Sunday, May 23, 2021

 

Câu chuyện một dòng sông – Phần II

Tình trạng sông Mekong hiện tại

 

1-    Trong quá khứ

 

·       Việc phá rừng trên dòng chính ở thượng nguồn làm đất bị xói mòn hai bên bờ sông, do đó không giữ nước lại trong mùa nước lớn (từ tháng 6 đến tháng 10) để rồi điều tiết trong mùa khô (tháng 12 đến tháng 3) hạn chế một phần nào việc thiếu nước cho đồng bằng ở thời điểm nầy. Rừng là một thảm thực vật thiên nhiên lớn nhứt và hữu hiệu nhứt trong nhiệm vụ điều tiết dòng chảy của sông Mêkong. Rừng qua rễ cây và lớp đất thịt bao phủ sẽ hấp thụ và giữ nước trong mùa mưa, và trong mùa khô sẽ điều tiết và cung cấp nước cho hạ nguồn để tiếp tay với dòng chánh ngăn chặn nước mặn xâm nhập sâu vào ĐBSCL. Đây là một đặc ân của thiên nhiên. Theo thống kê, trước Đệ nhị thế chiến, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam chiếm 43% tổng diện tích, nhưng đến năm 1995, rừng chỉ còn lại 28%, nghĩa là mất trắng 55.000 Km2. Bắt đầu sau đó, với sự trợ giúp của Liên hiệp quốc, việc trồng rừng mới được bắt đầu; tuy nhiên, tính đến năm 2005, tỷ lệ rừng tăng lên đến 32%, trong đó những vùng trồng cao su, trà, cà phê… vẫn được tính toán trong việc “trồng rừng” do đó con số mới tăng. Nhưng thực sự, việc phá rừng vẫn tiếp tục gia tăng với nồng độ phi mã, tính đến năm 2005, rừng nguyên sinh (rừng già) ở Việt Nam chỉ còn 8%.

 

·       Việc phá rừng tràm, rừng đước ở vùng ngập mặn: Tại vùng ĐBSCL, rừng ngập mặn chiếm khoảng 300.000 Km² bao gồm các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Giờ. Nhưng sau hơn 15 năm khai thác việc nuôi tôm, diện tích rừng hiện nay chỉ còn khoảng 200.000 Km², và phần diện tích mất đi đều bị bỏ hoang vì vùng đất nầy bị ô nhiễm sau vài mùa tôm. Chỉ tính riêng cho vùng Cà Mau, trước 1975, rừng ngập mặn chiếm độ 200.000 Km2, mà nay, chỉ còn độ 70.000 km² mà thôi.

Rừng tràm, rừng đước bao bọc tạo thành một vùng ưu đãi của thiên nhiên nhằm:

-         Giữ chân thảm phù sa bồi thêm cho mũi Cà Mau hàng năm trên 1km trong quá khứ (hiện nay, vì thiếu rừng bờ biển vùng nầy ngày càng bị xói mòn ước tính trên dưới 0,5 km/hàng năm); 

-         Vừa ngăn chặn sóng gió, bão nhiệt đới hàng năm;

-         Là vùng trú ẩn và sinh sản cho tôm cá trong thiên nhiên;

-         Rừng ngập mặn cũng là một vùng đệm (buffer) để hạn chế việc nhiễm phèn sulphate và giảm thiểu việc ngập mặn trong mùa khô. (Vào tháng 3/2016, lưu lượng sông Cửu Long chì còn 800 m3/giây ở Tân Châu, do đó, nước mặn đã vào sâu hơn 100Km).

Một khi những nhiệm vụ bảo vệ ĐBSCL do thiên nhiên đã mất đi, nguy cơ làm cho vựa lúa của một vùng rộng lớn ngày càng giảm vừa diện tích, và vừa giảm năng suất. Nhiệm vụ của rừng ngập mặn rất quan trọng;

·       Việc khai thác cát

Hàng năm, hàng chục triệu mét khối cát được khai thác từ hạ lưu sông Mekong, chảy qua Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam.

Một nghiên cứu của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) cho thấy hầu hết các hoạt động khai thác đang diễn ra ở Cambodia và Việt Nam.

Lưu vực ĐBSCL, có hơn 150 mỏ cát, trải rộng trên 8.000 ha (80 km2) bề mặt sông, đã được cấp phép ở 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Theo ước tính cho việc phát triển ở khu vực nầy, phải cần một tỷ mét khối (35,3 tỷ feet khối) cát vào năm 2020 để đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng. Có vài nguồn tin cho biết CSBV ồ ạt khai thác cát trong khoảng 10 năm vừa qua nhắm vào việc cung cấp cát cho TC để …bồi đắp các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa(?)

Tứ giác Long Xuyên

Tứ giác Long Xuyên là một vùng đất hình tứ giác thuộc Vùng đồng bằng sông Cửu Long nằm trên địa phận ba tỉnh thành Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ. Bốn cạnh của tứ giác Long Xuyên là biên giới Việt Nam - Campuchia, vịnh Thái Lan, kênh Cái Sắn và sông Bassac (sông Hậu). Bốn đỉnh góc của tứ giác này ứng với bốn thành phố: Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá và Hà Tiên.

Vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích tự nhiên khoảng 489.000 hecta. Địa hình trũng, tương đối bằng phẳng với độ cao tuyệt đối từ 0,4 đến 2 mét.

Mùa lũ (nước nổi) (từ tháng bảy đến tháng mười hai), vùng này thường ngập trong nước với độ sâu từ 0,5 đến 2,5 mét. Mùa khô, vùng này thường khô hạn và bị nước mặn xâm nhập. Chương trình thủy lợi thoát lũ qua vịnh Thái Lan của Chính phủ Việt Nam đã phần nào giải quyết tình trạng ngập lũ và đất bị nhiễm mặn của vùng này.

·       Việc xây dựng đê bao: Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang chính sách đê bao vào ứng dụng trong việc làm tăng diện tích trồng lúa, trong việc biến “sỏi đá thành cơm”, cho nên người dân ĐBSCL phải gánh chịu hậu quả ngày hôm nay là lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn và không có chu kỳ tương đối cố định như trước kia nữa. Nguyên do là khi dòng chảy từ Mékong xuống khi mùa nước bắt đầu lên cao ở Tân Châu và Châu Đốc, nước sông hoàn toàn di chuyển ra biển, đợi đến khi nước lớn hơn nữa mới bắt đầu làm đầy hai vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.

Nhưng hiện tại, hiện tượng nghịch lý đang xảy ra là, với đê bao, dòng nước của Sông Cửu Long chảy thẳng vào hai vùng trên ngay khi chưa tới mùa nước lớn để khai thác nông nghiệp; do đó, khi mùa nước lớn (nước nổi) đến, một lượng nước khổng lồ sẽ chảy vào hai vùng đã ngập nước từ trước. Hiện tượng ngập lụt xảy ra là vì thế.

 

Cống Trà Sư xả lũ, cung cấp phù sa, góp phần tháo chua, rửa mặn, vệ sinh đồng ruộng cho vùng Tứ giác Long Xuyên.

 

 

Qua nạn lụt vào năm 2000, chúng ta thấy hậu quả của đê bao rõ ràng nhứt trong mùa nước nổi tức mùa lụt. Thiết nghĩ việc xây đê bao chính là nguyên nhân quan trọng nhứt so với những nguyên nhân kể trên. Vì sao? Vụ lụt lớn nầy ở ĐBSCL kéo dài qua tận tháng giêng năm 2001 tại nhiều vùng từ Châu đốc và một vài nơi ở khu Tứ Giác Long Xuyên. Lý do là mỗi địa phương quyết định xây dựng đê bao để che chắn cho khu vực. Thành thử khi nước xuống, nhiều nơi nước còn tồn đọng vì đê bao ngăn chận…làm cho nước không có lối thoát. 

Việc xây dựng đê bao để chuyển vận nguồn nước cho nông nghiệp hoặc chống lụt là một công trình nghiên cứu quan trọng, cần phải mất nhiều năm để tính toán lưu lượng nước cần phải chuyển hướng, đâu phải có thể do quyết định của lãnh đạo địa phương ra lịnh đắp đê chung quanh địa phận xã để tránh ngập lụt và, dĩ nhiên hậu quả tất nhiên là các xã chung quanh phải gánh chịu.

Thí dụ điển hình thứ hai về tại hại của đê bao trong mùa khô tháng 4/2010, một số vùng miền Bắc tỉnh Hậu Giang, vì vấn nạn đê bao, nguồn nước không thể thông thương vào được. Do đó, một số hệ lụy đang xảy ra cho vùng nầy từ mấy năm sau đó như:

-         Vì không có sự luân lưu của nguồn nước cho nên đất ngày càng chai mòn vì dư lượng của phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và nhứt là phù sa không vào được hàng năm như trước kia, vì vậy năng suất lúa không còn như xưa nữa.

-         Đê bao hạn chế nguồn nước, cho nên nhiều nơi nông dân chỉ trồng lúa cho gia đình, phần thời vụ còn lại thì phải trồng hoa màu để kiếm sống.

-         Thời gian thiếu nước kéo dài ra, do đó thu nhập của nông dân ngày càng giảm sút.

Tóm lại, vấn đề đê bao ở vùng ĐBSCL cần phải nghiên cứu lại như một số đề nghị của các chuyên gia nông nghiệp và thổ nhưỡng hiện đang làm việc ở hai Đại học Hậu Giang và Cần Thơ.

Đồng Tháp Mười là tên phần trong lãnh thổ Việt Nam của một vùng đất ngập nước của Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích 697.000 hecta, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp trong đó Long An chiếm hơn phân nửa, thủ phủ vùng là thị xã Kiến Tường.

Đồng Tháp Mười là một đồng lụt kín được bao quanh bởi các giồng đất cao ven biên giới Việt Nam-Campuchia, đê tự nhiên dọc sông Tiền và giồng biển cổ dọc theo  quốc lộ 1A (Tân Hiệp - Nhị Quý, Cai Lậy) và chặn lại bởi sông Vàm Cỏ Đông (Long An).

Đồng Tháp Mười là một cánh đồng rộng lớn, hằng năm bị ngập lụt lối bốn, năm tháng khi nước sông Cửu Long dâng cao. Biển Hồ Tonlé Sap ở Campuchia và Đồng Tháp Mười ở Việt Nam là hai nơi lưu trữ nước thiên nhiên, nên đến mùa nước nổi, sông Cửu Long từ từ dâng cao, sau đó nước sẽ lần lần rút ra biển.

Tuy nhiên, trong mùa đông xuân năm 2016, do dòng chảy rất thấp nên lượng phù sa bồi đắp cho ĐBSCL rất thấp, làm ảnh hưởng đến vụ lúa Đông Xuân. Tính đến hiện tại, số thiệt hại lên đến hơn 200 trăm ngàn hecta lúa bị khô cằn như sự việc đã nêu trên. Bên cạnh đó tình trạng xâm nhập mặn sẽ tăng cao. Dự báo, theo thời gian, hiện tượng ngập mặn đang và sẽ diễn ra sớm hơn, trầm trọng hơn như đã nói ở phần trên. Đợt hạn hán lịch sử đã khiến cho người dân miền Tây trở nên khốn đốn. Theo nhiều chuyên gia, với tốc độ xâm nhập mặn như hiện nay sẽ khiến nông nghiệp tại nơi này bị ảnh hưởng nặng nề trong vòng 3 năm nữa. Và hiện tượng nầy đã xảy ra cho mùa Đông Xuân năm 2020 và 2021.

Cá ở hồ Tonle Sap, Khu dự trữ sinh thái của UNESCO và sông Mekong là nguồn cung cấp 80% protein cho hàng triệu người Campuchia và Việt Nam sống trong vùng. Đồng bằng, “vựa lúa” của Việt Nam và cây trồng nơi đây đang nuôi sống người dân nhiều nước, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.

·       Việc “cắt xé dòng Cửu Long” qua dự án Dự án Luồng: Nhằm chuyển dòng nước chảy ra Cửa Trần Đề (Tranh Đề), xây dựng kinh Tắt cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Chủ đầu tư là Cục Hàng hải Việt Nam. Tổng dự toán trong Báo cáo Nghiên cứu tiền khả thi là 3148,5 tỷ đồng. Tổng kinh phí đầu tư được duyệt là 10319,2 tỷ đồng. Cửa Kênh Tắt là một thành phần của Dự án Luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Dự án này là một câu chuyện dài, khởi đầu năm 2005 đến nay vẫn còn dang dở. Mục tiêu của dự án là:

-       Tàu có trọng tải đến 20.000 tấn sẽ vào đến cảng biển Cần Thơ;  

-       Từ đó, sẽ không phải chi cho nạo vét luồng vì bồi lắng không đáng kể.

Luồng hiện nay gồm có (1) một đoạn luồng sông Hậu trước khi đến Kênh Quan Chánh Bố tại cửa Định An dài 16,2 km; (2) 20 km luồng theo Kênh Quan Chánh Bố kể từ đây: (3) 8,7 km Kênh Tắt đào mới; (4) cửa Kênh Tắt trổ ra Biển Đông và một luồng biển đào tiếp ra đến phao số 0 dài 7,7 km. 16 năm qua rồi, dự án vẫn còn dang dở! Và hai cửa Định An, Trần Đề (Tranh Đề) đang dần dần bị thu hẹp…

 

-       Kênh Tắt được đào mới hoàn toàn, cắt đôi huyện Duyên Hải, cắt đứt QL 53 và ĐT 931, thông ra Biển Đông ở một vị trí mà Cục Hàng Hải Việt Nam được các công ty tư vấn cho là ít bồi lắng nhất dọc theo bờ biển của huyện Duyên Hải, từ xã Trường Long Hòa đến xã Đông Hải. Nơi trổ ra là xóm Mù U, thuộc xã Dân Thành.

-       Đáy Kênh Tắt rộng 85 mét. Bề rộng mặt kênh hiện nay rộng hơn tính toán ban đầu do mái bị sạt lở vì nền đất yếu. Đáy của luồng biển mở rộng dần từ 85 ra 150 mét.

Việc cắt đất đào kinh để tẻ nước sẽ làm đảo lộn dòng chảy của sông Hậu, từ đó có thể hủy hoại cả hệ sinh thái ở hai bên dòng sông và có nguy cơ gây nhiều thiệt hại cho việc canh tác nông nghiệp. Nên nhớ, TC đã cắt đất đào kinh dẫn nước sông Hoàng Hà ở phía Bắc nhằm canh tác vùng Mãn Châu và chính hành động nầy đã chận dòng chảy của sông và sông Hoàng Hà không còn chảy ra biển Bắc Trung Hoa nữa. Và tại Hoa Kỳ, dòng sông Colorado cũng không còn chảy vào vịnh Mexico nữa nữa vì việc chuyển nguồn nước cung cấp cho miền Nam California. Hai hệ lụy hiện tai trước mắt cần cho nhà cầm quyền CSBV đáng suy gẫm vì: - Cửa Bassac đã bị bít kín từ hơn 10 năm qua, - Và hai của Tranh Đề và Định An có khả năng cũng bị bít lại. Và sau cùng dòng Hậu giang cũng sẽ không còn thông thương với biển cả nữa…

2-    Và hiện tại

Nhưng ngày nay, Biển Hồ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, và tất cả những người trú ngụ trong lưu vực sông Mekong đang bị đe dọa bởi sự phát triển các đập thủy điện  trên thượng nguồn. Các mối đe dọa mới lớn hơn nhiều so với bất kỳ trận hạn hán hoặc lũ lụt nào trong lịch sử tồn tại của chính con sông.

Các dự án chuyển hướng và phát triển nguồn nước dọc theo sông Cửu Long và các nhánh của sông không chỉ đe dọa đến đời sống, nghề cá và nông nghiệp của cư dân Đồng bằng mà còn đối với hệ sinh thái sông và Đồng bằng. Các nhà khoa học và kỹ sư trên khắp thế giới đang lo ngại về sự tàn phá môi trường đối với Đồng bằng do các dự án phát triển ở xa thượng nguồn gây ra. Các dự án này bao gồm phát triển thủy điện quy mô lớn ở Vân Nam thuộc TC tức đập Jinghong, và Lào, đập Xayaburi cùng với các dự án chuyển dòng nước sông Mekong lớn do Thái Lan đề xuất.

Tuy nhiên, chi phí kinh tế và hậu quả môi trường của các dự án đang phải gánh chịu nặng nề nhất bởi những người sống và canh tác xa hơn ở hạ lưu Đồng bằng sông Cửu Long. Những người này không có tiếng nói trong quá trình ra quyết định dự án, không thu được lợi ích nào từ các dự án này và chịu gánh nặng lớn nhất về tác động của họ.

Chuông báo động hiện đang vang lên ở Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long (Dân số theo thống kê 2019 ở ĐBSCL là 17.273.630 sống trên một diện tích 40.547 Km2. Mực nước tại trạm quan trắc Tân Châu, vào cuối mùa mưa năm 2010, đã xuống mức kỷ lục 95 năm. Cùng với việc giảm mạnh mực nước sông Mekong là sản lượng khai thác đánh bắt thủy sản cũng giảm tương tự và làm mất đi lượng phù sa sông giàu dinh dưỡng của sông Mekong vốn cần thiết cho canh tác lúa và rất quan trọng để kiểm soát xói mòn. Mực nước ngầm ở đồng bằng hiện đang giảm xuống do thiếu nước sông có sẵn để nạp lại tầng chứa nước. Nước mặn đã xâm thực tới 90 km vào đồng bằng sông Cửu Long ở nhiều nơi (Nhiễm mặn đo đạc ngày 10/3/2021: - Vàm Cỏ Đông và Tây (90Km) – Cửa Tiểu, Cửa Đại (60Km) – Cổ Chiên (75Km) – Sông Hậu (65Km) – Sông Cái lớn (55Km)), đe dọa làm ô nhiễm nguồn cung cấp nước ngầm hiện có và khiến hàng triệu ha đất canh tác không thể sản xuất).

Các dự án chuyển dòng nước và đập thủy điện hiện có và được đề nghị sẽ làm thay đổi vĩnh viễn chu trình thủy văn của lưu vực sông Mekong. Ở thượng nguồn, hàng nghìn km vuông rừng chung quanh đập có thể bị ngập do các hồ chứa. Ở hạ lưu, đất trồng trọt của vùng ngập lũ có thể bị thiếu nước và phù sa màu mỡ do lũ lụt hàng năm cung cấp. Tính từ năm 2010 cho đến 2020, có khoảng 1,3 triệu người đã phải di dời vì hạn hán và nhiễm mặn (tỷ suất di cư 39.9% năm 2019). Mực nước ở hai trạm quan trắc Tân Châu và Châu Đốc đo đạc ngày 1/3/2021 lần lượt là 1,45 m và 1,60 m so với trên dưới 2,50 m vào năm 2010!

3-    Thí dụ điển hình: Tỉnh Bến Tre

Qua bản đồ độ mặn ở tỉnh Bến Tre vào đầu tháng 4/2021, và 3 bản tin dự báo khí tượng của Đài Khí tượng Thủy văn Tỉnh Bến Tre dưới đây, chúng ta có thể hình dung một cách rõ nét tình hình hạn hán và ngập mặn ở tỉnh nầy, một tỉnh miền duyên hải nằm trên dòng chảy của sông Tiền. Mùa mưa thường bắt đầu vào những ngày cuối tháng ba, nhưng những cơn mưa trên cũng không thể nào “đuổi mặn” ra biển cũng như “tẩy bớt mặn” trên các đồng ruộng nơi đây. Hiện tượng nầy cũng tương tự như các tỉnh ven biển như Gò Công, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau v.v…Việc nhiễm mặn, theo bảng dưới đây cho thấy, tháng ba vẫn là tháng nghiệt ngã nhứt cho vụ mùa lúa Đông Xuân hàng năm, từ đó kết quả của ba mùa khô tháng ba năm 2016, 2020, và 2021 đưa đến hậu quả là trên 200.000 mẩu lúa và hoa màu bị chết trắng, chưa kể các cây trồng lâu năm như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm cũng bị đốn bỏ …làm củi chụm lửa!

 

 

Và sau cùng, cũng báo hiệu cho tương lai nông nghiệp của các vùng trên sẽ ngày càng tệ hại thêm lên:

         Đất càng ngày càng thiếu dinh dưỡng tự nhiên;

         Đất sẽ bị khô cằn ra (aridness);

         Đất sẽ bị sa mạc hóa (desertification);

         Và cuối cùng đất sẽ “chết” hẳn, không còn được khai thác nữa!

Chúng ta sẽ hình dung tương lai của những cư dân sống ở các vùng đất kể trên như thế nào!

Và cũng không ngạc nhiên khi tình trạng di dân ngày càng tăng thêm, ước tính trên 1,1 triệu trong khoảng thời gian từ 2010 cho đến 2019. TS Huỳnh Thế Du là giảng viên cao cấp của Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright nhận định:”Quá trình di dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là hợp tự nhiên. 10 năm gần đây, hơn 1,1 triệu dân ở đây đã di dân đi nơi khác (chính yếu là vùng TPHCM). Trung bình mỗi năm 100 nghìn người rởi khỏi kênh rạch miền Tây để tìm cơ hội đổi đời mới, hoàn toàn đáng ủng hộ. Đó là một điều tốt, chứ không có gì bất lợi”. Nhưng đối với văn quá và thói quen của người nông dân, có ai muốn “tha phương cầu thực” nếu không là một sự bắt buộc.

Tương lai hết sức mù mịt cho những người con Việt chất phác sống ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, vùng đã từng được mệnh danh là “vựa lúa của Việt Nam” mang vị trí xuất cảng gạo Việt Nam đứng vào hạng thứ hai trên thế giới.

4-    Lời cuối cay đắng cho một dòng sông

Mặc dù, trong nhiều năm qua, đã có hơn 15.000 người đã ký tên vào lá đơn gửi tới lãnh đạo các nước trong khu vực yêu cầu ngừng các dự án thủy điện để cứu sông Mekong, nhưng mọi dự án xây đập ngay trên dòng chính của Mekong vẫn tiến hành tuần tự trên đất Lào và Cambodia. Lá đơn do tổ chức Liên minh “Save the Mekong” khởi xướng đã được gửi tới thủ tướng các nước Cambodia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, yêu cầu dừng ngay 11 dự án thủy điện tại vùng hạ lưu sông Mekong. Trong đó có 7 đập thủy điện sẽ được xây tại Lào, hai tại vùng biên giới Lào-Thái Lan và hai tại Cambodia. Đâp Xayaburi vừa khánh thành cách đây 2 năm ở Lào (cách Vientiane khoảng 60 Km) do đầu tư của Thái Lan và Trung Cộng nhằm mục đích dẫn nước qua vùng Bắc Thái với 600.000 mẩu đất trồng lúa càng làm cho tình trạng hiếm nước ở hạ lưu như Cambodia và ĐBSCL ngày càng trầm trọng hơn.

         Lý do chính là tuy các công trình thủy điện này sẽ cung cấp điện cho phát triển kinh tế, nhưng chúng có thể gây hại trầm trọng cho môi trường và đa dạng sinh học của dòng sông Mekong, đồng thời ảnh hưởng xấu tới cuộc sống của những người sinh sống nhờ dòng sông Mẹ này.

         Nhà cầm quyền Việt Nam đã nhận nhiều tài trợ của Ngân hàng Thế giới để trồng rừng. Nhưng những khó khăn trong việc nầy là do các vùng đất bị bỏ hoang không khai thác nữa đã có chủ hay được cho TC thuê hàng 50, 70 năm, vì vậy không thể thực hiện lại việc trồng rừng như đúng với ý nghĩa của công việc nầy.

         Một hiện tượng tiêu cực khác nữa là do ý thức của người dân vì không được giải thích tầm quan trọng của sự hiện diện và hữu ích của rừng ngập mặn cho nên nhiều nơi đã được trồng lại nhưng sau đó lại bị phá đi…

         Một yếu tố không nhỏ nữa là do quản lý yếu kém, hiện tượng tham nhũng và ăn chận tiền viện trợ. Chính những điều trên khiến cho việc tái tạo rừng ngập mặn trở thành khó khăn hơn và không thể nào thực hiện được trên thực tế.

Và tại một cuộc họp quốc tế về Mekong, vấn đề hạn hán và ngập mặn cũng được đề cập đến. Nhiều chuyên gia nói hồ chứa ở thượng lưu tham gia giải quyết chuyện hạn hán cho ĐBSCL là tốt và cần thiết. Tuy nhiên, nhận định này không chính xác vì các hồ chứa chỉ cắt được lũ trung bình còn lũ lớn như năm 1991 và 2000 thì không cắt được lũ. Việc làm cho lũ trung bình thành không có lũ là không tốt vì ĐBSCL là vùng cần nước ngập tự nhiên, sống nhờ mùa nước “nổi” (nước lớn), phát triển nhờ “nước ngập tràn bờ”. Vai trò của Biển Hồ là một hồ chứa thiên nhiên đã điều tiết nước cho ĐBSCL vào mùa khô và hạn chế lưu lượng lớn của sông Mekong vào mùa nước nổi, hiện nay không còn hiệu quả nữa.                                

Cũng cần nên biết, lượng phù sa bồi đắp cho ĐBSCL khoảng 150 triệu tấn cho một mùa lũ trung bình. Nếu lũ nhỏ cũng đạt khoảng 100 triệu tấn, riêng tháng 8 -9 (cực điểm của mùa nước nổi hàng năm), lượng phù sa đạt khoảng 60 - 70 triệu.

Các chuyên gia trên khắp thế giới đã xác định rằng nếu một người cướp nước của một con sông và làm thay đổi các chu kỳ tự nhiên của nó, thì con sông đó sẽ chết.

Nghề cá, sự phong phú về nông nghiệp và môi trường của Biển Hồ, và Đồng bằng sông Cửu Long phải được bảo vệ thay mặt cho tất cả người dân Đông Nam Á.

Tóm lại, Hệ sinh thái sông Mekong ngày hôm nay hoàn toàn bị đảo lộn, theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) và Ủy ban sông Mekong, cao độ lòng sông của hai nhánh chính của sông Mekong tại đồng bằng sông Cửu Long đã thấp đi tới 1,4m trong 10 năm tính từ năm 2008, còn nếu tính từ năm 1990 đến nay, cao độ này thấp hơn từ 2-3 m.

Một nghiên cứu được công bố hồi tháng trước, có tên Research in Nature, cho rằng, việc khai thác cát trên một đoạn sông dài 20 km "không bền vững" bởi lượng trầm tích từ thượng nguồn đổ về không đủ để thay thế lượng cát bị lấy đi.

Lưu vực ĐBSCL, có hơn 150 mỏ cát, trải rộng trên 8.000 ha (80 km2) bề mặt sông, đã được cấp phép ở 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Hệ thống cống được thiết kế với mục đích ngăn mặn, thoát lũ ra biển Tây trước đây, giờ chỉ làm nhiệm vụ điều tiết nước và ngăn mặn vào những tháng mùa khô. Việc vận hành đóng mở cống phải đảm bảo giữ được nguồn nước ngọt phục vụ cho sản xuất, ngăn mặn không xâm nhập vào hệ thống sông, kênh mương nội đồng.

 

Sông Mekong - hệ sinh thái ven sông lớn không bị cản trở cuối cùng còn

sót lại trên thế giới cần phải được bảo tồn và an ninh lương thực của

100 triệu người nghèo cần được bảo vệ.

 

Do đó, mọi lời kêu gọi hành động trong lúc nầy là rất cần thiết để bảo vệ hệ sinh thái sông Mekong và người dân của trong vùng, cũng như chuyển đạt các thỉnh nguyện thư đến:

·       Chính phủ Trung Cộng, Thái Lan, Myanmar, Lào, Cambodia và Việt Nam cùng Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) và Ủy hội sông Mekong (MRC).

·       Ngân hàng quốc tế - World Bank – WB.

·       Ngân hàng Phát triển Châu Á – Asian Development Bank – ADB.

·       Các quốc gia tài trợ và các cơ quan viện trợ quốc tế.

·       Các tập đoàn kinh tế và nhà đầu tư đa quốc gia.

Xin xem tiếp Phần III: Những gì cần phải làm

Mai Thanh Truyết

Viết trong những ngày Tháng Tư 2021











No comments:

Post a Comment