Sự Hâm
Nóng Toàn Cầu
Hiện
tượng Duy Lý, Duy Tâm, và Duy Ngã
Hiện
tượng Hâm nóng toàn cầu đã được toàn thế giới cùng đặt vấn đề qua Hội nghị Thượng
đỉnh Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1992. Nhưng mãi đến năm 1997, Nghị định thư
Kyoto mới được các quốc gia đồng ý trên nguyên tắc là cần phải giảm thiểu từ 5
đến 10% mức phát thải khí carbonic CO2 so với định mức phát thải của
năm 1990 cho từng quốc gia cho đến năm 2012. Các quốc gia đang phát triển như
Trung Cộng, Ấn Độ, Ba Tây, Nam Dương v.v…đều được miễn trừ đối với nghị định
thư nầy.
Theo quy định, quốc hội của
các quốc gia cần phải chấp thuận các điều luật trong Nghị định thư (NĐT) trước
khi NĐT được chánh thức trở thành luật. Hoa Kỳ, với sự phân công chịu trách nhiệm
của 27% tổng số lượng khí phát thải toàn cầu, không đồng ý với quyết định của
NĐT Kyoto, cho nên không ký cũng như quy trách sự bất công qua việc miễn trừ 2
quốc gia Trung Cộng, với mức phát thải CO2 thời bấy giờ (1997) là
12%, và Ấn Độ (8%) trên tổng lượng CO2 phát thải trên thế giới.
Úc Châu cũng phản đối không chịu
ký, nhưng sau cùng vào năm 2004, chấp nhận quy định của NĐT Kyoto, và nghị định
nầy có được trên 50% quốc gia chịu trách nhiệm chấp thuận. Do đó, vào tháng giêng
năm 2005, NĐT Kyoto đã biến thành luật.
Nhưng, năm 2012 đã gần kề, chỉ
có một vài quốc gia áp dụng và thi hành luật trên như Anh và Đức…Pháp có cố gắng
giảm thiểu nhưng vẫn không đạt được mức yêu cầu.
Có thể nói, Nghị định thư và
Luật Kyoto đã thất bại vì cho đến năm 2009, TC đã phát thải hàng năm là 6,6 tỷ
tấn CO2 (2008), đứng trên Hoa Kỳ với 6,3 tỷ (2008), và Ấn Độ đứng hàng thứ tư với
1,4 tỷ. TQ và Ấn Độ là hai quốc gia được miễn áp dụng Luật Kyoto. (xin đọc các
bài viết liên quan đến sự hâm nóng toàn cầu trên blog maithanhtruyet.blogspot1.com).
Các quốc gia trên thế giới đã
nhận rõ tính cách không hợp lý của Luật Kyoto cho nên đã chuẩn bị nhiều cuộc họp
từ nhiều năm qua, như cuộc họp thượng đỉnh thu hẹp ở Bali, Nam Dương năm 2007,
chuẩn bị cho Thượng Đỉnh Copenhagen vừa diễn ra từ 6 đến 18/12/2009 ở Đan Mạch
vừa qua với mục đích hy vọng đưa ra những quy định mới áp dụng sau khi Luật
Kyoto chấm dứt năm 2012 để áp dụng cho đến năm 2020. Và cuối cùng thượng đỉnh
COP26 (11/2021) lại dự kiến cho năm 2050!
Và, hiện
nay (2020), TC phát thải carbonic hơn 16 tỷ tấn so với Hoa Kỳ 12 tỷ tấn. Trong
lúc đó, TC chỉ sản xuất 17% tổng sản phẩm toàn cầu và Hoa Kỳ, 22%!
Ngay trong Thượng đỉnh
COP26 tại Glasgow, Anh tháng 11 năm ngoái, TC lại tuyên bố tiếp tục khai thác năng
lượng hóa thạch (than đá và dầu hỏa) cho đến năm 2020.
Đó chính là một nghịch lý cho
mọi quyết định giảm thiểu sự phát thải khí carbonic trên thế giới trong thương đỉnh
COP26 vừa qua!
Đến đây người viết chỉ muốn nói
về Thượng đỉnh Khí hầu, dù bắt đầu từ năm 1992 cho đến nay, tất cả chỉ là một sự
“Bắt đầu lại mà thôi - On recommence par le commencement”.
Trước một vấn nạn chung của
toàn cầu, chúng ta học được những bài học gì qua cung cách hành xử của những quốc
gia trên thế giới, từ các đại cường đến những nước nhược tiểu, từ cung cách
phát biểu của các quốc gia Tây phương đến thái độ ứng xử của những nước cộng sản
như TC và Việt Nam qua diễn biến và phản ứng ở những Thượng đỉnh vừa qua.
Hầu hết các quốc gia tham dự
Thượng đỉnh đều đồng ý với nhận định của các khoa học gia là cần phải giảm thiểu
mức phát thải CO2 cho đến năm 2100 của mỗi quốc gia từ 20 đến 40% so
với định mức phát thải năm 1990, nếu không nhiệt độ trên thế giới có thể tăng
lên 20C gây ra nhiều thảm họa cho các quốc gia có độ cao thấp hơn so
với mặt biển như Việt Nam, Bangladesh, vùng New Orleans (Hoa Kỳ) v.v…
Nhưng văn bản ký kết ở các Thượng
đỉnh chỉ là một bản văn mơ hồ, không đưa ra một quy định rõ ràng nào cả, ngoài
một số quy định chung chung về việc khuyến cáo các quốc gia cố gắng tự tiết giảm
trên và giúp đở các quốc gia đang phát triển (TC vẫn được xem như là một quốc
gia đang phát triển trong các thượng đỉnh(?)) trong việc cắt giảm khí CO2
của họ.
Các điểm bất đồng chính yếu vẫn
là:
·
Mức quy định cắt giảm phát thải của các nước
phát triển kỹ nghệ;
·
Trợ giúp các quốc gia đang phát triển trong việc
hạn chế việc phát thải CO2;
·
Biện pháp kiểm soát việc thi hành cắt giảm.
Chính ba bất đồng căn bản trên
đã làm cho Thượng đỉnh đi đến bế tắc. Chỉ có một đồng thuận duy nhứt là Thượng
đỉnh sẽ tiếp tục nhóm họp và thảo luận tiếp sau Thượng đỉnh 2021 tại Glasgow.
Duyệt xét về nguyên nhân nào đưa đến sự bất đồng giữa các quốc gia về
việc phân chia tỷ lệ phát thải cho mỗi nước, qua tiến trình tranh luận ở các Thượng
đỉnh vừa qua, TC và Hoa Kỳ là hai quốc gia gây ra nhiểu tranh cãi nhứt. Và cả
hai đã vô tình hay hữu ý vận động “tranh thủ bè phái” về phía mình: Hoa Kỳ với
nhóm G8, và TC với nhóm quốc gia G77 gồm những quốc gia Á châu, Trung và Nam Mỹ
Châu, cùng Phi Châu. Một nhóm đứng trung dung chờ xem cuộc “tranh thương hổ đấu”
giữa TC và Hoa Kỳ là Nhật Bản, đại diện cho nhóm G27 gồm những quốc gia “chờ”
không nằm trong hai nhóm đầu.
Có thể nói, ba khuynh hướng
trên thể hiện ba hướng suy nghĩ về duy tâm, duy lý, và duy ngã, đề tựa cho bài
viết về Sự biến đổi khí hậu nầy.
1- Hướng
Duy lý
Trước hết, các quốc gia Tây
phương thường có khuynh hướng duy lý, nghĩa là nhận xét, suy luận, phân
tách…mọi vấn đề qua các dữ kiện đã được chứng nghiệm. Từ cung cách duy
lý đó, áp dụng vào tình hình thực tế từng quốc gia một, đôi khi không thể hiện
hết được kết quả suy luận của vấn đề, nhứt là vấn đề có liên quan đến con người
như sự hâm nóng toàn cầu.
Hoa Kỳ có thể nói là đại diện
cho nhóm G7, đã phủ nhận việc phân chia trách nhiệm trong việc phát thải khí
carbonic với lập luận là cần phải xét lại vấn đề tạo ra tỷ lệ sản phẩm vật chất
so với cùng một phát thải. Mặc dù phát thải ít hơn TC, nhưng Hoa Kỳ đã tạo ra 22%
sản phẩm cho thế giới trong lúc đó, TC chỉ sản xuất 17%. Do đó TC phải chịu
trách nhiệm trong việc tiết giảm CO2 nhiều hơn HK đứng về mặt sản phẩm
sản xuất.
Thêm nữa, người Hoa kỳ với
tình thần cá nhân chủ nghĩa, do đó trong tâm thức của mỗi người dân thường
không có tầm nhìn rộng trong sinh hoạt hàng ngày. Họ chỉ biết hưởng thụ những
gì đất nước Hoa Kỳ cung cấp cho họ như điện, nước, năng lượng. mà không nghĩ đến
nguy cơ cạn kiệt năng lượng và nguồn nước trên thế giới. Điển hình là phương tiện
chuyên chở công cộng để giảm thiểu việc phát thải khí carbonic không được phát
triển trên đất nước nầy. Cũng như việc phí phạm nguồn nước tiêu dùng quả thật
không thể chấp nhận được. Trung bình một người Mỹ xài từ 700 đến 1000 lít nước
mỗi ngày tùy theo vùng, trong lúc đó một người Pháp xử dụng dưới 100 lít/ngày
và còn rất nhiều nơi không có được 1 lít cho sinh hoạt hàng ngày như Phi Châu!
Như đã nói ở phần trên, vấn đề
hâm nóng toàn cầu (từ ngữ dùng đầu tiên trong Thượng đỉnh Rio de Janeiro trước
khi đổi sang “Sự biến đổi khí hậu” kể từ sau Thượng đỉnh Paris COP21 năm 2015). đã được trên 100 nguyên
thủ quốc gia chính thức nêu lên và đồng
thuận là cần phải có một giải pháp toàn diện từ năm 1992.
Những đồng thuận căn bản như:
· Trích
0,7% ngân sách quốc gia của những nước giàu để viện trợ cho các quốc gia đang
phát triển;
· Chuyển
đổi công nghệ mới và sạch cùng cung cấp kỹ thuật để giúp họ giải quyết vần đề
môi trường v.v…
Nhưng tất
cả những kết ước trên đều không được tuân thủ vì nhiều lý do liên quan đến kinh
tế quốc gia và chính trị…Chính vì thế mà tình trạng hâm nóng toàn cầu ngày càng
trầm trọng thêm và tỷ lệ phóng thích khí carbonic vào không khí của các quốc
gia đang phát triển cao hơn các quốc gia đã phát triển.
2- Hướng
duy ngã
Mặc dù phân loại nhóm G77 do
TC đại diện không có tính cách tuyệt đối, nhưng TC đã kéo theo một số quốc gia
cực đoan vùng Nam Mỹ và Phi Châu cùng Á Châu. Họ đặt tinh thần quốc gia cực
đoan và suy nghĩ theo cung cách duy ngã, do đó, mọi vấn đề chung của thế
giới đều đi đến chỗ bế tắc như trường họp ở mọi Thượng đỉnh Copenhagen vừa qua.
TC đã lấy một lý do hết sức ấu
trĩ là phải chia lượng khí carbonic phát thải trên dân số của quốc gia.
Nếu tính như thế thì TC phát thải ít hơn nhiều so với Hoa Kỳ. Cách tính nầy
hoàn toàn không hợp lý. Cũng như khi bàn về vấn đề kiểm soát mức khí thải của mỗi
quốc gia do một ủy ban quốc tế kiểm soát, TC không đồng ý và cho rằng làm như
thế là “xâm phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của TC” (trong lúc đó,
đánh bắt, tịch thu tàu đánh cá Việt Nam trong hải phận Việt Nam thì không xâm
phạm chủ quyền quốc gia!).
Những phát biểu trên đã làm
tăng thêm tính cực đoan của Venezuela, Sudan và Tuvalu.
Sudan cho rằng bản đúc kết
chung chỉ là những bản văn có giá trị Holocaust cho Phi Châu. Trong lúc đó, đại
diện Venezuela còn đi xa hơn nữa là tố cáo Copenhagen Accord chỉ là hình thức
do Hoa Kỳ chủ động nhằm chống lại Liên Hiệp Quốc. Tổng thống Chavez tuy không
tham dự Thượng đỉnh, cũng tuyên bố…Đó là một sự gian trá đối với nhân dân thế
giới.
3- Hướng
duy tâm
Thông thường, theo tinh thần
và suy nghĩ chung trên thế giới, người Á Châu chuyên về hướng nội, nghĩa là suy
nghiệm nhiều về nội tâm. Nhưng ngày hôm nay, điều nầy có thể đúng với một số quốc
gia còn giữ nguồn cội gốc, và không còn áp dụng với một số quốc gia khác đang
đeo đuổi một chính sách quản lý đất nước cực đoan và độc tài, điển hình
là TC, Việt Nam và Miến Điện.
Nước Nhật có nền
kinh tế thịnh vượng đứng thứ hai hay thứ ba tùy theo cách tính chỉ sau Hoa Kỳ,
nhưng chỉ phát thải 1,3 tỷ CO2 năm 2008 (gần 5 lần ít hơn so với
TC). Điều nầy chứng tỏ rằng người Nhật đã phát triển quốc gia theo đúng tiến
trình phát triển bền vững ứng hợp với Nghị trình-21 về việc bảo vệ môi trường sống,
tăng trưởng quốc gia và tăng phúc lợi cho người dân.
Chile, một
quốc gia sản xuất đồng (copper) lớn nhứt trên thế giới, mang về cho ngân sách
quốc gia gần phân nửa tổng sản lượng quốc gia. Nhưng lãnh đạo Chile đã biết tự
chế và hạn chế mức sản xuất để bảo vệ môi trường và tài nguyên khoáng sản và phải
điều chỉnh ngân sách quốc gia để thích ứng với việc thiếu hụt trên.
Indonesia, sau
khi nhận định là cần phải cải cách nông nghiệp bằng cách huấn luyện nông dân về
cách trồng lúa, xử dụng thuốc trừ sâu rầy, và phân bón cũng như nâng chính sách
nầy lên tầm quốc gia. Chỉ sau 3 năm thực hiện, chính sách đã đem lại lợi ích là
mức sản xuất lúa tăng thêm và giảm được hàng tỷ Mỹ kim do việc nhập cảng phân
bón và truốc trừ sâu rầy. Nhưng thành quả to lớn nhứt mà Nam Dương đã đạt được
là bảo vệ môi trường sống của xứ nầy.
Còn cung cách phát triển của Ấn
Độ, không chạy theo cung cách ăn xổi ở thì của TC như sản xuất hàng
tiêu dùng nhứt thời theo kiểu “mì ăn liền”, chứ không theo hướng phát triển
kinh tế theo kinh điển của Clarke là giảm thiểu lượng nông dân, nâng tỷ lệ
nhân công công nghiệp, và sau cùng tăng trưởng dịch vụ. Làm như thế Ấn
Độ đã phát triển một cách đều đặn, tuy chậm chạp nhưng bền vững, không gây nguy
hại cho môi trường nhiều.
Bốn quốc gia vừa kể trên đã
theo hướng phát triển lấy tâm lành làm chuẩn, do đó vừa phát triển quốc gia vừa
mang thêm phúc lợi cho người dân và vừa kiểm soát được mức phải thải carbonic,
một vấn nạn chung của thế giới.
4- Kết Luận
Qua những nhận xét và lý giải kể trên,
vấn đề phân công và phân nhiệm cùng việc quy định các lề luật để giảm thiểu sự
hâm nóng tòan cầu qua việc tiết giảm phát thải khí carbonic là một việc làm
thiên nan vạn nan nếu không nói là không thể nào giải quyết được.
Thế giới ngày hôm nay là một
thế giới đa cực, trong đó có nhiều quốc cổ súy tinh thần dân tộc cực đoan gây
ra nhiều xáo trộn cho toàn cầu. Nếu các quốc gia trên áp dụng đúng những chương
trình do Liên Hiệp Quốc đề ra mà chính họ đã thảo luận và ký kết, thế giới sẽ sống
hài hòa theo tinh thần trách nhiệm chung của cộng đồng thế giới.
Rất tiếc, điều nầy không xảy
ra.
Trở qua các Thượng đỉnh từ trước
đến nay, Trung Cộng:
·
Một mặt xưng hùm xưng bá, chứng tỏ ta đây là một
cường quốc, có mặt thường trực trong Hội đồng Bảo an LHQ, có quyền phủ quyết,
có quyền can dự vào mọi chuyện xảy ra trên thế giới.
·
Nhưng trong một mặt khác, về việc bảo vệ môi
trường chung, vẫn “năn nỉ” thế giới để được xếp vào các quốc gia đang phát triển
để được “trợ cấp” trong việc nâng cấp công nghệ và tiết giảm phát thải khí
carbonic. Hai cung cách ứng xử nầy đã làm cho thế giới khinh rẻ!
Trung Cộng có biết chăng,
chính họ đã làm cho môi trường sống của người Tàu ngày càng xấu đi, và có thể
nói người nông dân Trung hoa, ngày càng nghèo hơn, và điều kiện sinh tồn ngày càng
xấu đi. Phát triển của TC hoàn toàn đi ngược lại với tiến trình toàn cầu
hóa ngày hôm nay.
Trở qua Việt Nam, đi phó họp
Thượng đỉnh là để thu thập, rút tỉa kinh nghiệm hầu áp dụng cho việc phát triển
đất nước. Nhưng ngược lại, Việt Nam đã làm một việc cũng xấu hổ như TC đã làm,
thể hiện cung cách “cái bang” trước thế giới bằng cách mang hai “nông dân” vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, nạn nhân (?) của sự hâm nóng toàn cầu ngõ hầu đánh động
lương tâm thế giới để ….xin tiền, ở Thượng đỉnh Copenhague năm nào! (Giống như
mang những người tàn tật và gán cho là nạn nhân của chất độc màu da cam đi
trình diễn khắp nơi cùng nhằm mục đích xin tiền năm 2004 ỡ Mỹ).
Trong lúc đó, ở bình diện khác,
Viêt Nam tự xưng nào là đỉnh cao trí tuệ, nào là thay trời làm mưa, nào là Việt
Nam và Cuba canh giữ hòa bình thế giới, nào là “tôi vừa động viên ông Obama, vừa
phân hóa nội bộ họ…”.
Không biết
ở Việt Nam ngày nay, có còn ai đi bán “cái liêm sỉ” để cải thiện cuộc sống đói
nghèo hay không?
Vấn đề hâm nóng toàn cầu là
trách nhiệm của MỖI người, MỖI quốc gia; do đó tất cả phải cùng chung lưng đâu
cật để giải quyết vấn đề trong chiều hướng toàn cầu hóa. Mọi khuynh hướng dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa bá quyền cần phải chuyển thể, nhường cho lòng bác ái, tương
thân tương trợ nẩy mầm để được xứng đáng làm một “công dân thế giới”.
Phát triển quốc gia cần phải
phát triển trong trách nhiệm toàn cầu chứ không phát triển theo kiểu “tư bản
đang dảy chết”, cũng không phải phát triển nửa mùa như “phát triển tư bản theo
định hướng xã hội chủ nghĩa” …mà cả bộ chính trị của Đảng CSBV cũng không thể
giải thích chính sách phát triển trên như thế nào nữa!
Mai
Thanh Truyết
Mùa Lễ
Lá 2022
No comments:
Post a Comment