước là ưu tiên.

·        Iraq đã cảnh báo rằng lưu lượng nước từ Thổ Nhĩ Kỳ đang ở mức rất thấp, theo Bộ Tài nguyên Nước Iraq, lưu lượng cả hai sông đã giảm đáng kể. Ví dụ: lưu lượng sông Tigris và Euphrates hiện tại tại Iraq “chỉ còn khoảng 30%” so với mong đợi.

Iraq cũng đã thực hiện các động thái ngoại giao và kỹ thuật: Thỏa thuận cho phép đoàn kỹ thuật Iraq tới Thổ Nhĩ Kỳ để đánh giá trữ lượng đập, và thảo luận trực tiếp với đại diện Thổ Nhĩ Kỳ.

Về mức độ thành công và thách thức của Iraq: Mặc dù có yêu cầu và đàm phán, Iraq vẫn chưa có một thỏa thuận ràng buộc mạnh và vốn phụ thuộc lớn vào thiện chí của bên thượng nguồn là Thổ Nhĩ Kỳ. Riêng đối với Thổ, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đối mặt với vấn nạn khan hiếm nước và có lợi ích riêng trong việc điều khiển đập cũng như ảnh hưởng của việc biến đổi khí hậu làm cho lượng mưa và tuyết tan giảm, tác động tới nguồn cung từ thượng nguồn của quốc gia nầy.

Và, ngay chính Iraq cũng phải chịu trách nhiệm nội tại vì hạ tầng tưới tiêu lạc hậu, thất thoát nước, quản lý kém… khiến việc điều tiết nước trong nội địa khó khăn hơn khi lưu lượng nước trên thượng nguồn bị giảm.

Sự thương lượng giữa hai quốc gia: Có dấu hiệu cải thiện là vào năm 2025, Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ đã ký một thoả thuận về hợp tác nước và quản lý lưu lượng. Iraq đang chuyển hướng từ chỉ “yêu cầu tăng nước” sang “tích hợp nguồn nước vào các hiệp định rộng hơn về kinh tế, an ninh, và hợp tác đa chiều”. Ví dụ: Bộ trưởng Iraq nói rằng “nước sẽ được đặt trong một giỏ” gồm các lợi ích kinh tế, an ninh và phát triển chung với Thổ Nhĩ Kỳ.

Vào ngày 2 tháng 11-2025, Iraq đã ký một thỏa thuận với Thổ Nhĩ Kỳ, theo đó các dự án cơ sở hạ tầng nước do các công ty Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện sẽ được tài trợ bằng doanh thu từ việc bán dầu, một quan chức Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Văn phòng Thủ tướng Iraq cho biết trong một tuyên bố rằng hai nước đã ký một thỏa thuận về cơ chế thực hiện cho thỏa thuận hợp tác về nước mà họ đã ký kết vào năm ngoái. Tuy nhiên, văn phòng không cung cấp thông tin chi tiết về cơ chế này. Bản tin Gulf Currents của Reuters mang đến những thông tin mới nhất về địa chính trị, năng lượng và tài chính trong khu vực là chính phủ Iraq sẽ thành lập một ủy ban phụ trách các dự án cơ sở hạ tầng nước và mời các công ty Thổ Nhĩ Kỳ đấu thầu, với khoản thanh toán cho các dự án sẽ được tài trợ bằng doanh thu từ việc bán dầu của Iraq cho Thổ Nhĩ Kỳ. Một quan chức tài nguyên nước Iraq cho biết, lô dự án đầu tiên dự kiến ​​được thực hiện theo thỏa thuận bao gồm ba dự án đập thu nước và ba sáng kiến ​​cải tạo đất.

6-    Phản ứng của Syria

Dưới đây là tổng hợp về cách Syria phản ứng trước việc thượng nguồn là Thổ Nhĩ Kỳ xây đập và giảm lưu lượng nước trên hệ thống sông Euphrates, và gián tiếp đến sông Tigris, kèm theo những thách thức mà Syria đang phải đối mặt.

Syria chính thức lên tiếng và yêu cầu Thổ Nhĩ Kỳ tuân thủ các cam kết như sau:

·        Syria nhắc tới một hiệp định năm 1987 giữa Thổ Nhĩ Kỳ–Syria–Iraq, theo đó Thổ Nhĩ Kỳ cam kết xả khoảng 500 m³/giây (cubic metres per second) xuống Euphrates cho Syria.

·        Syria phản ảnh rằng thực tế lượng nước nhận được đã giảm mạnh (còn khoảng ~200 m³/giây) trong khi nhu cầu tăng cao.

·        Tại cuộc họp giữa ba nước (Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Iraq) về nước, đại diện Syria nói: “Chúng tôi hiểu nhu cầu lớn của Iraq. Nhưng chúng tôi cũng đang thiếu nước.”

6.1- Phản ánh tác động lên nông nghiệp, thủy điện và người dân Syria

Dòng chảy giảm của Euphrates đã dẫn tới khô hạn, ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp vùng Bắc-Đông Syria, đặc biệt các tỉnh như Raqqa, Deir ez‑Zor.

Các hồ chứa và đập như Lake Assad (hạ nguồn Euphrates tại Syria) đang gần mức không thể vận hành hiệu quả, ảnh hưởng tới sản xuất điện và cung cấp nước sinh hoạt.

Việc nước ít hơn cũng khiến các cư dân phải phụ thuộc nhiều hơn vào khai thác nước ngầm và giếng, điều này đang bị ảnh hưởng bởi khô hạn và nạn khai thác quá tải.

6.2- Tìm kiếm lời giải và hợp tác kỹ thuật

Syria được nêu là một trong các bên thảo luận song phương hoặc đa phương về lưu vực sông Euphrates/Tigris với Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq.

Syria tuy nhiên bị hạn chế về quyền đàm phán do tình hình nội bộ (nội chiến, nhiều khu vực bị xáo trộn) và năng lực tài chính cùng hạ tầng cơ sở thấp hơn so với Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq.

6.3- Những thách thức mà Syria đang đối mặt

Syria thiếu khả năng đàm phán cân bằng vì Thổ Nhĩ Kỳ có lợi thế thượng nguồn lớn, trong khi Syria là nước hạ lưu, nên bị tác động lớn bởi các quyết định của Thổ Nhĩ Kỳ.

Vì khủng hoảng nội chiến đã làm suy yếu khả năng Syria đầu tư cho cải thiện hệ thống thủy lợi, đập, và quản lý nước. Cộng thêm mực nước mưa thấp hơn, mùa tuyết tan ít hơn thượng nguồn cũng làm cho dòng chảy giảm tự nhiên, khiến Syria càng khó khăn hơn. Quan trọng hơn cả là một phần vùng hạ lưu Euphrates ở Syria bị kiểm soát bởi các nhóm khác nhau, khiến quản lý nguồn nước phức tạp hơn.

Có thể nói Syria đã phản ứng nhiều chiều, vừa lên tiếng về việc Thổ Nhĩ Kỳ giảm lưu lượng, vừa tìm hợp tác nhưng bị hạn chế thực thi.

Trong tương lai, nếu không có cải thiện về lượng nước, hoặc không có thỏa thuận mới, tình hình sẽ tiếp tục căng thẳng đối với Syria về nước, nông nghiệp và điện.

Cũng cần nên biết, việc điều chỉnh mối liên lạc giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq, cùng với việc tăng cường hạ tầng cơ sở nội địa (đập, thủy lợi, tái sử dụng nước) sẽ là chìa khóa cho Syria cải thiện nguồn nước của chính quốc.

Sông Tigris bắt nguồn từ Thổ Nhĩ Kỳ (núi Taurus), nhưng phần lớn chảy qua lãnh thổ Iraq; chỉ có một đoạn ngắn chảy dọc theo biên giới Syria -Thổ mà thôi, và sau đó hợp lưu với sông Enphrates và đổ ra Vịnh Ba Tư (Iran). Cho đến nay, vẫn chưa có hiệp định rõ ràng về việc chia xẻ nguồn nước giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, và Iraq như đối với sông Euphrates.

Sông Euphrates bắt đầu từ miền Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ, hợp lưu hai nhánh chính là Murat và Karasu. Sông chảy qua Thổ Nhĩ Kỳ - Syria - Iraq. Lưu lượng tại biên giới Thổ Nhĩ Kỳ – Syria theo thỏa thuận 1987 là 500 m³/giây (tức ~15,75 tỷ m³/năm). Nhưng thực tế hiện nay, lưu lượng chỉ dao động từ 180–250 m³/giây (≈ 6–8 tỷ m³/năm). Vì vậy, dòng chảy yếu làm giảm nước cho các hồ chứa lớn của Syria (như hồ Assad), ảnh hưởng nặng nề tới nông nghiệp và thủy điện.

Theo suy nghĩ của người viết, nếu suy diễn về những dữ kiện trên, chúng ta thấy rằng, việc lưu lượng nguồn nước chuyển về Syria đã giảm mạnh so với cam kết hoặc so với quá khứ gây ra tình trạng thiếu nước, ảnh hưởng tới nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt ở Syria. Sự giảm thiểu này không chỉ từ việc ảnh hưởng do các đập ở thượng nguồn, mà còn do biến đổi khí hậu, khô hạn, và tăng gia khai thác ở trong nước. Và các con số cho thấy Syria vẫn nhận dòng chảy, nhưng ở mức độ thấp hơn nhiều so với cam kết hoặc nhu cầu.

 

 

7-    Kết luận

Tình trạng hiện tại (2025), lưu lượng nước giảm đáng kể, gây khủng hoảng nông nghiệp, thiếu nước sinh hoạt và năng lượng thủy điện ở Iraq và Syria. Thổ Nhĩ Kỳ ưu tiên sử dụng nước cho nội địa, đôi khi hạn chế dòng chảy xuống hạ nguồn. Dù Iraq và Syria đã nhiều lần phản đối, yêu cầu đàm phán nhưng hiện chưa có cơ chế ràng buộc hiệu quả.

Nguồn nước là “yếu tố địa chính trị nhạy cảm” ở Trung Đông. Chiến tranh toàn diện vì nước là không cao do Thổ Nhĩ Kỳ mạnh hơn về quân sự, và các bên lo ngại can thiệp quốc tế. Tuy nhiên, khủng hoảng nội bộ ở Iraq và Syria là rất cao, có thể dẫn tới xung đột xã hội, di cư, bất ổn chính trị. Nhưng nếu có xung đột, thì xung đột sẽ bị giới hạn vì việc…tấn công đập, đòi điều tiết nước có thể xảy ra, nhưng thường ở mức cục bộ.

Công cuộc hòa giải hoặc hợp tác vẫn khả thi nếu có áp lực quốc tế và công nghệ tiết kiệm nước, nhưng xác suất thấp hơn so với các khủng hoảng nội bộ ỡ Iraq và Syria.

Rốt rát lại, giải pháp dài hạn cần có cho ba quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, và Syria là việc hợp tác quốc tế, hiệp định nước ràng buộc, và áp dụng công nghệ tiết kiệm nước và tưới tiêu có hiệu quả.

Dự kiến về “Cuộc chiến Nước Lạnh” – “Water Cold War” vì Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục duy trì ưu thế đập nước, “ép” các nước hạ lưu qua hiệp định kinh tế, và Iraq, Syria phụ thuộc ngoại giao, viện trợ, dự án đầu tư để bảo đảm việc duy trì nguồn nước hợp lý.

Tuy nhiên, bà quốc gia Iraq, Syria, và Iran có thể phối hợp gây sức ép chính trị hoặc thương lượng tập thể với Thổ Nhĩ Kỳ qua việc thành lập “Liên minh nước khu vục” – “Alliance for Regional Water” nhằm điều chỉnh việc phân phối nước hợp lý và cân bằng hơn. Nhưng thực tế cho chúng ta thấy rằng việc thành lập Liên minh khó thực hiện vì sự chia rẽ chính trị nội bộ làm kịch bản này khó hiện thực hóa hoàn toàn.

Có lẽ, sau cùng, tất cả chúng ta cần cầu nguyện cho sự hòa bình và an bình cho ba quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, và Syria trong cuộc “chiến vì nước” hiện tại.

Mong lắm thay!

Mai Thanh Truyết

Mùa Tạ Ơn

Houston – Tháng 11-2025





 


 







No comments:

Post a Comment