LỜI PHI LỘ
Lịch sử Việt Nam (VN) cận đại gắn liền với hầu hết những biến cố quan trọng của dòng sử thế giới. Trong đó những biến cố lớn là những xung đột của các cường quốc, và gần như là một định mệnh, dân tộc VN chịu rất nhiều mất mát và đau thương trong những cuộc đổi dời dâu bể này.
Ngày nay, một lần nữa, dân tộc VN lại phải gánh chịu ảnh hưởng nghiệt ngã của cuộc thư hùng giữa hai đại cường kinh tế, bắt nguồn từ nhiều nguyên do; chính yếu là do mức độ phát triển kinh tế không đồng đều giữa độc bá quyền Mỹ và quốc gia thách đố Trung Cộng (TC). Tính chất của sự tranh chấp này nằm trong khảo luận mà sử gia Hy Lạp, Thucydides, đã dàn dựng hơn hai thiên niên kỷ qua.
Hệ quả của cuộc thư hùng được gọi là “thương chiến” này có thể thay đổi trật tự thế giới mà chúng ta đang trải nghiệm (Pax Americana).
Do vị trí địa lý chính trị của VN, dù diễn tiến thế nào, hệ quả cuộc chiến nầy đưa đến nhiều thử thách và đồng thời là cơ hội cho dân tộc VN.
Hơn nữa, một dân tộc không có niềm tự hào hay hãnh diện sẽ không thể tiến bộ, mà có thể cũng không tồn tại qua thời gian. Ngày nay, người VN dàn trải khắp năm châu. Nhìn chung, người Việt khắp mọi nơi rất thành công và vẫn tự hào là người Việt. Do đó, người viết tin rằng dù dưới vòm trời bao trùm các nẻo đường quê hương hay nơi góc biển chân trời xa xôi đâu đó, người Việt luôn quan tâm đến và theo dõi những diễn tiến liên quan đến vấn đề tranh chấp quan trọng này.
Trong tinh thần và suy tư đó, người viết, dù tự biết là kiến thức thô thiển, cũng xin mời quý vị cùng tìm hiểu sự kiện và suy luận về bản chất, nguyên nhân, và hệ lụy của cuộc “thương chiển” này.
Văn hóa bị điều kiện hóa bởi lịch sử, hay hoa mỹ hơn, lịch sử của một dân tộc là một dòng nước luân lưu đẩy đưa chiếc nôi văn hóa của dân tộc đó. Do đó, khởi điểm của hành trình này là tìm hiểu về cách hành xử, hay văn hóa, của hai dân tộc, Mỹ và TC.
TC có một lịch sử dài và một nền văn minh lâu đời. Do đó, chúng ta sẽ tìm hiểu các biến cố lịch sử quan trọng ảnh hưởng đến tư duy và cách hành xử của TC, nhất là trong lãnh vực phát triển kinh tế.
Dưới cái nhìn và luận thuyết của sử gia Thucydides, cuộc tranh chấp Mỹ-Trung hiện nay xảy ra là do kết quả của sự đồng quy hay mức độ tăng trưởng không đồng đều giữa hai nền kinh tế của hai quốc gia. Sau một thế kỷ bị hạ nhục theo quan điểm của Bắc Kinh và gần 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và Mao Trạch Đông (Mao Zedong), xã hội TC vô cùng lạc hậu về mọi mặt, kể cả kinh tế; trước khi cải tổ.
Dù sự tranh chấp Mỹ-Trung khởi đầu bằng một công cụ trong lãnh vực ngoại thương, và truyền thông cho đây chỉ là một cuộc thương chiến và chiến tranh mậu dịch sẽ không có bên thắng mà chỉ có kẻ thua nhiều người thiệt ít mà thôi. Nhưng thực chất, đây là cuộc tranh giành bá quyền cổ điển của TC để thiết lập một trật tự thế giới mới (Pax Sinica) nên sẽ rất trường kỳ và nguy hiểm, còn có thể là bẫy Thucydides. Do đó, cụm từ “Mậu Dịch” trong tựa đề của những dòng biên khảo này được đặt trong ngoặc kép.
Tổng Thống Nixon, đi vào lịch sử Mỹ với vết nhơ của vụ Watergate, là vị tổng thống duy nhất của Mỹ phải từ chức để tránh bị bãi nhiệm. Tuy nhiên, không mấy ai có thể phủ nhận khả năng, kiến thức và viễn kiến của TT Nixon trong việc hoạch định và thực thi chính sách ngoai giao của Mỹ. Do đó, tiếp theo chúng ta tìm hiểu quan điểm của TT Nixon khi ông thiết lập bang giao với TC.
Các cơn hậu chấn chính trị của vụ Watergate gây quá trình thiết lập bang giao Mỹ-Trung bị đình trệ cho đến khi TT Carter chính thức thiết lập bang giao Mỹ-Trung, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1979.
Để lèo lái TC trong bối cảnh mới, Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) cùng với Trần Vân (Chen Yun) và Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang) triển khai chính sách cải cách và mở cửa TC: Tứ Đại Cải Cách (TĐCC). TĐCC là mô hình phát triển tập trung vào bốn lãnh vực quan trọng của quốc gia. Đó là: canh nông, kỹ nghệ, khoa học và kỹ thuật, và quốc phòng. Thật ra, mô hình này dựa theo kế sách mà Thủ Tướng Chu Ân Lai (Zhou Enlai) phác họa và trình bày tại Quốc Hội Nhân Dân Thứ Tư, ngày 13 tháng 1 năm 1975. Nhưng lúc đó cuộc cách mạng văn hóa còn đang sôi động, nên bị Mao Trạch Đông bác bỏ.
Về phương diện kinh tế, TĐCC nhằm vào thay đổi đối tượng: (i) từ nền kinh tế trung ương hoạch định sang nền kinh tế “chim bị nhốt trong lồng (nền kinh tế thị trường trong định hướng của xã hội chủ nghĩa)”, (ii) từ nền kinh tế đóng kín sang nền kinh tế mở, và (iii) từ phát triển canh nông sang phát triển công nghệ. Đây là mốc quan trọng làm thay đổi TC, trở thành cường quốc kinh tế như ngày nay.
Phát minh khoa học và kỹ thuật, phát minh ra cái gì mới (technological inventions), chỉ là điều kiện cần, còn cải tiến khoa học và kỹ thuật (technological innovations) mới là điều kiện đủ cho công trình phát triển kinh tế đưa đến sự giàu mạnh của một quốc gia.
Cải tiến khoa học và kỹ thuật khác biệt với phát minh khoa học kỹ thuật ở chỗ phát minh khoa học kỹ thuật là phát minh ra cái mới. Cải tiến khoa học và kỹ thuật đòi hỏi phát minh ra cái mới và ít nhất một quá trình dùng cái phát minh này để tạo ra một cái gì có giá trị.
Tuy nhiên, văn dĩ phương Tây “không tải đạo” tại phương Đông, nhất là theo văn hóa của TC. Theo Tây Phương thì cải tiến khoa học và kỹ thuật cần phải có một cái gì đó mới lạ và chưa từng được ứng dụng tại bất cứ nơi nào: cải tiến khoa học và kỹ thuật phải “mới đối với thế giới (new to the world)”. Trong khi đó, cải tiến khoa học và kỹ thuật, trong văn hóa thời thượng của TC, chỉ cần “mới đối với thị trường (new to the market)”, hoặc “mới đối với một tổ chức (new to an organization)”. Đồng thời, TC đã là một quốc gia với trình độ kỹ thuật hảo hạng so với các quốc gia Tây Phương trong nhiều thiên niên kỷ của thời vàng son xa xôi trong quá khứ của họ. Do đó, cuộc hành trình của chúng ta sẽ mất đi rất nhiều thú vị, nếu chúng ta không tìm hiểu kết quả của sự “văn dĩ bất tải đạo” này, cũng như nhận định về khả năng phát minh khoa học và kỹ thuật của TC trong lộ trình thay đổi đối tượng từ phát triển canh nông sang phát triển công nghệ của TĐCC. Đáp án của nghi vấn này là một yếu tố quan trọng trong các yếu tố quyết định cách mà cuộc tranh giành bá quyền kết thúc.
Một câu hỏi có vẻ định mệnh là sự trổi dậy không những về mặt kinh tế mà cả trong các lãnh vực khác như chính trị, quân sự, ngoại giao, và thái độ trịch thượng mà TC phô trương dựa vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của mình đã được nhiều học giả và truyền thông tranh cãi trong nhiều năm qua: tại sao cuộc xung đột Mỹ-Trung cho đến gần đây mới xảy ra? Để giải thích phần nào vấn đề nầy, chúng ta sẽ dựa vào lý “thuyết độc bá quyền ổn định” và sự vận hành cuả xã hội Mỹ.
Kinh tế luôn mang màu sắc chính trị, và cuộc thương chiến Mỹ-Trung sẽ tô đậm nét sắc màu này hơn. Thucydides cho rằng cuộc chiến trường kỳ và đẫm máu giữa Athens, quê hương của ông, và Sparta, một xứ sở quân phiệt, là do Athens tăng trưởng nhanh hơn Sparta. Và, danh từ thời thượng được Giáo Sư Graham Allison (2017) của đại học Harvard sáng tạo để mô tả sự liên quan giữa tăng trưởng kinh tế và xung đột chính trị là “bẫy Thucydides (The Thucydides’ Trap)”. Đồng thời, nghiên cứu 16 biến cố tương tự hay có cùng bối cảnh của bẫy Thucydides trong 500 năm qua, Giáo Sư Graham Allison kết luận rằng 12 trong số 16 trường hợp mà ông nghiên cứu đã dẫn đến chiến tranh vũ lực.
Trong quá trình TĐCC, nền kinh tế TC đạt được một mức độ đồng quy khá nhanh. Nhờ vào sự đồng quy nhanh và áp dụng tiến bộ kỹ thuật dân sự vào lãnh vực quốc phòng, TC đã xây dựng được một quân đội hiện đại. TC đang có cuộc chạy đua về hiện đại hóa quân sự để mong theo kịp Mỹ. Trong tương quan lực lượng giữa Mỹ và Trung Cộng, liệu một sự đụng độ quân sự có khả năng xảy ra hay không?
Đối với VN, một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất, chẳng những về kinh tế, mà cả chính trị, ngoại giao và an ninh. Cuộc thương chiến này, dù còn tiếp diễn hay sẽ chấm dứt như thế nào, đều đem đến cho VN một số thử thách lớn, nhưng đồng thời cũng có một số lợi thế, ít nhất trong ngắn hạn. VN phải dự phóng một vài cảnh huống cho sự kết thúc của cuộc đối đầu Mỹ-Trung hôm nay.
Phát triển kinh tế là chất liệu cần thiết để kiến tạo xã hội và cải thiện mức sống của người dân, mà phát triển kinh tế phải có khởi điểm. Do đó, mức độ của quá trình hội nhập, vị thế và tương quan kinh tế, cả tích cực lẫn tiêu cực, đặc biệt của VN đối với thế giới cũng như đối với hai phe tham chiến hiện nay sẽ phải được duyệt qua.
Quá trình hội nhập toàn cầu của VN đến nay đã hơn 30 tuổi và trong quá trình đó VN đã ký rất nhiều thương ước với hầu hết các nền kinh tế quan trọng trên toàn cầu, cả song phương lẫn đa phương. Qua các hiệp thương này, hoạt động kinh tế VN đã quấn quyện chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới.
Do đó, thay đổi mức độ tương đối của các biến số kinh tế vĩ mô như thu nhập, lạm phát, lãi suất, và can thiệp của chính quyền trong nền kinh tế của quốc gia đối tác sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế tại VN, và ngược lại.
Phương tiện hay ngã chuyển tải ảnh hưởng giao thoa của những thay đổi trong các biến số kinh tế vĩ mô này giữa bất kỳ hai nền kinh tế nào là thị trường ngoại hối của đơn vị tiền tệ của hai nền kinh tế đó; đồng bạc VN và đồng Mỹ kim chẳng hạn. Thị trường ngoại hối cũng là nơi mà ngân hàng trung ương của một quốc gia có thể thực hiện hành vi thao túng tiền tệ. Để giải thích các ảnh hưởng giao thoa này, cũng như tác nghiệp thao túng tiền tệ, một tóm lược về bản chất và lối vận hành của thị trường ngoại hối sẽ được trình bày.
Trong khi đó, nghiên cứu trải nghiệm thực tiễn cho thấy tại các nền kinh tế đang chuyển đổi (transitional economies), như nền kinh tế VN, là gia tăng số lượng tích lũy của FDI (Foreign Direct Investment) vào nền kinh tế, hay mức thâm nhập FDI, đo lường bằng tỷ số tích lũy FDI trên GDP, không đương nhiên đưa đến phát triển kinh tế. Ngược lại, FDI còn có thể mang đến kết quả tiêu cực, vì ảnh hưởng của FDI trên nền kinh tế tùy thuộc vào điều kiện và hạ tầng cơ sở của nền kinh tế tiếp nhận (host economy). Hạ tầng cơ sở bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn trong, các lãnh vực sau đây của nền kinh tế tiếp nhận: hệ thống luật pháp, khả năng quy định và kiểm soát độ an toàn của cơ sở về mọi mặt như tài chính, kỹ thuật, xã hội, môi trường v.v...
Điểm quan trọng nhất trong chương trình đổi mới của VN năm 1986 là chuyển đổi từ mô hình “Kinh tế trung ương hoạch định” sang mô hình “Kinh tế Thị trường theo Định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Ngày nay nghiên cứu phương cách mà chính quyền VN dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản hành xử, gợi lại câu nói bất hủ của cố TT Nguyễn Văn Thiệu, “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm.”
Khẩu hiệu “Kinh tế Thị trường theo Định hướng Xã hội Chủ Nghĩa” có hai phần là “Kinh tế thị trường” và “theo Định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Về phần “kinh tế thị trường”, chính quyền Cộng Sản Việt Nam (CSVN) thực hiện theo bản tính cố hữu là lấy “vải thưa che mắt thánh”. Bằng chứng là VN đã nhiều lần xin các đối tác ngoại thương công nhận là nền kinh tế VN thật là nền kinh tế thị trường; nhưng cho đến ngày nay, mọi yêu cầu đều bị khước từ. Không những thế, các đối tác xác quyết rằng VN thật sự không có nền kinh tế thị trường.
Trong khi đó, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cả quốc nội lẫn quốc tế, cho đến vài năm qua, đã tạo một môi trường cho phép lãnh đạo đảng và nhà nước VN độc quyền tự do thao túng, chiếm đoạt, ăn chia, và làm giàu. Và, từ đó các người cộng sản hình thành một văn hóa kinh tế và kinh doanh của phần “theo định hướng của xã hội chủ nghĩa” trong chính sách kinh tế thị trường mà đảng cộng sản và chính phủ VN thực thi trong nhiều thập niên qua.
Do được điều kiện hóa trong một văn hóa, môi trường kinh tế và kinh doanh của phần “theo định hướng của xã hội chủ nghĩa - bao gồm cả chính sách công hữu” trong chính sách kinh tế thị trường của đảng cộng sản và chính phủ VN trong nhiều thập niên qua, nên trong quá trình hội nhập hơn 30 năm qua, cấp lãnh đạo VN đã không thể mà cũng không cần kiến tạo “một xã hội công bằng, một nhà nước có trách nhiệm, và minh bạch”. Thay vào đó họ phát minh ra một mô hình phát triển kinh tế mới có thể gọi là mô hình “hướng tôi, kê tính, và chọn đối tác để phát triển .”
Mô hình này với chính sách công sản dưới chế độ độc đảng là môi trường hun đúc cho nhiều hình thức tham nhũng dưới dạng lạm quyền cưỡng đoạt đất đai cũng như các hình thức bòn rút bao gồm cả hành tung cố ý làm sai để có cơ hội tham nhũng của lãnh đạo.
Điểm vô cùng quan trọng là thiệt hại kinh tế của tham nhũng cho nền kinh tế quốc gia to lớn gấp nhiều lần so với số lượng các tham quan cướp giựt để ăn chia vì tham nhũng sẽ đưa đến nhiều vấn nạn khác.
Phương cách để giải thích sự nguy hại kinh tế tiềm ẩn ngút trời này là liệt kê và phân tích các phương cách mà các đảng viên cao cấp được đảng điều động đi quản trị các đại xí nghiệp quốc doanh bòn rút hay tạo cơ hội để bòn rút từ ngân sách hay từ người dân để phơi bày hệ quả nghiêm trọng của những vấn đề tham nhũng như: lạm quyền chiếm đất, đàn áp nhân quyền, v.v…
Cũng từ tư duy hướng tôi, kê tính, và chọn đối tác để phát triển mà lực lượng lao động tại mỗi cấp đều không được phối trí hữu hiệu. Mô hình phối trí lao động cấp lãnh đạo cho mọi tầng lớp tại VN là dựa theo nguyên tắc kẻ được chống lưng đi vơ vét đề làm giàu và chia với nhóm quyền lực chống lưng trong phe nhóm của mình để bảo toàn quyền lợi và quyền lực của nhóm. Trong khi đó thành phần lao động phải “mua” việc. Phương thức phối trí lực lượng lao động này hoàn toàn ngược lại với lý thuyết phân phối lực lượng lao động tối ưu trong kinh tế vi mô. Và lý thuyết này sẽ được trình bày như là một phản biện phương thức phân công để bảo toàn phe nhóm tại VN.
Mặt khác, Tổng Liên Đoàn Lao Động VN (TLĐLĐVN) hiện nay là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) mà MTTQ là một cơ sở ngoại vi của đảng cộng sản. TLĐLĐVN mang sứ mệnh của một tổ chức chính trị-xã hội của đảng; do đó, TLĐLĐVN đóng vai trò “cầu nối” giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm nỗ lực xây dựng “quan hệ lao động hài hòa”, đảm bảo thực hiện cả mục tiêu về việc làm và sản xuất? Vì vậy, đình công bị xem là không tạo dựng môi trường ổn định để phát triển đất nước.
Hơn nữa, mọi hoạt động của công đoàn, kể cả thương lượng tập thể, đều thực hiện theo cách “xin-cho” trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, mà không dựa vào tình đoàn kết người lao động để tạo thế cân bằng về sức mạnh, cũng như không sử dụng quyền đình công để hỗ trợ cho thương lượng.
Do đó, hiện nay VN không có công đoàn độc lập; tuy nhiên, theo quy định trong EU-VFTA, VN phải cải sửa luật lao động cho phép lực lượng lao động được thành lập công đoàn tự do và được bảo vệ quyền lợi như được quy định bởi Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (International Labor Organization-ILO) vào năm 2023.
Nợ công (sovereign debts) là tích lũy cả vốn lẫn lời của các khoản vay mượn của chính quyền để bù đắp ngân sách khiếm hụt hay vay mượn của các tổ chức khác được chính quyền bảo đảm mà chưa được hoàn trả. Do nhiều lý do khác nhau, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế lớn trên thế giới ngày nay đều hoạt động với ngân sách khiếm hụt, mặc dù cán cân mậu dịch ngoại thương có thể thặng dư; như TC chẳng hạn.
Tuy nhiên, ngoài những nguyên nhân hợp lý của sự khiếm hụt ngân sách như giải quyết nạn thất nghiệp hay cứu trợ các tai họa như thiên tai, đại dịch, khủng hoảng kinh tế; thiếu hụt ngân sách…, chính quyền CSVN còn có các nguyên nhân vô lý khác sau đây:
- Tham nhũng có hệ thống làm thất thu ngân sách và gia tăng chi phí đầu tư cùng chi phí điều hành của những dự án đầu tư của chính phủ.
- Phối trí lực lượng lao động không hữu hiệu làm giảm GDP đưa đến thất thu ngân sách.
- Ngân sách quốc gia phải tài trợ đầy đủ cho nhân viên, văn phòng và các hoạt động của của các tổ chức sau đây của đảng cộng sản: (a) ban chấp hành trung ương đảng với hơn 5 triệu đảng viên; (b) các văn phòng ở cấp tỉnh, thành phố, huyện và thôn (VN có 58 tỉnh và 5 thành phố lớn thuộc trung ương); (c) các ủy ban trung ương đặc biệt như: Ủy Ban Đối Ngoại Trung Ương, Ủy Ban Kinh Tế Trung Ương, Quân Ủy Trung Ương, Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương, và Ủy Ban Phổ Biến và Giáo Dục, tất cả đều có chức năng tương tự như các bộ tương ứng trong chính phủ; và (iv) các tổ chức ngoại vi của đảng, đặc biệt là Mặt Trận Tổ Quốc VN, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, Hội Phụ Nữ VN, Hội Cựu Chiến Binh, Hội Nông Dân và Tổng Liên Đoàn Lao Động VN.
Cũng như những khoản nợ khác, nợ công cũng có ngày đáo hạn và ảnh hưởng của sự vay mượn và thanh toán nợ công khá phức tạp. Do đó, sơ lược của lý thuyết kinh tế vĩ mô về ảnh hưởng đến nền kinh tế của tác nghiệp vay/trả của nợ công sẽ được trình bày để giải thích ảnh hưởng nợ công trên nền kinh tế.
Sau cùng, tương lai là sự nối tiếp của phần nào đó của ngày qua và những gì đang xảy ra ngày nay. Đồng thời, để hình dung một bức tranh, dù chỉ khiêm nhường là một bức tranh thủy mạc về VN trong những tháng năm tới thì thực tại hay cái “Đây” hiện tại của VN cần phải xác định. Tổng quan hay tóm lược của những thay đổi và biến động, đã và đang xảy ra, trong cộng đồng thế giới cũng như tại VN nhất là khởi đầu và diễn biến của cuộc thương chiến Mỹ-Trung, sẽ giúp nhận diện cái “Đây” hiện tại của VN là “Đâu”.
Cái “Đây” hiện tại của VN cho thấy vì các nguyên do di truyền của chủ thuyết cộng sản, tham nhũng tại VN bất trị. Thêm vào đó, các vấn đề dân quyền, nhân quyền, và công đoàn độc lập đặt Tổng Bí Thư (TBT) Nguyễn Phú Trọng và giới lãnh đạo của đảng CSVN trước hai lối rẽ. Trên bất cứ lối rẽ nào quyền lợi cũng như sự trường tồn của đảng cộng sản trong hình trạng và với quyền lực hiện nay và mức độ cải thiện của phúc lợi của dân tộc Việt luôn biến nghịch chiều.
Nếu để được tiếp tục hội nhập vào cộng đồng thế giới thì phải tôn trọng dân quyền, nhân quyền, tự do ngôn luận, công đoàn độc lập và những cải sửa khác như VN đã cam kết. Kết quả là quyền tự do ngôn luận sẽ giúp phơi bày những hành vi tham nhũng và sai trái của đảng cũng như những hành vi từ chủ thuyết “hướng tôi, kê tính, và chọn đối tác để phát triển” của viên chức chính quyền. Công nhân sẽ có công đoàn độc lập yểm trợ cùng với những thành phần bị đàn áp hay bị lợi dụng sẽ đứng lên đòi quyền lợi chính đáng của họ. Kết quả là quyền lực của đảng cộng sản sẽ bị xói mòn, tạo bất ổn chính trị, điều mà người cộng sản rất lo ngại vì nó có thể đe dọa sự hiện hữu và tồn tại của đảng trong hình trạng và với quyền lực ngày nay. Trong khi đó, phúc lợi về nhiều mặt của gần 100 triệu (97.338.579 người vào cuối năm 2020) người Việt sẽ được cải thiện.
Ngược lại, để bảo vệ quyền lực của đảng, và cũng có lẽ đây là một trong các lý do mà Nguyễn Phú Trọng vẫn lưu lại chức vụ TBT. Đảng CSVN sẽ không tôn trọng dân quyền, nhân quyền, tự do ngôn luận, và công đoàn độc lập; thắt chặt tự do báo chí; và tiếp tục đàn áp các cuộc đứng lên tranh đấu cho quyền lợi chính đáng của người dân và công nhân. Hệ quả là các sửa đổi cần thiết khác để phát triển kinh tế và gia tăng phúc lợi xã hội cho người Việt sẽ không thể thực thi. VN sẽ bị cộng đồng thế giợi lên án vì vi phạm nhân quyền và Hiệp Định Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership, CPTPP) và EU-VFTA có thể sẽ bị đình chỉ, vì VN đã không tuân thủ những điều họ cam kết trong các hiệp thương của thế hệ thứ hai này. Đây không phải là một quy định nêu ra lấy lệ. Ngày 20 tháng 5 năm 2021, Nghị Viện Liên Hiệp Châu Âu đã quyết định đình chỉ quá trình phê chuẩn Hiệp Định Đối TácToàn Diện Về Đầu Tư giữa Liên Âu và TC.
Điều này cũng sẽ xói mòn khả năng độc quyền chính trị của đảng và mất đi sự trung thành của nhóm lợi ích khi cơ hội cho “hướng tôi, kê tính, và chọn đối tác để phát triển” không còn nữa. Trong khi đó, VN sẽ khó tránh bị nhiễm bệnh Hòa Lan, bị sập bẫy thu nhập trung-bình, thậm chí còn có thể lâm vào vấn nạn là nguồn cung cấp thực phẩm quốc nội không đủ để nuôi sống dân, vấn nạn còn được gọi là “bị rơi vào bẫy Malthus”.
Do đó, có lẽ người dân VN cần chuẩn bị đứng lên để nhắc nhở đảng CSVN về sức mạnh của thành phần cơ cực và đang bị lợi dụng, nếu họ không chọn đúng ngã rẽ. Đồng thời cũng để nhắc nhở cộng đồng thế giới rằng đảng CSVN không đại diện cho người Việt và cũng không phải là nước VN.
Trong khi quyền lực của đảng cộng sản sẽ bị xói mòn, chính sách của chính quyền CSVN trong gần ba phần tư thế kỷ qua đã đưa đến:
- Tình trạng “tự diễn biến” vô cùng phức tạp, với nhiều mức độ khác nhau, và dàn trải trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội.
- Ngoài thành phần bất đồng chính kiến, ngay cả một số các đảng viên kỳ cựu, đã công khai bày tỏ sự bất bình và đứng lên tranh đấu cho dân quyền và nhân quyền, còn một thành phần bất đồng chính kiến nhưng chưa công khai tuyên bố tư duy của mình.
Kuran (1989) nghiên cứu các cuộc cách mạng chính trị thế giới trong các quốc gia dưới thể chế độc tài và chỉ ra rằng nếu nhìn lại thì một số những cuộc cách mạng này lẽ ra phải không có điều gì đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, kết quả lại gây ngạc nhiên cho rất nhiều nhà lãnh đạo, người tham gia, nạn nhân và quan sát viên thế giới.
Để giải thích các biến cố chính trị thế giới này Kuran (1987-a, 1987-b, 1989) triển khai lý thuyết che giấu tư duy (preference falsification) dựa trên luận cứ rằng do sự đàn áp của các chế độ độc tài các nhà bất đồng chính kiến nhưng chưa công khai tuyên bố tư duy của mình cố che dấu tư duy thật của mình cẩn mật nên không có thể uớc lượng sức mạnh của thàmh phần này với mức độ chính xác khả tín.
Tuy nhiên, thay đổi điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và chính sách điều hành quốc gia trong nước và với tầm cỡ nào đó các điều kiện này trên thế giới có thể làm cho một số người trong thành phần của các nhà bất đồng chính kiến duy lý, âm thầm, công khai tuyên bố tư duy bất đồng chính kiến của mình, hay đứng lên tranh đấu.
Điều này có thể đẩy tỷ số giữa số người trong thành phần của các nhà bất đồng chính kiến đã tuyên bố nơi công cộng tư duy bất đồng chính kiến của mình, hay đứng lên tranh đấu và dân số vượt túc số khuynh đảo hay điểm sôi, đưa đến cuộc cách mạng chính trị một cách đột biến. Sự thay đổi hành vi của chính quyền hay biến cố này là một đốm lửa nhỏ có thể làm cả cánh đồng bốc cháy trong trong lý thuyết che giấu hay giả mạo tư duy mà Kuran triển khai.
Điều kiện xã hội, chính trị, và kinh tế tại Việt Nam cũng như trên thế giới sẽ thay đổi nhanh chóng và có thể bất thường. Để thỏa mãn sự hiếu kỳ và tìm xem lý thuyết tương đối mới này có giúp gì trong cố gắng dự phóng những thay đổi trong những tháng năm tới tại VN, lý thuyết che giấu tư duy sẽ được tóm lược trong phần đầu của chương cuối của những dòng biên khảo này.
Ước mong là những thay đổi dự phóng về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và chính sách điều hành quốc gia trong nước và với tầm cỡ nào đó theo các điều kiện này trên thế giới, cuộc thương chiến Mỹ-Trung, và qua lăng kính của lý thuyết che giấu tư duy hé một tia hy vọng là người Việt có một cơ hội tái định hình Việt Nam.
Để xây dựng một đất nước mới thích nghi với các yếu tố địa lý chính trị của nước nhà, định hình cho một quốc gia bao gồm: (i) định hình của thể chế công quyền trong quốc nội, (ii) vị thế của quốc gia hay chính sách ngoại giao trên diễn đàn quốc tế, (iii) chính sách kinh tế thích nghi; và cả ba lãnh vực này phải được hổ trợ bởi một hệ thống giáo dục đồng hành hữu hiệu. Cũng vì các yếu tố địa lý chính trị của VN, Phần Lan Hóa có thể là chính sách ngoại giao sẽ được đề nghị cho VN; tuy nhiên, đây lại là một chính sách mà ít khi được nhắc đến nên nguyên nhân và quá trình hình thành của thể chế này sẽ được lượt qua.
Trong niềm hy vọng đó và chỉ là một đôi điều để hướng về tương lai nếu chúng ta duyệt qua các vấn đề thiết yếu trong quá trình định hình cho một quốc gia nếu cơ hội này đến với VN. Bởi sự giao thoa, hỗ tương và cộng hưởng của thể chế, chính sách ngoại giao, kinh tế, và giáo dục đồng hành hữu hiệu sẽ quyết định tương lai và phúc lợi của dân tộc.
Nguyễn Văn Chữ - Nguyễn Phi Hiệp - Nguyễn Bá Lộc
No comments:
Post a Comment