Friday, March 7, 2025

Câu chuyện giả tưởng: ”Giả sử Cộng sản Việt Nam hoàn toàn sụp đổ, chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó?” Phần II Đất nước chuyển đổi có thể là cơ hội, nhưng phải có chiến lược thông minh để tránh hỗn loạn như đã phân tích ở Phần I. Trong trường hợp Việt Nam hiện tại, dù muốn dù không, vài trò của quân đội và công an là hai lực lượng cần thiết để "gìn giữ" ổn định xã hội trong giai đoạn chuyển đổi. Vấn đề đặt ra là, công cuộc chuyển đổi ước tính kéo dài trong khoảng thời gian bao lâu là hợp lý để công cuộc quản lý quốc gia “phải” trả lại cho... dân sự? Thời gian quân đội và công an "gìn giữ" ổn định xã hội trước khi trả lại quyền quản lý quốc gia cho dân sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng có thể ước tính dựa trên các trường hợp lịch sử tương tự. Dưới đây là một số kịch bản có thể xảy ra: 1. Chuyển giao nhanh chóng trong vòng 1-2 năm Theo kinh nghiệm chuyển đổi của những quốc gia trên thế giới qua dân chủ đòi hỏi vài điều kiện ưu tiên sau: • Quân đội chỉ tạm thời ổn định tình hình, sau đó nhanh chóng tổ chức bầu cử. • Có một lực lượng chính trị dân sự đủ mạnh để tiếp nhận quyền lực. • Kinh tế và xã hội không quá xáo trộn, không xảy ra biểu tình hay nội chiến. Điển hình là Bồ Đào Nha (1974): Quân đội lật đổ chế độ độc tài, nhưng nhanh chóng tổ chức bầu cử và trao quyền lại cho dân sự trong vòng 1 năm. Tunisia (2011): Sau khi chính quyền độc tài sụp đổ, quân đội chỉ giữ vai trò trung gian trong vài tháng, sau đó tổ chức bầu cử và trao quyền cho chính phủ dân sự. Kịch bản này ít gây xáo trộn, nhưng đòi hỏi phải có sẵn một lực lượng chính trị dân sự mạnh. 2. Quân đội giữ quyền lực trung hạn trong vòng 5-10 năm Nếu lực lượng dân chủ chưa kịp thành hình và chuẩn bị, hoặc chưa có một tổ chức dân sự đủ mạnh để lãnh đạo, quân đội phải tiếp tục duy trì trật tự xã hội. Trong giai đọan nầy, xã hội có nhiều biến động, cần thời gian để viết lại hiến pháp, thiết lập hệ thống chính trị mới. Và sau cùng, quân đội có thể nắm giữ quyền lực, nhưng phải cam kết chuyển giao dần dần có thể kéo dài từ 5 đến 10 năm. Điển hình là: • Chile (1973-1990): Sau cuộc đảo chính, quân đội giữ quyền lực 17 năm, nhưng cuối cùng tổ chức trưng cầu dân ý và chuyển giao cho dân sự. • Myanmar (2011-2021): Quân đội nắm quyền gần 50 năm, sau đó mới mở cửa dần cho dân chủ (nhưng lại đảo chính năm 2021 vì sợ mất quyền lực). • Hàn Quốc (1961-1987): Quân đội nắm quyền 26 năm, sau đó mới chuyển dần sang dân chủ. Cũng cần nên ghi nhận, nếu quá trình kéo dài trên 5 năm, nguy cơ quân đội quen với quyền lực và không muốn rời đi rất cao. 3. Quân đội giữ quyền lâu dài trên 10 năm hoặc vĩnh viễn Trong điều kiện quân đội và công an sau khi nắm quyền lực và trở thành một thế lực chính trị mới, vì tham quyền cố vị, không còn ý định trao trả quyền quản lý lại cho một chính phủ dân sự . Chuyện gì sẽ xảy ra? Kinh nghiệm đau thương của Đệ I Việt Nam Cộng Hòa ngay sau cuộc đảo chánh TT Ngô Đình Diệm, xã hội rơi vào tình trạng bất ổn kéo dài, các phong trào dân sự bị đàn áp. Chánh phủ dân sự được quân đội trao lại lúc đầu, nhưng cuối cùng cũng dành lại, tạo ra sự bất ổn chánh trị suốt thời Đệ II CH. Chính sự bất ổn, xáo trộn nầy là một trong những yếu tố đưa đến ngày mất nước 30/4/1975. Cũng như trong trường hợp Miến Điện – Myanmar, quân đội giữ quyền lực từ năm 1962 đến nay, chỉ có vài thời kỳ "cởi mở" trao quyền lại chánh phủ dân sự của Bà Aung San Suu Ky, nhưng cuối cùng vẫn hoàn toàn kiểm soát chính trị. Trong trường hợp Ai Cập, từ năm 1952 đến nay, quân đội lật đổ chế độ quân chủ, từ đó luôn kiểm soát chính quyền, dù có bầu cử nhưng quyền lực thực sự vẫn thuộc về quân đội. Còn Thái Lan qua nhiều lần đảo chính, mỗi khi chính quyền dân sự yếu kém, quân đội lại can thiệp và cầm quyền, tạo ra chu kỳ "quân sự - dân sự - quân sự". Tóm lại, nếu chánh quyền quân đội/công an kiểm soát đất nước quá lâu, từ 10 năm trở đi… kịch bản này sẽ dẫn quốc gia đến việc mất dân chủ lâu dài, không khác gì một chế độ độc tài mới dù không còn mang tên chuyên chính vô sản nữa. 4- Dự đoán cho Việt Nam từ 3-5 năm là hợp lý Nếu giả sử có một biến động chính trị lớn, quân đội và công an có thể cần 3-5 năm để giữ ổn định trong trường hợp Việt Nam hiện tại. Nhóm nầy có nhiệm vụ viết lại hiến pháp, xác định hệ thống chính trị mới. Để rồi, từ đó khuyến khích việc xây dựng và tập hợp các đảng phái dân sự để có sự lựa chọn cho cử tri. Nếu không thể/không muốn tổ chức bầu cử, và nếu thời kỳ quân quản kéo dài trên 10 năm, chắc chắn sẽ có nguy cơ quân đội không chịu trao trả quyền lực cho dân sự. Vì vậy, nếu có cuộc chuyển đổi diễn ra ở Việt Nam, quân đội và công an nên giữ vai trò "bảo đảm ổn định" trong 3-5 năm, sau đó tổ chức bầu cử và trả lại quyền quản lý cho dân sự để tránh đi vào vết xe đổ của Myanmar hay Thái Lan. 5- Xác suất chuyển đổi ở Việt Nam ước tính được bao nhiêu %? Xác suất một cuộc chuyển đổi quyền lực có kiểm soát ở Việt Nam, trong đó quân đội và công an giữ quyền tạm thời rồi chuyển giao cho dân sự, có thể ước tính dựa trên các yếu tố lịch sử, chính trị và xã hội. Dưới đây là phân tích xác suất cho từng giai đoạn tùy theo thời gian chuyển giao quyền quản lý quốc gia cho dân sự Chuyển giao nhanh từ 1 đến 2 năm: Trong trường hợp Việt Nam, xác suất ước tính từ 10-20%, với điều kiện nếu quân đội và công an chỉ tạm thời duy trì trật tự rồi tổ chức bầu cử nhanh, xã hội ổn định, không có xung đột lớn, và các nhóm lãnh đạo mới đủ khả năng điều hành đất nước ngay lập tức. Sở dĩ xác suất chuyển giao thấp là vì hiện tại Việt Nam chưa có một lực lượng chính trị dân sự mạnh để tiếp nhận quyền lực ngay vì CSBV đã kiểm soát chính trị toàn thề đất nước. Mọi sinh hoạt chính trị, đảng phái đều bị cấm hay bị triệt tiêu hoàn toàn nếu nhà cầm quyền phát hiện được. Trên thực tế và trong điều kiện Việt Nam hiện tại, không cho phép một cuộc chuyển đổi quá nhanh, nguy cơ rơi vào hỗn loạn hoặc quyền lực rơi vào tay các nhóm không có kinh nghiệm quản lý hay được dựng lên từ những thế lực quốc tế. Xác suất xảy ra cũng vào khoảng từ 10 đến 20%. Ý thức dân chủ, nhân quyền của tiểu trẻ việt hiện nay tuy được nâng cao và tương đối phổ quát, nhưng trước sự kiểm soát và hình phạt gắt gao nếu bị phát hiện làm cho tuổi trẻ khó kết hợp và tổ chức thành đoàn thể được. Quân đội giữ quyền trung hạn từ 3 đến 5 năm rồi chuyển giao: Điều nầy có xác suất từ 40 đến 50% nếu có vài điều kiện dưới đây như quân đội và công an giữ vai trò ổn định xã hội, sau đó tổ chức cải cách và chuyển giao dần dần không làm mất đi sự ổ định xã hội. Thành lập ban tu chỉnh hay viết lại hiến pháp cho hợp với hệ thống chính trị mới và ứng hợp với việc hội nhập vào cộng đồng thế giới. Trong giai đoạn nầy, Ban/Hội đồng Quân quản vừa chuẩn bị chuyển giao cho dân sự, vừa điều hành quốc gia cả về chính trị, quân sự, an ninh lãnh thổ. Sau cùng, các nhóm lãnh đạo dân sự có thời gian để phát triển trước khi tiếp quản quyền quản lý quốc gia từ quân đội. Khả năng chuyển giao quyền lực trong điều kiện trên có xác suất cao là vì mô hình này đã từng áp dụng thành công ở nhiều nước như Chile, Hàn Quốc, trong đó, quân đội có thể đóng vai trò trung gian, giúp quá trình chuyển đổi diễn ra an toàn, bảo đảm quyền lợi cho nhóm cầm quyền hiện tại, tránh xung đột, và trấn an sẽ không có những cuộc thanh trừng hay tắm máu sau đó! Quân đội giữ quyền 10+ năm hay vĩnh viễn có xác suất từ 30 đến 40% Nếu không có sự đồng thuận về chuyển đổi, quân đội quyết định nắm quyền lâu dài. Từ đó, xã hội sẽ rơi vào tình trạng quân phiệt bất ổn hoặc có mâu thuẫn với/giữa các nhóm chính trị. Chính điều nầy sẽ khiến cho quân đội và công an thiết lập một mô hình mới, nhưng vẫn duy trì kiểm soát chặt chẽ. Đây chính là mô hình của số nước trong khu vực như Myanmar, Thái Lan ngày nay. Quân đội có thể không muốn rời bỏ quyền lực nếu thấy lợi ích và bản thân của mình bị đe dọa nếu có chuyển đổi. Theo nhận định của người viết, dự báo hợp lý và lý tưởng nhứt trong điều kiện chính trị, quân sự, và sự phân tán cũng như đấu đá nội bộ của đảng CSBV, nếu có bất cứ một biến động chính trị nào, quân đội và công an có thể giữ quyền 3-5 năm rồi chuyển giao dần dần cho chánh phủ dân sự. 6- Sau cùng vai trò của người dân trong giai đoạn chuyển giao sẽ như thế nào? Trong giai đoạn chuyển giao quyền lực, vai trò của người dân sẽ rất quan trọng vì họ là yếu tố quyết định tốc độ, mức độ thành công và hướng đi của quá trình chuyển đổi nầy. Có thể nói điều kiện tiên quyết cần phải có là giữ ổn định xã hội, tránh rơi vào hỗn loạn. Vì, khi một chế độ cũ sụp đổ, nếu người dân hoảng loạn, bạo loạn hoặc chia rẽ, đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn. Điển hình trong quá khứ như Iraq (2003), sau khi chế độ Saddam Hussein bị lật đổ, không có sự đồng thuận trong xã hội vì khác biệt giai tầng, thức bậc trong xã hội, vì khác biệt tôn giáo … dẫn đến nội chiến. Tại Libya (2011), người dân chia rẽ theo phe phái, cuối cùng không có chính quyền ổn định. Vì vậy, vai trò của người dân rất quan trọng như không tham gia vào các hoạt động cực đoan như đập phá, trả thù chính trị, tích cực hợp tác với lực lượng an ninh để duy trì trật tự, và nhứt là không lan truyền tin giả, kích động thù hận trên mạng xã hội, truyền thông đại chúng. Cần thúc đẩy đối thoại thay vì đối đầu: Nếu người dân bị chia rẽ về ý thức hệ, xung đột có thể bùng phát trở lại ngay sau khi chuyển đổi. Nếu có sự đồng thuận của đa số người dân, cuộc cách mạng có xác suất thành công rất cao. Trong buổi giao thời, người dân cần phải chấp nhận sự khác biệt về quan điểm, không cực đoan hóa vấn đề chính trị, tham gia đối thoại ôn hòa giữa các nhóm khác nhau để tìm giải pháp chung, và nhứt là ủng hộ các giải pháp trung dung, tránh để đất nước rơi vào tình trạng "bên thắng bên thua". Bài học từ Nam Phi sau khi chế độ Apartheid sụp đổ, Nelson Mandela kêu gọi hòa hợp dân tộc, nhờ đó Nam Phi tránh được nội chiến và xã hội tiếp tục tiến bước trên con đường phát triển thông thoáng. Giám sát và gây áp lực để đảm bảo chuyển giao diễn ra đúng lộ trình như đã vạch sẵn. Nếu không có sức ép từ người dân, quân đội hoặc lực lượng cầm quyền có thể kéo dài quá trình chuyển giao hoặc độc quyền hóa quyền lực. Như ở Myanmar là một điển hình. Quân đội hứa chuyển giao cho dân sự nhưng sau đó lại đảo chính, quay về chế độ độc tài quân phiệt nhiều lần bằng vũ lực. Vai trò của người dân trong trướng hợp nầy cần đòi hỏi sự minh bạch trong quá trình chuyển giao quyền lực, trực tiếp tham gia các phong trào xã hội ôn hòa để bảo đảm không có sự lạm quyền. Người cần ủng hộ các tổ chức dân sự, giúp xây dựng một chính quyền dân chủ. Thí dụ tốt như ở Chile, sau khi chế độ độc tài quân sự sụp đổ, người dân đã gây sức ép để có một cuộc trưng cầu dân ý công bằng, đảm bảo quyền lực không rơi vào tay một nhóm lợi ích. Người dân tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội để định hướng đất nước Một chính quyền mới muốn hoạt động tốt cần có lực lượng dân sự có năng lực quản lý. Nếu người dân chỉ đứng ngoài quan sát, đất nước có thể bị kiểm soát bởi một nhóm nhỏ có lợi ích riêng. Vì vậy, vai trò của người dân là cần phải tham gia vào các tổ chức chính trị mới, đóng góp ý tưởng và giám sát chính sách, tham gia hội đồng địa phương, hiệp hội xã hội để định hình tương lai đất nước, tránh suy nghĩ thụ động xem đó là chuyện của người khác, của các nhóm chính trị, không nhứt thiết phải tham gia. Trường hợp Ba Lan chẳng hạn, khi chế độ Cộng sản sụp đổ, phong trào Công đoàn “Solidarity” đóng vai trò lớn trong việc xây dựng một nền dân chủ bền vững với sự tập hợp đông đảo dân chúng ngày từ đầu.. Tóm lại, người dân là yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong mỗi lần lột xác của đất nước. Nếu người dân hành động có trách nhiệm, quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra suôn sẻ. Nếu người dân bị kích động, chia rẽ, đất nước có thể rơi vào bất ổn hoặc nội chiến. Nếu người dân hành động khôn ngoan, Việt Nam có thể học theo mô hình chuyển đổi thành công của Hàn Quốc, Đài Loan, Chile… thay vì rơi vào tình trạng như Myanmar hay Libya. 7- Thay lời kết Người viết vừa trang trải một giấc mơ về một câu chuyện giả tưởng “Giả sử Cộng sản Việt Nam hoàn toàn sụp đổ, chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó?” trong đó tưởng tượng ra nhiều giả thiết có thể xảy ra cho Việt Nam tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan của đất nước. Và ước vọng của người viết (hy vọng cũng là ước vọng của người dân) là nếu có chuyển đổi xảy ra thì nên xảy ra trong ôn hòa, không bạo động. Và diễn biến của cuộc chuyển đổi sẽ được giới hạn trong vòng từ 3 đến 5 năm. Qua hình bên cạnh, hình ảnh hàng triệu người dân Estonia (Bắc Âu) tay nắm tay tới tận biên giới Nga để tỏ sự đoàn kết và sức mạnh dân tộc của một quốc gia với vài triệu dân dám đối đầu với 160 triệu con gấu Nga, khiến cho người viết càng tin tưởng câu chuyện giả tưởng trên đây sẽ thành … sự thật! Nếu được như vậy, đây sẽ là một cuộc Cách Mạng Nhung mang dân tộc xích lại gần nhau trong nghĩa tình Một Mẹ Trăm Con của tiền nhân. Như hiện nay, dù đã 50 năm thống nhứt toàn cõi từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, nhưng niềm đau dân tộc vẫn còn dai dẳng. Tuy không còn dòng Sông Bến Hải ngăn đôi bờ địa lý, nhưng dân tộc thực sự đã bị phân liệt, không phân liệt vì vùng miền Bắc – Trung – Nam, mà bị phân liệt vì… hận thù chủ nghĩa từ một chủ nghĩa không tưởng ngoại lai vận vào! Bài học lịch sử của dân tộc Đức ngày nay qua việc giựt xập bức tường Bá Linh để không còn Đông Đức và Tây Đức nữa chính là nhờ ý chí thống nhứt của toàn dân tạo dựng lại một quốc gia Đức - Germany. Chính người dân Đức tự họ đập tan bức tường ô nhục Berlin, chứ không phải bị phía nào xâm lăng vì bạo lực cả. Phía Đông, người dân đập phá một mảng tường, phía Tây, người dây Tây Đúc chuẩn bị thực phẩm, nước uống, quần áo chào đón đồng bào ruột thịt. Đây chính là một bài học lớn cho những người con Việt còn nặng nợ với quê hương trong và ngoài nước. Sợi dây chia cắt tuy vô hình nhưng đã cách chia Nam Bắc hàng 50 năm qua! Hởi tất cả những người con Việt, phải chăng đã đến lúc cần phải khơi dậy tình tự dân tộc trong cơn chuyển đổi sắp tới của Việt Nam. Mong lắm thay! Mai Thanh Truyết Giấc mơ cuối đời - 2025 Khi đảng CS tự xóa bỏ chình mình

Wednesday, March 5, 2025

Câu chuyện giả tưởng: ”Giả sử Cộng sản Việt nam hoàn toàn sụp đổ, chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó?” Phần I Lời người viết: Đây là một câu chuyện giả tưởng không căn cứ và bất cứ sự kiện nào cả. Tất cả hoàn toàn do trí tưởng tượng của người viết. Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến diễn biến tiếp theo sau sự kiện đó. Nếu giả sử chính quyền Cộng sản Việt Nam sụp đổ hoàn toàn, chuyện gì sẽ xảy ra cho Việt Nam? Ngay sau khi Đảng Cộng sản Bắc Việt tan rã 1. Khoảng trống quyền lực và bất ổn tạm thời Khi một nhà cầm quyền sụp đổ, đặc biệt là một hệ thống có tổ chức chặt chẽ như Đảng Cộng sản Việt Nam, khoảng trống quyền lực có thể dẫn đến bất ổn trong ngắn hạn. Các nhóm chính trị đối lập, lực lượng quân đội, các nhóm lợi ích trong đảng còn lại, và các tổ chức xã hội dân sự có thể tranh giành ảnh hưởng để thiết lập một chính quyền mới. Các cuộc biểu tình, đình công, hoặc thậm chí xung đột vũ trang có thể xảy ra nếu không có sự chuyển tiếp quyền lực có trật tự do nhiều thành phần trong xã hội tạm thời đứng ra “quản lý” xã hội. 2. Vai trò của quân đội và lực lượng công an Dù muốn dù không, một khi Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương đảng, cơ quan đầu não của đảng “bị” giải tán, Quân đội Việt Nam có thể can thiệp để duy trì trật tự, hoặc thậm chí tiếp quản chính quyền trong một thời gian ngắn. Một chính quyền quân sự tạm thời có thể được thành lập trước khi chuyển giao sang một thể chế mới. Nếu không có sự thống nhất trong quân đội và công an (một lực lượng đối trọng và ngang hang với quân đội hiện tại), sẽ có nguy cơ chia rẽ và đấu đá nội bộ. Quan trọng hơn cả là trong tình trạng nội bộ của đảng CSBV, TBT Tô Lâm, người đã nắm công an với số lượng nhân sự “kín và hở” trên 1 triệu người, do đó hiện là một lực lượng mạnh nhứt nước, có thể trong trường hợp giả định trên sẽ gồm thâu tất cả về một mối, và trở thành độc tài như Putin sau khi Yeltsin giải tán đảng cộng sản Nga. Đây là một kịch bản có xác suất lớn nhứt hiện nay. 3. Ảnh hưởng của các lực lượng chính trị khác Các tổ chức chính trị lưu vong có thể tìm cách quay về Việt Nam để tham gia tái thiết chính quyền. Nhưng thực tế nhìn lại hiện trạng ở ngoại quốc, Những tổ chức nào có thể “được” nêu danh. Các đảng phái quốc gia có từ thời thập niên 40 của thế kỷ trước: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, cũng như các đảng phái mờ mờ ảo ảo, cùng nhiều chánh phủ lâm thời, chánh phủ quốc gia, chánh phù VNCH tương lai, Đệ Tam CH v.v…cũng chỉ là những lá bài ảo mà thôi. Hoàn toàn không ảnh hưởng gì cả! Các đảng phái dân chủ hoặc phong trào tự do trong nước có thể trỗi dậy. Nói như vậy là để liệt kê trong suốt chuỗi luận lý, thật sự trong nước chắc cũng không khá hơn hải ngoại sau 50 nằm dưới sức ép và sự kiểm soát của cường quyền. Chỉ còn các nhóm lợi ích kinh tế trong và ngoài nước có thể tác động đến tiến trình chuyển đổi chính trị. Nhưng các nhóm nầy là những ai? Họ là những tài phiệt ở hải ngoại, những “ông chạy cờ” cho Mỹ. Và ở trong nước, các nhóm lợi ích kinh tế dực vào quyền lực của các lãnh tụ lớn để khuynh đảo thị trường, gây thanh thế, chiếm hữu đất đai và tài sản dân tộc. Họ có thể tác động đến tiến trình chuyển đổi chính trị của Việt Nam, nhưng chỉ có thể đóng góp vai trò phụ trợ mà thôi. 4. Hệ lụy kinh tế Thị trường có thể rơi vào tình trạng hỗn loạn do sự bất ổn chính trị ngay sau đó. Việc kiểm soát thị trường từ giai đoạn sản xuất, phân phối và tiêu thụ sẽ bị xáo trộn tạo cơ hội đầu cơ tích trữ của đám hoạt đầu. Từ đó, sẽ làm xáo trộn xã hội có thể đi đến hỗn loạn quốc gia. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể rút vốn, dời cơ sở sản xuất gây ảnh hưởng bất lợi cho xã hội và đời sống kinh tế của người dân. Qua kinh nghiệm, xác suất nầy có thể có tỷ lệ rất cao. Nếu có cải cách nhanh chóng theo hướng thị trường tự do, nền kinh tế có thể phục hồi và phát triển mạnh hơn. Nhưng điều nầy hoàn toàn không tưởng. 5. Ảnh hưởng của các cường quốc Trung Cộng có thể tìm cách duy trì ảnh hưởng của mình tại Việt Nam, có thể thông qua kinh tế hoặc thậm chí hỗ trợ các nhóm chính trị thân Bắc Kinh. Đây là một quốc gia có tầm ảnh hưởng lên Việt Nam nhiều nhứt. TC sẽ mau chân chuẩn bị những “con gà” nhằm tham gia/áp đặt vào chánh quyền mới. Mỹ và phương Tây có thể thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và cung cấp hỗ trợ tài chính và đứng ngoài với tư thế “wait and see”. Mỹ và Tây phương lúc nào cũng đi chậm và đi sau TC. Vì mang tinh thần dân chủ, Tây phương luôn có thái độ dè dặt “không tham dự vào nội bộ chính trị” của nước khác, cho nên không biết cướp thời cơ/chụp giựt như TC. Còn Nga, dù sao cũng là đàn anh của CSBV một thời, cũng muốn tạo ra nhóm ảnh hưởng từ các đảng viên CSBV cũ thân Nga. Và các nước láng giềng như Thái Lan, Campuchia, và Lào có thể theo dõi sát sao tình hình để điều chỉnh chính sách ngoại giao của họ cho thích hợp với chính quyền mới. Dù sao các quốc gia kể trên vẫn còn kính nể Việt Nam một phần nào, nhứt là Lào. 6. Hướng đi “mới” của Việt Nam Nếu quá trình chuyển đổi diễn ra trong hòa bình, Việt Nam có thể tiến tới một nền dân chủ đa đảng hoặc một chính phủ hỗn hợp có sự tham gia của nhiều phe phái sẽ được thiết lập trong hòa bình ngay sau đó. Xác suất xảy ra: 0%! Nếu xung đột nội bộ kéo dài, Việt Nam có thể rơi vào tình trạng mất ổn định, thậm chí là chia rẽ vùng miền. Kinh nghiệm Việt Nam Cộng hòa sau khi Đệ I CH bị xóa sổ, Quân đội và các Nhóm chính trị dân sự dằn co làm cho đất nước rơi vào hỗn loạn chính trị. Xác suất xảy ra: 100%. Một số mô hình có thể xảy ra: - Dân chủ kiểu phương Tây (giống Đài Loan hoặc Hàn Quốc sau khi chuyển đổi từ chế độ độc tài). - Chế độ chuyên quyền mới (một nhóm lãnh đạo khác lên nắm quyền nhưng vẫn duy trì quyền lực tập trung như trường hợp Miến Điện, Nga). - Liên minh chính trị hỗn hợp (các đảng phái mới cùng chia sẻ quyền lực trong tinh thần quốc gia trên hết). Xin ghi ra đây thôi, thật sự giả thiết nầy chỉ là … lý thuyết. Nhắc lại câu chuyện “Giỏ cua” của người Việt không có nắp đậy…vì con cua nào trồi lên cũng bị các con cua phía dưới … kéo xuống! Không có một kịch bản đơn độc và đơn giản nào cho sự kiện này, vì nó sẽ phụ thuộc vào cách thức chính quyền sụp đổ trong trật tự hay hỗn loạn, yên ẳng hay bạo động…và ai là người kiểm soát quyền lực sau đó, và phản ứng của người dân cũng như các thế lực bên ngoài. Một sự thay đổi lớn như vậy có thể mang lại cơ hội nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Nếu Quân đội và công an ổn định trật tự Có thể nào họ lại dàn dựng lại một loại chế độ xã hội chủ nghĩa khác hay không? Giả thiết nầy có thể xảy ra hay không? Một loại độc tài kiều “Putin”, nghĩa là chỉ thay đổi toàn bộ nhân sự lãnh đạo đảng mà thôi và dưới danh nghĩa “Độc tài Công an trị”, Trả lời: Có, kịch bản này hoàn toàn có thể xảy ra, và trên thực tế, nó đã từng diễn ra ở một số quốc gia hậu cộng sản. Nếu quân đội và công an duy trì được sự ổn định và nắm quyền kiểm soát, họ có thể dàn dựng một hệ thống mới mang danh nghĩa khác nhưng thực chất vẫn giữ nguyên nhiều yếu tố của chế độ xã hội chủ nghĩa trước đó. Dưới đây là một số viễn cảnh khả thi: 1. Giữ lại hệ thống, chỉ thay đổi lãnh đạo Trong trường hợp này, chính quyền mới có thể tuyên bố "cải tổ", loại bỏ những nhân vật lãnh đạo cũ bị cho là tham nhũng, yếu kém, bất lực, hoặc mất uy tín với “nhân dân”. Đảng Cộng sản Bắc Việt có thể bị giải tán trên danh nghĩa, nhưng các nhóm lãnh đạo mới (chủ yếu từ quân đội, công an hoặc giới tinh hoa chính trị cũ) vẫn giữ quyền lực. Họ có thể lập ra một "đảng mới" có tên mới, hoặc một liên minh chính trị thay thế nhưng vẫn hoạt động theo mô hình cũ. Rượu mới nhưng vẫn bình cũ. 2. Chuyển đổi theo mô hình "độc đảng mềm" Chính quyền có thể cho phép một số cải cách dân chủ hình thức, chẳng hạn như thành lập thêm một số đảng đối lập nhưng bị kiểm soát chặt chẽ. Giống y như thời HCM cướp chánh quyền Trần Trọng Kim xong, cho thành lập đảng Dân chủ làm cò mồi, nhưng thực chất lãnh đạo của đảng cũng la2tha2nh phần chủ chốt của đảng cộng sản. Đây là mô hình đã từng xuất hiện ở Nga thời hậu Xô Viết, nơi đảng cầm quyền thay đổi hình thức nhưng vẫn giữ quyền lực thông qua cơ chế kiểm soát báo chí, bầu cử và chính sách kinh tế. Putin là một điển hình… Trung Cộng hiện tại cũng duy trì một hệ thống xã hội chủ nghĩa nhưng đã chuyển sang nền kinh tế thị trường “theo định hướng xhcn”, tức là một loại kinh tế chỉ huy.. Việt Nam có thể theo hướng này nhưng với một bộ máy chính trị ít ý thức hệ hơn, tuy nhiên vẫn cố rập khuôn theo TC! 3. Mô hình "độc tài quân sự kiểu mới" Quân đội có thể thành lập một chính quyền quân sự lâm thời, goi là chế độ “quân quản” như ở miền Nam ngay sau ngày 30/4/1975. Nhưng sau đó xây dựng một thể chế chính trị mới nhưng vẫn tập trung tất cả quyền lực vào tay CSBV. Nhóm quân phiệt nầy có thể sử dụng các khẩu hiệu dân tộc chủ nghĩa thay vì xã hội chủ nghĩa để duy trì sự chính danh hầu xóa tan xhch độc tài độc đoán đã qua dù họ cũng đã từng là những lãnh đạo và lãnh tụ. Một số quốc gia như Myanmar đã từng thực hiện mô hình này khi quân đội nắm quyền và chỉ tổ chức các cuộc bầu cử có kiểm soát. Kết quả là độc tài vẫn là độc tài 4. Chuyển đổi sang chế độ "tư bản thân hữu" Nếu chính quyền quân đội hoặc một nhóm lãnh đạo mới nắm quyền, họ có thể chọn hướng cải cách kinh tế mạnh mẽ dưới sự kiểm soát của họ nhưng được nới lỏng hơn, tuy nhiên, việc kiểm soát chính trị vẫn được siết chặt như cũ. Mô hình này có thể giống Trung Cộng hoặc Nga, nơi các nhóm lợi ích kinh tế mới (thường là các cựu quan chức hoặc quân đội) thao túng nền kinh tế và chính trị của hai quốc gia nầy. Việt Nam có thể trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển nhưng chính trị vẫn tập trung vào tay một nhóm quyền lực nhất định tập trung hơn, khác hẳn tập thể lãnh đạo như Bộ chính trị đảng CS như trước kia nữa. 5. Khả năng xảy ra kịch bản Quân đội - Công an Kịch bản này có khả năng xảy ra nếu dưới nhiều góc độ và trường hợp có thể xảy ra: Quân đội và công an thống nhất trong hành động, tránh được chia rẽ nội bộ. Xã hội trong điều kiện nầy sẽ ít bị xáo trộn chính trị hơn. Họ sẽ kiểm soát được tình hình chính trị và kinh tế mà không để xảy ra hỗn loạn xã hội và gây hoang mang trong dân chúng. Nhóm lãnh đạo mới có đủ kỹ năng và sự linh hoạt để tái cấu trúc hệ thống nhà nước mà vẫn duy trì quyền lực. Người dân không có đủ tổ chức hoặc phong trào mạnh nào có khả năng tập hợp trong điều kiện nầy để thúc đẩy một hệ thống dân chủ thực sự. Tóm lại, nếu quân đội và công an ổn định tình hình sau sự kiện sụp đổ, họ hoàn toàn có thể tạo ra một mô hình "xã hội chủ nghĩa kiểu mới", trong đó quyền lực vẫn nằm trong tay một nhóm nhỏ thay vì mở ra một nền dân chủ thực sự. Đây là một chiến lược mà một số quốc gia hậu cộng sản đã áp dụng để tránh hỗn loạn nhưng vẫn giữ quyền lực trong tay giới tinh hoa chính trị cũ. Và có lẽ, Tô Lâm hiện nay cũng đang cố thực hiện kịch bản nầy cho Việt Nam trong những ngày sắp đến. Có thể gọi "giả sử" trên lá cách mạng nhung không? Người viết xin trả lời ngay là giả thiết trên không hoàn toàn giống với một cuộc cách mạng nhung - Velvet Revolution, mặc dù có một số điểm tương đồng. Tại sao? Cách mạng nhung thường dẫn đến dân chủ thực sự: Trong lịch sử, các cuộc cách mạng nhung (như ở Tiệp Khắc năm 1989) thường do các phong trào dân sự, trí thức và quần chúng lãnh đạo, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cũ và thay thế hoàn toàn bằng một hệ thống đa đảng, dân chủ thực sự. Trong giả sử trên, quân đội và công an vẫn kiểm soát tình hình và có thể chỉ thay đổi nhân sự lãnh đạo mà không thực sự chuyển sang chế độ dân chủ đa nguyên. Không có sự chuyển giao quyền lực thực sự: Nếu quân đội và công an chỉ thay đổi một nhóm lãnh đạo nhưng vẫn duy trì mô hình cai trị tập trung, thì đó chỉ là một cuộc thay đổi nội bộ trong hệ thống chứ không phải một cuộc cách mạng nhung.Cách mạng nhung thường dẫn đến bỏ điều 4 hiến pháp (độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản) và cho phép các đảng phái đối lập hoạt động tự do. Nếu điều này không xảy ra, thì đó chưa thể gọi là cách mạng nhung. Cách mạng nhung thường là phi bạo lực và do người dân chủ động. Nếu sự thay đổi được thúc đẩy từ nội bộ quân đội/công an chứ không phải từ phong trào quần chúng, thì nó có thể giống một cuộc đảo chính nội bộ hơn là một cuộc cách mạng nhung. Trong các cuộc cách mạng nhung điển hình, người dân và các phong trào đối lập đóng vai trò trung tâm, chứ không phải là quân đội hay công an. Vậy gọi là cách mạng gì? Nếu có sự thay đổi lãnh đạo nhưng giữ nguyên hệ thống chính trị, thì nó có thể được gọi là một cuộc thanh trừng nội bộ hoặc chuyển đổi chính trị có kiểm soát. Nếu quân đội nắm quyền và tự tái cấu trúc hệ thống, nó có thể được xem là một cuộc đảo chính mềm hoặc chuyển đổi theo mô hình độc tài quân phiệt mới. Nếu có cải cách chính trị sâu rộng nhưng vẫn dưới sự kiểm soát của một nhóm quyền lực, thì nó có thể là một cuộc cải tổ từ trên xuống nhưng không đổ máu (giống cách Trung Cộng từng thực hiện dưới Đặng Tiểu Bình). Qua trên, Việt Nam có cần "chuyển đổi" để đẩy mạnh phát triển hơn không? Tùy theo nhiều góc nhìn khác nhau: Nếu mục tiêu là phát triển kinh tế mạnh hơn, Việt Nam đã có sự chuyển đổi đáng kể từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 với Đổi Mới. Tuy nhiên, mô hình nầy vẫn có hạn chế như tham nhũng và lợi ích nhóm cản trở sự minh bạch và cạnh tranh lành mạnh. Doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, làm giảm năng suất kinh tế. Hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, làm hạn chế đầu tư và sáng tạo. Ba nhận định trên giải thích được việc phát triển chậm và làm trì trệ việc nâng Việt Nam thành Rồng suốt 40 năm qua! Vì vậy, Nếu còn giữ nguyên hệ thống chính trị nhưng thực hiện cải cách thể chế mạnh và thông thoáng hơn (giống TC thời Đặng Tiểu Bình) thì có thể giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh hơn mà không cần thay đổi mô hình toàn diện. Nếu chuyển sang nền kinh tế tự do hơn, hạn chế quyền lực nhà nước trong kinh doanh, thì Việt Nam có thể đi theo hướng của Hàn Quốc hoặc Đài Loan sau những năm 1980. Hướng đi đúng đắn của Việt Nam Hiện tại, Việt Nam đang có bất bình đẳng kinh tế gia tăng, đặc biệt giữa thành thị và nông thôn. Ngoài ra, môi trường bị khai thác quá mức, giáo dục và y tế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển dài hạn, Xã hội có nhiều vấn đề về lao động, an sinh xã hội và phẩm chất cuộc sống của người dân. Vì vậy phải cần: - Cải cách thể chế để giảm độc quyền và tăng sự giám sát của người dân. - Cần các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân và sáng tạo thay vì chỉ tập trung vào doanh nghiệp nhà nước. - Cần chuyển đổi theo hướng minh bạch hơn, nhưng không nhất thiết phải thay đổi chế độ chính trị ngay lập tức. Việt Nam đang ở thế phải cạnh tranh với các nước mạnh như Hàn Quốc, Trung Cộng, Thái Lan, Malaysia. Để không bị tụt hậu, Việt Nam cần một hệ thống pháp luật công bằng và minh bạch hơn. Mở cửa hơn với đầu tư nước ngoài và công nghệ cao. Giảm bớt kiểm soát nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Việt Nam cần chuyển đổi để phát triển mạnh hơn, nhưng mức độ chuyển đổi có thể khác nhau: Nếu chỉ muốn tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, cần cải cách kinh tế theo hướng thị trường nhiều hơn. Nếu muốn phát triển bền vững hơn, cần cải cách thể chế để minh bạch hơn. Nếu muốn phát triển toàn diện như Hàn Quốc hay Đài Loan, có thể cần thay đổicả hệ thống chính trị. Làm sao tránh được hỗn loạn và bất ổn xã hội trong quá trình chuyển đổi? Tránh hỗn loạn và bất ổn xã hội trong quá trình chuyển đổi là một thách thức lớn. Để thành công, cần một chiến lược từng bước, ổn định và kiểm soát tốt. Dưới đây là một số yếu tố quan trọng để bảo đảm tiến trình này diễn ra suôn sẻ: Chuyển đổi dần dần thay vì đột ngột. Qua bài học từ Đông Âu sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng kinh tế do chuyển đổi quá nhanh trong việc tư nhân hóa. Ngược lại, Trung Cộng và Việt Nam áp dụng mô hình “cải cách nhưng giữ ổn định” sau những năm 1990, giúp tăng trưởng mạnh mà không gây sốc hệ thống. Như: Cải cách từ từ, bắt đầu từ kinh tế, sau đó mới đến chính trị mềm mỏng dần. • Giữ nguyên một số thể chế quan trọng (như quân đội, hành chính) để tránh khoảng trống quyền lực. • Không vội vã thay đổi toàn bộ lãnh đạo, mà thay dần theo lộ trình và khuynh hướng mở của lớp lãnh đạo trẻ hấp thụ phần nào văn hóa Tây phương. • Bảo đảm sự đồng thuận của các nhóm quyền lực vì nếu nhóm cầm quyền cảm thấy bị đe dọa hoàn toàn, họ có thể chống lại sự thay đổi bằng bạo lực. • Trường hợp Miến Điện (Myanmar), quân đội đã đảo chính vì lo ngại mất quyền lực khi dân chủ hóa quá nhanh. Cho nên thất bại, cho đến bây giờ đất nước nầy vẫn còn nằm trong khủng hoảng chính trị nội bộ, xã hội bị xáo trộn hoàn toàn. • Ở Nam Phi, Nelson Mandela đàm phán với chế độ Apartheid thay vì đối đầu trực tiếp, giúp chuyển đổi diễn ra trong hòa bình.Thỏa thuận với các nhóm quyền lực để họ không cản trở quá trình cải cách. • Đảm bảo lợi ích nhất định cho giới lãnh đạo cũ, giúp họ yên tâm tham gia quá trình chuyển đổi thay vì chống lại nó. Điều nầy sẽ làm cho họ … yên tâm đi xuống! • Duy trì vai trò của quân đội và công an, nhưng đặt họ dưới sự giám sát dân sự dần dần qua các hội đồng dân sự. Bảo đảm kinh tế ổn định trong tiến trình chuyển đổi. Nến nền kinh tế suy thoái có thể dẫn đến thất nghiệp, lạm phát và bất ổn xã hội. Duy trì ổn định tài chính và tiền tệ, tránh sốc nền kinh tế. Mở cửa kinh tế dần dần, không tư nhân hóa quá nhanh. Đầu tư vào an sinh xã hội, tránh để người dân rơi vào cảnh nghèo đói khi chuyển đổi. Đảm bảo truyền thông minh bạch, tránh tin giả và kích động Nhiều cuộc cách mạng thất bại vì thông tin bị bóp méo, gây ra hiểu lầm và xung đột. Ở Ukraine, mâu thuẫn giữa các vùng miền bị truyền thông kích động, dẫn đến nội chiến kéo dài. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến việc Nga huy động võ lực ngày 24/2/2022. Ở Tiệp Khắc, truyền thông đóng vai trò tích cực trong cách mạng nhung, giúp quá trình chuyển đổi diễn ra hòa bình. Do đó, truyền thông cần được kiểm soát tốt tránh loan tin giả và tuyên truyền thù hận. Tạo ra một môi trường truyền thông cởi mở nhưng có trách nhiệm. Khuyến khích đối thoại thay vì đối đầu. Xây dựng một lộ đồ chuyển đổi rõ ràng Nếu không có kế hoạch rõ ràng, dễ rơi vào hỗn loạn. Ở Iraq, sau khi chính quyền Saddam Hussein bị lật đổ, vì không có kế hoạch tái thiết rõ ràng, cho nên dẫn đến nội chiến kéo dài. Ở Chile, sau khi chế độ độc tài của Pinochet sụp đổ, có một kế hoạch rõ ràng giúp đất nước chuyển sang dân chủ một cách trật tự và tương đối bền vững. Vì vậy, Cần định rõ từng giai đoạn chuyển đổi: giai đoạn Một (cải cách kinh tế), giai đoạn Hai (mở rộng dân chủ), giai đoạn Ba (ổn định chính trị lâu dài) nhằm bảo đảm sự đồng thuận giữa các bên liên quan, không để xảy ra mâu thuẫn lớn. Cũng cần nên có một nhóm lãnh đạo đủ năng lực để dẫn dắt quá trình chuyển đổi. Chuyển đổi Việt Nam cần phải được kiểm soát nghiêm chỉnh Chuyển đổi có thể là cơ hội, nhưng phải có chiến lược thông minh để tránh hỗn loạn. Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển đổi để phát triển mạnh hơn, nhưng cần làm từ từ, có lộ trình rõ ràng, và bảo đảm ổn định xã hội. Quan trọng nhất là không để xảy ra khoảng trống quyền lực và tránh đối đầu gay gắt giữa các phe phái. Nếu làm tốt các việc trên, Việt Nam có thể chuyển đổi thành công như Hàn Quốc hoặc Đài Loan, thay vì rơi vào bất ổn như Miến Điện, Ukraine hay Iraq. Mai Thanh Truyết Houston 3-2025

Monday, March 3, 2025

Cuộc chiến mờ ảo qua vụ… Đất hiếm Ukraina Căn cứ theo Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ - USGS, không thấy một ghi nhận nào về trữ lượng đất hiếm tại Ukraina, trong lúc đó, có ghi trữ lượng của Mỹ đứng thứ ba trên thế giới với 13 triệu tấn. Nếu khai thác Đất hiếm tinh chế sẽ được sản xuất dư thừa nhu cầu của Mỹ. Và mỏ Mountain Pass đã khởi động lại từ nhiều năm qua rồi (xin đọc phần dưới). Như vậy, chiêu bài chính trị ở Ukraina qua “việc ngưng bắn giữa Nga và Ukraina” liên quan đến việc “Mỹ ký hợp đồng khai thác đất hiếm ở xứ nầy” là gì??? Có phải đây là một trò “Ma nớp” chính trị hay không? Xin tùy người đọc tự suy gẫm. Mỹ có trữ lượng đất hiếm khá lớn, ước tính khoảng 13 triệu tấn (theo Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ - USGS). Một số tiểu bang có nguồn tài nguyên đất hiếm đáng kể bao gồm: 1. California – Mỏ Mountain Pass (là mỏ đất hiếm lớn nhất Mỹ, thuộc công ty MP Materials). 2. Wyoming – Có các dự án khai thác tiềm năng, như mỏ Bear Lodge. 3. Texas – Có một số nguồn tài nguyên đất hiếm, đặc biệt là ở phía tây tiểu bang. 4. Alaska – Có tiềm năng đất hiếm ở khu vực Bokan Mountain. 5. Colorado – Một số trữ lượng được phát hiện. 6. Missouri – Đất hiếm có thể được khai thác từ các mỏ phốt phát. Mặc dù Mỹ có trữ lượng đáng kể, nhưng phần lớn đất hiếm hiện nay vẫn được nhập khẩu, chánh yếu từ Trung Cộng (Mỹ xuất cảng đất hiếm thô sang TC), do chi phí khai thác và chế biến nội địa cao vì việc thanh lọc phế thải trong quá trình chế biến rất khắc khe và phức tạp. Trữ lượng đất hiếm trên thế giới khoảng 87,7 triệu tấn (chưa qua tinh chế), tập trung vào các nước như: Trung Cộng (27 triệu tấn); Liên Xô trước đây (19 triệu tấn); Mỹ (13 triệu tấn), Australia (5,2 triệu tấn); Ấn Độ (1,1 triệu tấn), Canada (0,9 triệu tấn); Nam Phi (0,4 triệu tấn); Brazil (0,1 triệu tấn); các nước còn lại (21 triệu tấn). Nhu cầu hằng năm chỉ cần 125.000 tấn thì 700 năm nữa mới cạn kiệt loại khoáng sản này. (Có nhiều nguồn tài liệu khác, ước tính trữ lượng các nơi trên có thể khác nhau.) Hoa Ký, từ năm 1965, khai thác đất hiếm ở vùng núi Pass, Colorado - Mỹ. Đến năm 1983, Mỹ mất vị trí độc tôn khai thác vì nhiều nước đã phát hiện mỏ đất hiếm. Trong đó, ưu thế khai thác dần nghiêng về phía TC vì nước này đã phát hiện được nhiều mỏ đất hiếm. Đến năm 2004, vùng mỏ Bayan Obo của TC đã sản xuất đến 95.000 - 102.000 tấn đất hiếm. Đất hiếm ở Hoa Kỳ Thống kê và tin tức về cung, cầu và sự luân lưu trên toàn thế giới của nhóm khoáng sản đất hiếm - scandium, yttrium và lanthanides cho thấy nguồn kinh tế chính của đất hiếm là các khoáng chất bastnaesite, monazite, loparite và ion Laterit- đất sét hấp phụ (ion-adsorption). Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra hoạch hỗ trợ các nước phát triển nguồn khoáng sản như lithium, đồng và cobalt, nhằm giảm phụ thuộc vào TC về những khoáng sản quan trọng đối với ngành công nghiệp kỹ thuật cao.Trong thời gian gần đây, Washington quan ngại về việc phụ thuộc vào khoáng sản nhập khẩu sau khi có tin Bắc Kinh xem xét cắt giảm xuất khẩu đất hiếm sang Mỹ giữa lúc chiến tranh thương mại song phương leo thang. Các công ty quốc phòng Mỹ Raytheon và Lockheed Martin dùng đất hiếm trong hệ thống hướng dẫn và bộ cảm biến cho tên lửa. Đất hiếm cũng rất cần thiết cho những thiết bị quân sự quan trọng khác như động cơ máy bay, laser, và thiết bị nhìn xuyên đêm. Theo Reuters, 80% lượng đất hiếm nhập vào Mỹ trong giai đoạn 2014-2017 là từ TC trong khi hiện nay không có nhiều bên cung cấp khác có thể cạnh tranh với nước nầy. “Hơn 80% chuỗi cung cấp đất hiếm toàn cầu bị một nước kiểm soát. Việc dựa vào bất kỳ một nguồn nào làm gia tăng nguy cơ bị gián đoạn về nguồn cung”, Bộ Ngoại giao Mỹ cảnh báo trong tài liệu về kế hoạch hỗ trợ các nước phát triển khoáng sản, được gọi là Sáng kiến quản lý nguồn năng lượng. Theo kế hoạch, Mỹ sẽ chia sẻ kỹ thuật khai thác nhằm hỗ trợ phát hiện và phát triển nguồn khoáng sản cũng như tư vấn cách quản lý nhằm đảm bảo ngành công nghiệp của các nước hấp dẫn đối với giới đầu tư quốc tế. Bước đi này được kỳ vọng sẽ giúp đảm bảo nguồn cung khoáng sản toàn cầu có thể đáp ứng nhu cầu của thế giới. Nhu cầu về khoáng sản năng lượng thiết yếu có thể gia tăng gần 1.000% vào năm 2050, theo ước tính của giới chuyên gia. Ở Bắc Mỹ, nguồn tài nguyên đất hiếm được đo lường và chỉ ra ước tính bao gồm 2,4 triệu tấn ở Hoa Kỳ và hơn 15 triệu tấn ở Canada. Bao nhiêu phần trăm đất hiếm được khai thác ở Hoa Kỳ? Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, nước này kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu. Mỹ nhập khẩu bao nhiêu nguyên tố đất hiếm? Hoa Kỳ nhập khẩu ròng 100% vào các nguyên tố đất hiếm trong năm 2018, nhập khẩu ước tính khoảng 11.130 tấn hợp chất và kim loại trị giá 160 triệu USD. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, 80% lượng hàng nhập khẩu đó có nguồn gốc từ TC. Mỹ đang thắng thế về đất hiếm? Cuộc cạnh tranh toàn cầu về các khoáng sản quan trọng đang nóng lên và Mỹ chưa giành được chiến thắng. Trong số các khoáng sản quan trọng này có một tập hợp con được gọi là các nguyên tố đất hiếm (Rare Earth Element-REE), rất quan trọng đối với mọi hoạt động từ quá trình chuyển đổi năng lượng sang kỹ nghệ quốc phòng. Vào ngày 4 tháng 3, Tesla TSLA +6,2% đã công bố hợp tác với một mỏ niken ở New Caledonia. Trước kia, Mỏ Mountain Pass của California là cơ sở đất hiếm duy nhất đang hoạt động của Hoa Kỳ. Nhưng Cty MP Materials mua lại mỏ Mountain Pass, quyết định, thay vì tinh chế, lại cho vận chuyển khoảng 50.000 tấn đất hiếm cô đặc mà họ khai thác mỗi năm từ California đến TC để chế biến. TC đã áp đặt mức thuế 25% đối với những mặt hàng nhập khẩu đó trong cuộc chiến thương mại. Hiện tại, Mỏ Mountain Pass, CA hoạt động trở lại vào năm 2012 sau nhiều năm ngừng hoạt động, ngày nay, 2020 cung cấp khoảng 15% sản lượng đất hiếm của thế giới, một nhóm gồm 17 khoáng chất được sử dụng để chế tạo nam châm trong công nghệ thương mại và quân sự tiên tiến nhất của Mỹ, từ xe điện. cho các tàu ngầm tấn công lớp Virginia. Mountain Pass của California, một trong những mỏ lớn nhất thế giới, nơi sản xuất 43.000 tấn REO vào năm 2022, theo USGS. Nhưng trong vòng ba thập niên qua, Bắc Kinh đã nắm chặt chuỗi cung ứng đất hiếm của thế giới đến mức gần như tất cả nguyên liệu – bất kể chúng được khai thác ở đâu trên thế giới – đều phải chuyển đến TC để sàng lọc trước khi chúng có thể được xử dụng trong công nghệ. Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, TC kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu. Đây là một vấn đề gây ra lỗ hổng lớn trong chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ và gây ra những rủi ro an ninh quốc gia tiềm ẩn, xét đến mối quan hệ căng thẳng của Washington với Bắc Kinh. Khi tín hiệu nhu cầu về công nghệ dựa trên các yếu tố này được dự đoán sẽ tăng vọt, cả ngành công nghiệp và chính phủ đều đang đầu tư vào các phương pháp nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng đất hiếm trong nước. Mặc dù được dán nhãn là “hiếm”, nhưng 17 nguyên tố khác nhau được gọi là đất hiếm lại tương đối dồi dào trong lớp vỏ Trái đất. Chính quyền Biden coi chúng là một trong những vật liệu và khoáng sản chiến lược và quan trọng để xử dụng trong một số công nghệ thương mại và quốc phòng hiện đại - bao gồm điện thoại thông minh, thiết bị y tế và nam châm chuyên dụng cao được dùng trong xe điện, máy bay chiến đấu phản lực và máy bay không người lái. Nhưng do đặc tính hóa học của các nguyên tố đất hiếm gần như không thể phân biệt được với nhau nên việc tách và tinh chế riêng lẻ chúng để có thể xử dụng chế tạo nam châm và các công nghệ khác là một quá trình phức tạp, Linda Chrisey, giám đốc chương trình tại Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến, cho biết. “Hai nguyên tố đất hiếm khác nhau có thể là những phần nhỏ của một angstrom có đường kính khác nhau - điều đó có nghĩa là rất khó phân tách bằng các phương pháp vật lý. Các quy trình hiện đang được áp dụng… có thể gồm 100 bước”, Chrisey cho biết, đồng thời lưu ý rằng quy trình này có thể rất tốn kém và nguy hiểm cho môi trường do các hóa chất được dùng để tách và tinh chế kim loại. Bà nói thêm: “Đây là tất cả những lý do khiến việc duy trì kiểu hoạt động đó ở Hoa Kỳ trở nên khó khăn”. Tuy nhiên, trên đỉnh núi ở sa mạc Mojave tại mỏ đất hiếm lớn nhất nước Mỹ, MP Materials đang cố gắng đảo ngược xu hướng đó. Với quy mô và năng lực cơ sở vật chất của mình, MP Materials đang cố gắng trở thành “nhà vô địch về nam châm” ở Tây bán cầu, Matt Sletcher, phó chủ tịch cấp cao về truyền thông và chính sách của MP Materials cho biết. Ông nói: “Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là xây dựng một chuỗi cung ứng từ tính hoàn chỉnh và chúng tôi muốn có thể sản xuất tất cả các vật liệu cần thiết và tái chế những vật liệu cần thiết để có được chuỗi cung ứng từ tính đó”. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, kể từ khi mua lại mỏ Mountain Pass vào năm 2017, MP Materials đã khôi phục hoạt động sản xuất các nguyên tố đất hiếm tại địa điểm này và tạo ra hỗn hợp đất hiếm cô đặc, đóng góp khoảng 15% lượng khoáng chất đất hiếm được tiêu thụ mỗi năm. Và chẳng bao lâu nữa, MP Materials sẽ không còn phải vận chuyển hỗn hợp này ra nước ngoài tới TC để thực hiện quá trình tách và tinh chế các nguyên tố đất hiếm kéo dài. Sau hai năm xây dựng, công ty đã thông báo vào tháng 11, 2019 rằng họ sắp mở cơ sở tinh chế đất hiếm đầu tiên ở Hoa Kỳ tại cơ sở Mountain Pass. Đầu tiên, họ phải vận hành tài sản cho cơ sở mới cho giai đoạn sản xuất thứ hai, đây là một quá trình kiểm tra sức chịu đựng của thiết bị của cơ sở để đảm bảo nó hoạt động theo tốc độ được thiết kế, Slestcher cho biết trong chuyến thăm công trình đang diễn ra tại nhà máy cho biết thủ tục này sẽ diễn ra trong suốt năm 2023. Ông giải thích, giai đoạn sản xuất thứ hai bắt đầu bằng quá trình sấy khô, rang, lọc và tinh chế hỗn hợp đất hiếm cô đặc. Sau đó, đất hiếm được đưa vào một trong những bể chứa cao chót vót nằm trong một tòa nhà dài hơn một sân bóng đá Mỹ. Ông cho biết, trong những thùng này, quy trình chiết dung môi sẽ tách hỗn hợp thành các oxit đất hiếm riêng lẻ. Mặc dù đây chỉ là một cơ sở sàng lọc đang cạnh tranh với nhiều cơ sở ở TC, nhưng việc khai trương cơ sở này đánh dấu một bước quan trọng trong nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm giải quyết chuỗi cung ứng đất hiếm dễ bị tổn thương. Theo thông cáo báo chí của Ngũ Giác Đài, vào năm 2020, Bộ Quốc phòng đã đầu tư 10 triệu USD vào dự án trị giá 200 triệu USD này. Sletcher lưu ý, MP Materials sẽ tập trung vào việc tinh chế hợp chất neodymium và praseodymium - một trong những vật liệu phổ biến nhất được dùng để chế tạo nam châm đất hiếm - cũng như lanthanum và xerium. Những nguyên tố này được phân loại là “đất hiếm nhẹ”. Chính phủ cũng đang thúc đẩy sản xuất trong nước “đất hiếm nặng”, loại đất khó tinh chế hơn nhưng cũng được sử dụng để chế tạo nam châm chuyên dụng hơn. Ví dụ, terbium và dysprosium đất hiếm nặng cần thiết để tạo ra nam châm vĩnh cửu đất hiếm có thể hoạt động ở nhiệt độ cao, trong khi samarium được dùng để sản xuất nam châm samarium-coban được dùng trong các ứng dụng hàng không vũ trụ và quốc phòng. Bộ Quốc phòng đã trao cho MP Materials một hợp đồng trị giá 35 triệu USD vào tháng 2 năm 2022 để xây dựng một cơ sở được thiết kế đặc biệt để xử lý các nguyên tố đất hiếm nặng tại mỏ Mountain Pass. Sletcher cho biết đất hiếm nặng sẽ được tinh chế ở một tòa nhà khác và nói thêm rằng dự án chỉ mới bắt đầu. Để thuần hóa hoàn toàn chuỗi cung ứng nam châm, MP Materials cũng đã bắt đầu xây dựng nhà máy từ tính đất hiếm đầu tiên của Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2022. Tọa lạc tại Fort Worth, Texas, cơ sở này sẽ có thể sản xuất khoảng 1.000 tấn neodymium-sắt hàng năm. Theo công ty, nam châm boron từ các nguyên tố đất hiếm được khai thác và tinh chế tại các cơ sở của Mountain Pass. Sletcher lưu ý rằng do thị trường quốc phòng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nhu cầu về đất hiếm của Hoa Kỳ - khoảng 5% - nên công ty đang tìm cách giải quyết các nhu cầu trong ngành thương mại trước tiên. Theo báo cáo của công ty nghiên cứu độc lập Adamas Intelligence, nhu cầu toàn cầu về oxit đất hiếm được dự báo sẽ tăng gấp ba lần từ 15 tỷ USD vào năm 2022 lên 46 tỷ USD vào năm 2035. Đất hiếm hiện tập trung nhiều nơi ở Hoa Kỳ và hiện đang được khai thác ở: North Dakota, West Virginia, Appalachian Basin — North (Kentucky, Maryland, Ohio, Pennsylvania and West Virginia), Appalachian Basin — Central (Kentucky, Tennessee, Virginia and West Virginia), Appalachian Basin — South (Alabama, Georgia and Tennessee), San Juan River-Raton-Black Mesa Basin (Arizona, Colorado and New Mexico), Illinois Basin (Kentucky, Illinois, Indiana and Tennessee), Williston Basin (Montana, North Dakota and South Dakota), Powder River Basin (Montana and Wyoming), Uinta River Basin (Colorado and Utah): University of Utah (Salt Lake City, Utah), Green River — Wind River Basin (Colorado and Wyoming), Gulf Coast Basin (Alabama, Arkansas, Georgia, Louisiana, Mississippi and Texas), Alaska (Alaska): University of Alaska Fairbanks (Fairbanks, Alaska) 1- Kết luận Tại hội nghị thượng đỉnh các nước G7 ở Hiroshima, Nhật từ 19 đến 21 tháng 5, 2023, bà Ursula von der Leyen, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu (EC) , đã nhấn mạnh cần phải hợp tác với những đối tác và các quốc gia có tầm nhìn chung để “giảm thiểu sự phụ thuộc của chúng ta vào Trung Cộng” ở một số lĩnh vực then chốt, trong đó có đất hiếm. Ngày 18/5/2023, Bộ Tài nguyên của Australia, là khách mời tham dự G7 tương tự như Việt Nam, đã ra thông báo chính sách tài trợ cho ngành khai thác mỏ, trong đó có chiến lược khai thác đất hiếm, nhằm giảm thiểu các rủi ro về chủ quyền và tăng cường năng lực cho chuỗi cung ứng của các lĩnh vực sản xuất. Trong thời đại của nền kinh tế công nghệ cao cấp, các nguyên tố đất hiếm có mặt khắp mọi sản phẩm công nghiệp như xe hơi, điện thoại di động, vệ tinh, động cơ, tên lửa dẫn đường bằng tia laser, một số linh kiện dùng trong kỹ nghệ tình báo và quân sự như trong động cơ và các thiết bị điện tử của mỗi chiếc máy bay chiến đấu F-35 Lightning II thế hệ mới nhất của Hoa Kỳ có khoảng 450 kg nguyên tố đất hiếm và dĩ nhiên, không cần công bố chi tiết chính xác … Khai thác đất hiếm và công cuộc bảo vệ môi trường trong quá trình tinh chế đất hiếm đòi hỏi các kỹ năng khoa học kỹ thuật cao và cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Từ một nguồn đất thô và phải qua nhiều giai đoạn tinh lọc, tinh chế…, phát thải một số lượng quá lớn phế thải độc hại lỏng, rắn, và khí. Các công ty Hoa Kỳ, chỉ vì chú trọng vào hiệu quả kinh tế hơn vấn đề an ninh quốc phòng, cho nên trước một phí tổn rất lớn do EPA quy định trong việc thanh lọc phế thải, người Mỹ đã từng ngủ một giấc ngủ dài trong việc tinh chế các đất hiếm nầy. Ngược lại, TC với quyết tâm đại hán, muốn trở thành bá chủ toàn cầu, vì vậy họ xem nhẹ việc bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn sống của hơn 1,4 tỷ người Tàu nhằm sản xuất đất hiếm và làm ngơ việc thanh lọc phế thải lỏng. Nên nhớ, sản xuất chỉ 1kg đất hiếm, phát thải ra hàng chục ngàn lít phế thải lỏng độc hại…cần phải thanh lọc. Cuộc chiến về đất hiếm giữa TC và Mỹ đang lần lần được cân bằng sau cuộc chiến cấm vận của Hoa Kỳ và TC, cũng như thương chiến về đất hiếm khơi nguồn từ tranh chấp giữa Nhật và TC năm 2010. Vấn đề là, đất hiếm một khi đã được tinh luyện rồi cần phải…được dùng để sản xuất những sản phẩm “công nghệ tối tân” nhằm phục vụ trong công kỹ nghệ quốc phòng, y tế, không gian v.v…chứ không nhằm để xuất cảng như hầu hết đất hiếm của TC. Và, về điểm trên, Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế, vì TC không đủ khả năng để chạy theo các tiến bộ khoa học - kỹ thuật của HK. Nên nhớ, dưới thời TT Reagan, chì vì chạy theo chính sách không gian của Mỹ, mà Liên Sô bị hụt hơi và “tự” bứt từ vào năm 1991. Và cũng cần nên nhớ, tuy Trung Cộng được xem như một nhà máy cung ứng cho toàn cầu …với giá rẻ, nhưng chưa bao giờ có đủ linh kiện “tự sáng chế” để hoàn tất 100% một sản phẩm cao cấp nào cả, từ những mặt hàng công nghệ tiêu dùng hay trong lãnh vực quân sự hoặc quốc phòng hay không gian! Sẽ còn lâu lắm Trung Cộng mới có khả năng đuổi kịp thế giới tự do. Có chăng là Trung Cộng sẽ bị xẻ ra làm sáu mãnh do những mâu thuẫn chủng tộc tiềm ẩn dưới ách cai trị độc đoán của Hán tộc. Gương Liên Sô cũ hãy còn sờ sờ trước mắt. Chờ xem.

Saturday, March 1, 2025

LAO-TRUNG LÃNH-VẬN 73 Nói về Cụ Trần Văn Hương, một nhân sĩ miền Nam, có lẽ Cụ là người duy nhứt đã dự phần trong suốt cuộc ba đào ở miền Nam trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước. Từ một Ông thầy giáo, qua một Ông Đô trưởng, rồi lại thành Ông “phạm nhơn”, bước lên làm Ông Thủ tướng, rồi Ông Phó Tổng Thống, sau cùng làm Ông Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa… Một giai đoạn xuyên suốt chiều dài của một đời người quyện cùng những nét nhạc trầm bổng của quê hương, nhưng buồn nhiều hơn vui! Đó chính là Cụ Trần Văn Hương. Cụ Trần Văn Hương sinh ngày 01 tháng 12 năm 1902 tại làng Long Châu, quận Châu Thành (nay là thành phố Vĩnh Long), tỉnh Vĩnh Long trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Collège ĐỌC THI PHẨM “LAO-TRUNG LÃNH VẬN” “Nhắn ai muốn học vào đây học: Phong-độ nhà lao có dễ đâu!” (CTT Trần Văn Hương)

Thursday, February 27, 2025

Dân chủ hóa Việt Nam Cộng sản Bắc Việt có thể thay đổi từ một chế độ độc tài thành một thể chế dân chủ hay không? Nghị quyết 36 ra đời từ năm 2004 và vừa qua, 2024, Nghị quyết 1336 lại xuất hiện nhằm mục tiêu mời gọi/ru ngủ người Việt hải ngoại về đóng góp/giúp nước... Chính TBT CS vừa nhắc đến thành phố Saigon mà vào thập niên 60 ở thế kỷ trước người dân Tân gia Ba mơ ước được sang Bịnh viện Chợ Rẫy để chữa bịnh...mà tại sao ngày nay, đại gia CSBV lại chạy qua Singapore để chữa bịnh? Nhắc nhở và ca ngợi Sài Gòn phải chăng là liều thuốc độc bọc đường cho một số nhẹ dạ ở hải ngoại... mơ ước trở về đóng góp? Xin đừng ảo tưởng! Vì sao? Việc Đảng Cộng sản Bắc Việt chuyển đổi từ một chế độ chuyên chính vô sản sang một thể chế dân chủ là một câu hỏi lớn, một tiến trình phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế và xã hội. Về lý thuyết, không có gì là không thể, nhưng thực tế sẽ phụ thuộc vào nhiều điều kiện. 1- Những yếu tố có thể thúc đẩy sự chuyển đổi Áp lực từ bên trong, nếu nhu cầu dân chủ hóa đến từ người dân và trong nội bộ đảng gia tăng về sự chuyển hóa sang dân chủ… việc cải cách có thể diễn ra. Các thay đổi có thể bắt đầu từ việc mở rộng quyền tự do ngôn luận, thảo luận chính trị hai chiều trong nội bộ Đảng, hoặc cho phép các tổ chức chính trị ngoài Đảng hoạt động. Còn áp lực từ bên ngoài do Việt Nam đang có nền kinh tế hội nhập sâu với thế giới, nếu các đối tác kinh tế lớn đặt điều kiện dân chủ hóa để tiếp tục hợp tác, có thể sẽ có những thay đổi dần dần. Tấm gương từ các nước khác như một số nước từng có hệ thống chính trị tương tự đã có sự chuyển đổi, như Đài Loan hay Hàn Quốc, cho thấy mô hình chuyển đổi ôn hòa là có thể xảy ra. 2- Những yếu tố cản trở dân chủ hóa của CSBV 2.1- Tính chính danh của Đảng: Đảng Cộng sản BV từ lâu đã khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, và việc chuyển đổi sang mô hình dân chủ sẽ ảnh hưởng đến quyền lực và quyền lợi của Đảng. Đo đó, với định kiến trên, CSBV khó có thể rũ bỏ giáo điều cố hữu dù đang bị nhiều sức ép của người dân trong nước và thế giới. 2.2- Lợi ích nhóm: Nhiều nhóm lợi ích có thể không muốn thay đổi vì họ đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại. Đang thừa hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi, đa số đảng viên cao cấp khó có thể từ bỏ … miếng ăn béo bở nầy. 2.3. Sự ổn định xã hội: Hiện tại, dưới mắt người CS, xã hội đang ổn định qua trên hàng triệu công an kềm kẹp 100 triệu người dân thì những thay đổi chính trị lớn có thể kéo theo bất ổn, điều mà nhà nước CS luôn muốn tránh. 3- Xác suất có thể xảy ra cuộc dân chủ hóa ở Việt Nam Một sự chuyển đổi ngay lập tức hoặc hoàn toàn sang một thể chế dân chủ theo kiểu phương Tây là rất khó, nếu không nói là … vô vọng. Tuy nhiên, Việt Nam có thể đi theo hướng cải cách từng bước, mở rộng quyền tự do chính trị và dần dần phát triển một hệ thống có tính cạnh tranh hơn nhưng vẫn giữ được sự kiểm soát của Đảng trong một thời gian dài. Nói như thế có nghĩa là, CSBV thỉnh thoảng có thể mở một vài “nút nghẽn” cho người dân cảm thấy … họ đang dân chủ hóa nhằm hóa giải sự uất nghẹn do chuyên chính vô sản tạo ra! Như vậy, có phải họ đang nghĩ theo não trạng là nếu thay đổi họ sẽ bị diệt hay bị trả thù như họ đã làm với Việt Nam Cộng Hòa ngay sau 30/4/1975? Có thể có một bộ phận (lớn/nhỏ?) trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản BV lo sợ rằng nếu họ chấp nhận một sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ đa đảng, họ có thể đối mặt với nguy cơ bị trả thù hoặc bị loại bỏ, giống như cách mà họ đã làm đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975. 4- Những lý do có thể dẫn đến nỗi sợ dân chủ hóa Nếu xét về quá trình lịch sử và tiền lệ của đảng CSBV, sau năm 1975, chính quyền mới đã có những biện pháp mạnh tay như cải tạo tư sản, trại cải tạo tập trung, tịch thu tài sản, đổi dân ra khỏi thành phố v.v… điều này có thể khiến một số người trong bộ máy lãnh đạo tin rằng nếu phe đối lập một khi có cơ hội nắm quyền, họ cũng có thể làm điều tương tự đối với Đảng Cộng sản BV. Chúng ta thừa biết bản chất của quyền lực độc quyền của CSBV là khi một hệ thống chính trị được xây dựng trên sự kiểm soát tuyệt đối, sự thay đổi lớn có thể kéo theo nguy cơ mất quyền lực hoàn toàn. Các lãnh đạo có thể nghĩ rằng nếu họ mất quyền lực, họ sẽ không có sự bảo vệ và tự bảo vệ làm họ có thể bị trừng phạt vì những gì họ đã làm cho miền Nam trong quá khứ. Thêm nữa, nỗi ám ảnh lo sợ về sự bất ổn và an toàn bản thân nếu hệ thống chính trị thay đổi đột ngột, có thể xảy ra hỗn loạn hoặc trả thù chính trị mà chính họ là những nạn nhân đầu tiên. Vì vậy, một số lãnh đạo có thể tin rằng cách duy nhất để bảo đảm sự ổn định là duy trì quyền kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, không phải ai trong nội bộ lãnh đạo cũng nghĩ như vậy • Cũng có những người trong hệ thống muốn cải cách dần dần để thích nghi với một xã hội hiện đại và hội nhập. • Một số nước từng có chế độ độc đảng nhưng đã chuyển đổi thành công mà không có sự trả thù lớn, chẳng hạn như Đài Loan, nơi Quốc Dân Đảng dần dần chấp nhận dân chủ hóa mà không bị diệt vong. • Nếu có một lộ trình chuyển đổi hợp lý và có sự vận động của quốc tế, bảo đảm sự an toàn cho giới lãnh đạo hiện tại, thì sự thay đổi có thể diễn ra một cách ôn hòa hơn. 5- Chuyển đổi tiệm tiến dân chủ hóa có thể có tính cách khả thi hơn cả không? Quả thật vậy! Nếu có một sự thay đổi đất nước, khả năng cao nhất là nó sẽ diễn ra theo cách tiệm tiến, từng bước một, thay vì một cuộc thay đổi đột ngột và toàn diện. Lý do: - Giảm rủi ro bất ổn: Một sự thay đổi đột ngột có thể dẫn đến hỗn loạn, trong khi thay đổi dần dần giúp xã hội và bộ máy nhà nước thích nghi mà không gây cú sốc lớn. - Giữ được sự kiểm soát nhất định: Đảng có thể thử nghiệm những cải cách chính trị từng bước, như mở rộng quyền tự do ngôn luận, cho phép cạnh tranh chính trị trong nội bộ, hoặc cho phép một số tổ chức chính trị không thuộc Đảng hoạt động nhưng vẫn trong khuôn khổ. Chấp nhận đa nguyên đa đảng. - Học hỏi từ các nước khác: Các quốc gia như Đài Loan, Hàn Quốc đã chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ theo cách từng bước, tránh được xung đột lớn, và có phát triển theo chiều hướng bền vững và kinh tế tiến triển nhanh. Chỉ trong vòng 50 năm hai quốc gia trên đã nằm trong danh sách 20 quốc gia “giàu” trên thế giới - Thay đổi tiệm tiến có thể là giảm nỗi sợ của giới lãnh đạo: Nếu có một cơ chế bảo đảm cho những người đang nắm quyền rằng họ sẽ không bị trả thù hay loại bỏ hoàn toàn, họ có thể sẵn sàng chấp nhận thay đổi hơn! 6- Tiến trình thay đổi tiệm tiến có thể diễn ra như thế nào? • Giai đoạn 1: Mở rộng quyền tự do báo chí, giảm kiểm duyệt trên truyền thông, truyền thanh, truyền hình. “Cỡi trói” trên mạng lưới toàn cầu v.v… • Giai đoạn 2: Cải cách hệ thống bầu cử trong nội bộ Đảng, có thể có nhiều ứng viên “độc lập và ngoài đảng” hơn. • Giai đoạn 3: Cho phép tổ chức chính trị không thuộc Đảng tham gia vào một số lĩnh vực bắt đầu từ chuyên môn, khoa học kỹ thuật. Lần lần mở rộng sang lĩnh vực quản lý kinh tế, chính trị, cùng tham gia vào việc điều hành quốc gia. • Giai đoạn 4: Tiến tới một hệ thống cạnh tranh chính trị thực sự nhưng vẫn bảo đảm tính ổn định xã hội. Tất nhiên, trên đây chỉ là giả thuyết. Mọi chuyện còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, từ ý chí lãnh đạo, sức ép từ xã hội đến tình hình thế giới cũng như phản ứng cứng rắn và dứt khoát của nhóm bảo thủ trong đảng. Có thể nói dù cho dân chủ hóa một cách tiệm tiến, nhóm bảo trủ trong đảng chắc chắn sẽ ngăn chặn lại vì họ nghĩ sẽ bị mất đặc quyền đặc lợi nếu chuyển sang dân chủ và nhân quyền? Làm sao triệt tiêu được những nhóm có suy nghĩ nầy vì trong suốt chiều dài lịch sử Đảng CS Bắc Việt từ những năm 1930 trở đi, trong hiện tại thiết nghĩ những người CS giáo điều sẽ không “đầu hàng” và sẽ dứt khoát chống lại. Đặc biệt là những người đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại, sẽ là rào cản lớn đối với bất kỳ sự thay đổi nào. Họ chống lại cải cách vì lo sợ mất quyền lực, lợi ích kinh tế và sự an toàn cá nhân. 7- Làm sao để vô hiệu hóa hoặc vượt qua nhóm giáo điều bảo thủ nầy? 7.1- Tạo áp lực từ bên trong Đảng: Trong Đảng không chỉ có nhóm bảo thủ mà còn có những người muốn cải cách để thích nghi với một xã hội đang thay đổi. Một khi số người muốn cải cách tăng cao. Từ đó có thể tăng thêm sức ép, khóa tay, và áp đảo số bảo thủ giáo điều. Nếu nhóm cải cách có đủ sức mạnh, họ có thể dần dần làm suy yếu ảnh hưởng của phe bảo thủ bằng cách thúc đẩy các chính sách đổi mới từng bước. 7.2- Áp lực từ người dân và xã hội: Một khi dân trí ngày càng cao và xã hội ngày càng cởi mở hơn, áp lực lên giới cầm quyền cũng tăng. Nếu tầng lớp trung lưu, doanh nhân, trí thức cùng đòi hỏi thay đổi, nhóm bảo thủ sẽ khó có thể hoàn toàn phớt lờ. Mạng xã hội, và truyền thông quốc tế cũng có thể giúp tạo ra áp lực gián tiếp lên chính quyền. 7.3- Lợi ích kinh tế buộc phải cải cách: Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế. Nếu các nước đối tác (Mỹ, EU, Nhật...) gây sức ép, buộc Việt Nam phải cải cách chính trị để tiếp tục hưởng lợi kinh tế, điều này sẽ làm lung lay vị trí của nhóm bảo thủ. Một số doanh nghiệp trong nước cũng có thể ủng hộ cải cách vì họ muốn một môi trường kinh doanh minh bạch hơn, không đặt trọng tâm vào sự quen biết (quyền lực) và đúc lót. 7.4- Bảo đảm an ninh/an toàn cho nhóm bảo thủ nếu chấp nhận chuyển đổi Một trong những lý do nhóm bảo thủ chống lại cải cách là họ sợ mất tất cả. Nếu có cơ chế đảm bảo an toàn cá nhân, tài sản, họ có thể chấp nhận và ít chống cự hơn. Điển hình là Đài Loan và Chile từng có những chính sách giúp giới cầm quyền cũ giữ lại một phần ảnh hưởng hoặc không bị truy tố sau khi chuyển đổi. Và cuối cùng giới nầy cũng sống trong xã hội an toàn trong những ngày cuối đời của họ! 7.5- Sử dụng chiến lược "chia để trị" Nên nhớ, nhóm bảo thủ giáo điều không phải là một khối đồng nhất. Nếu có thể làm suy yếu họ bằng cách chia rẽ thành các phe nhóm nhỏ hơn (ví dụ: một số người có thể bị thuyết phục tham gia cải cách để giữ vị trí), thì sự kháng cự sẽ giảm lần lần và đi đến bị triệt tiêu.Hình ảnh TBT Nguyễn Phú Trọng đã được Tô Lâm “so kè” ... theo đuôi như kẻ thừa hành. Rốt cục rồi chính Tô Lăm du81t điểm NPT (?) và mỡ ra con đường cải cách theo ý ông ta. 8- Vậy có thể "triệt tiêu" hoàn toàn nhóm bảo thủ giáo điều cực đoan không? "Triệt tiêu" theo nghĩa loại bỏ hoàn toàn có thể không khả thi và cũng có thể gây ra hỗn loạn. Tuy nhiên, có thể làm suy yếu ảnh hưởng của họ, cô lập họ dần dần, khiến họ không còn khả năng cản trở công cuộc cải cách. Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự như Thánh Mahatma Gandhi trong việc kích động người dân không đóng thuế muối, hay những sự việc như đình công bãi thị, sinh viên học sinh bãi khóa không đến trường, công chức không làm việc, công nhân vệ sinh không hốt rác chỉ độ vài ngày thôi...Hình dung Hà Nội hay Saigon tràn ngập hàng chục ngàn tấc rác khắp nơi trong thành phố dưới mắt thế giới, câu hỏi được đặt ra là cuộc cách mạng VN có thể xảy ra dưới các hình thức kể trên hay không? 9- Những yếu tố có thể khiến cho tranh đấu bất tuân dân sự đạt hiệu quả 9.1- Sự bất mãn xã hội gia tăng: Nếu có một sự kiện lớn khiến người dân mất lòng tin vào chính quyền (như khủng hoảng kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, đàn áp thô bạo, nhứt là đàn áp tôn giáo…), thì khả năng người dân hưởng ứng một phong trào bất tuân dân sự sẽ cao hơn. Còn những yếu tố như ô nhiễm môi trường, đất đai bị tiếm dụng, giá cả sinh hoạt tăng cao có thể là chất xúc tác đẩy mạnh tiến trình tranh đấu mà thôi. 9.2- Tính tổ chức và lan tỏa: Phong trào bất tuân dân sự chỉ thành công nếu có sự tổ chức chặt chẽ và lan tỏa rộng. Nếu một nhóm nhỏ thực hiện, chính quyền có thể dễ dàng kiểm soát. Nhưng nếu nhiều tầng lớp xã hội cùng tham gia (học sinh, sinh viên, công nhân, doanh nghiệp…), áp lực sẽ rất lớn. 9.3- Sự ủng hộ của giới trí thức, doanh nhân, công nhân: Một cuộc đình công lớn trong ngành công nghiệp, bãi thị của giới thương gia, hoặc bãi khóa của sinh viên có thể gây ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế và đời sống hàng ngày. Yếu tố nầy có thể được xem như là một yếu tố quyết định vì sự phối hợp trên thể hiện mọi tầng lớp trong dân chúng, một sức mạnh tổng lực cho cuộc tranh đấu. 9.4- Tác động tâm lý: Nếu người dân thấy phong trào bất tuân dân sự có thể đạt được kết quả mà không cần bạo lực, họ sẽ có động lực tham gia nhiều hơn. Hiện nay, nhiều người còn mang tâm lý sợ hãi vì lo sợ bị đàn áp. Nhưng nếu có một phong trào được tổ chức rộng rãi, tập hợp đông đảo nhân sự tham gia, nỗi sợ hãi trên sẽ biến đi… 10- Những rào cản lớn đối với sự tranh đấu bất tuân dân sự ở Việt Nam Sự kiểm soát chặt chẽ về anh ninh - chính trị của chính quyền: Chính quyền có kinh nghiệm đối phó với các phong trào phản kháng. Họ có thể nhanh chóng đàn áp, chia rẽ, hoặc vô hiệu hóa các cuộc đình công, bãi khóa bằng cách bắt giữ người tổ chức, tạo sức ép lên doanh nghiệp, trường học...Internet và truyền thông xã hội cũng bị kiểm soát, gây khó khăn cho việc lan truyền thông tin và tổ chức phong trào. Cộng thê, sự thụ động của dân chúng. Không phải ai cũng sẵn sàng tham gia một phong trào đòi thay đổi, vì nhiều người vẫn còn tâm lý "an phận" hoặc lo sợ bị trừng phạt". Nếu không có một sự kiện lớn gây chấn động xã hội, rất khó để huy động số đông cùng tham gia. Kinh tế cá nhân bị ảnh hưởng: Nếu công nhân đình công, bãi thị kéo dài, họ cũng sẽ mất thu nhập, ảnh hưởng đến nồi cơm của gia đình họ. Đây là một lý do khiến nhiều người do dự khi tham gia. Nếu không có một nguồn hỗ trợ tài chính, phong trào dễ bị suy yếu. Nhiều người tin rằng dù bất mãn, nhưng hệ thống cầm quyền hiện tại chưa "đủ yếu để sụp đổ", nên họ không muốn mạo hiểm. 11- Kết luận: Bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam không? - Có thể xảy ra, nhưng không dễ và cần một sự kiện đột biến lớn để kích hoạt. - Nếu có đủ sự phẫn nộ xã hội, sự tổ chức chặt chẽ, và sự lan tỏa rộng rãi, một phong trào bất tuân dân sự có thể tạo áp lực rất lớn lên nhà cầm quyền. - Tuy nhiên, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, khả năng đàn áp của cường quyền vẫn rất mạnh, và phong trào có thể bị dập tắt từ trong trứng nước. Bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam trong điều kiện hiện tại (2025) nầy không? Câu trả lời là có thể, nhưng không dễ dàng và cần nhiều điều kiện thuận lợi để có thể thành công. • Bất tuân dân sự có thể xảy ra, nhưng chỉ khi có một sự kiện đủ lớn để kích hoạt sự phản kháng tập thể và một tổ chức đứng ra lãnh đạo phong trào. • Nếu không có tổ chức và kế hoạch cụ thể, phong trào có thể bị dập tắt nhanh chóng. • Hiện tại, phong trào bất tuân dân sự ở Việt Nam vẫn còn manh mún và chưa có đủ điều kiện để thành công. Công cuộc dân chủ hóa Việt Nam vào thời điểm hiện tại là một câu hỏi lớn, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chính trị, xã hội, kinh tế và quốc tế. Dưới góc nhìn thực tế, có một số lý do khiến tiến trình này khó xảy ra ngay lập tức, nhưng cũng có những động lực có thể thúc đẩy thay đổi trong dài hạn. Dân chủ hóa Việt Nam ngay lúc này là khó xảy ra vì hệ thống kiểm soát chính trị của cường quyền vẫn còn rất chặt chẽ và nền kinh tế tương đối đủ ổn định để duy trì tính chính danh của cường quyền. Tuy nhiên, trong dài hạn, sự phát triển công nghệ, áp lực từ xã hội và các yếu tố địa chính trị có thể thúc đẩy quá trình cải cách theo hướng mở hơn. Nếu có thay đổi, nó có thể diễn ra dần dần, dưới dạng các cải cách chính trị từng bước hơn là một cuộc chuyển đổi đột ngột. Trừ phi có những đột biến trên thế giới như Trung Hoa cộng sản tan rã giống như Liên Xô năm 1991 vì một khủng hoảng nội tại của quốc gia nầy. Điều nầy có xảy ra vì Trung Cộng hiện đang trong tình trạng xâu xé nội bộ, và Tập Cận Bình hiện ở trong tư thế đối đầu trực diện với thành phần trẻ và sức khỏe không ổn định do bệnh hoạn, cộng thêm sức phẫn nộ của 600 triệu dân chúng đang sống trong tình trạng kinh tế đình trệ. Chính điều sau cùng sẽ là lò thuốc súng nổ chậm vì cuộc chiến kinh tế về “giá cả và thuế khóa” với Hoa Kỳ. Tại sao chúng ta không có quyền mong ngày đó sớm xảy ra? Mai Thanh Truyết Con đường dân chủ hóa Việt Nam Houston – 3/1/2025

Saturday, February 15, 2025

Các chữ cái, tên của Vitamin tượng trưng cho điều gì? Phỏng dịch từ bài viết của tác giả Rachel Gresh dưới đây Bạn đã bao giờ tự hỏi vitamin được đặt tên như thế nào chưa? Đây là ABC của danh pháp vitamin. Đã đến lúc phá bỏ một số huyền thoại: Chữ "C" trong "vitamin C" không phải là "cam quýt", mặc dù chất dinh dưỡng này nổi tiếng là có nhiều trong các loại trái cây họ cam quýt. Khoa học bắt đầu khám phá khả năng độc đáo của vitamin cách đây khoảng 100 năm và đặt tên cho các hợp chất thiết yếu bằng cách làm nổi bật các thuộc tính và thứ tự khám phá của chúng. Năm 1920, nhà sinh hóa người Ba Lan Casimir Funk đã đặt ra thuật ngữ "vitamin", bắt nguồn từ từ tiếng Latin có nghĩa là sự sống (vita) và "amine", một hợp chất giàu nitơ (có trong chất đạm – protein, lời người dịch). Trước khi có thuật ngữ này, vào những năm 1890, một hợp chất đã được xác định có tác dụng ngăn ngừa bệnh phù thũng (tê phù) (beriberi), một căn bệnh thường gặp ở những người đi biển. Do cách ứng dụng này, cuối cùng nó được đặt tên là vitamin B. Tiếp theo vào năm 1918, vitamin A được nhà khoa học dinh dưỡng Elmer McCullum xác định là "vitamin A tan trong chất béo". Trong khi tiến hành các thí nghiệm về thực phẩm, ông đã tìm thấy một chất "phụ gia" trong một số chất béo, chọn "A" làm biệt danh của nó. Tên này được đổi thành "vitamin A" vào năm 1920 với sự ra đời của "vitamin" của Funk. Từ đó, Vitamin A và B đã thiết lập một quy ước đặt tên theo chữ cái với vitamin C, D và E theo sau theo thứ tự chữ cái và theo thứ tự khám phá. Năm 1929, nhà khoa học người Đan Mạch Carl Peter Henrik Dam đã xác định được một hợp chất mới, nếu tuân theo tiêu chuẩn, thì hợp chất này sẽ được đặt tên là "vitamin F". Tuy nhiên, Dam đã chọn "vitamin K" để chỉ từ tiếng Đan Mạch blodkoagulation (đông máu), nhấn mạnh vai trò của vitamin trong quá trình này. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã xác định được nhiều dạng vitamin khác nhau trong các danh mục chữ cái. Họ đã xác định và đánh số chúng trong vài thập kỷ tiếp theo, bắt đầu với khám phá sớm nhất, vitamin B1 hoặc thiamine, được đặt theo tên tiếng Hy Lạp của lưu huỳnh, theion. Đến những năm 1930 và 1940, 13 loại vitamin thiết yếu: A, C, D, E, K và tám loại vitamin B, đã được xác định và đặt tên. Trong đó có vitamin B7 hoặc biotin, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp biotos, có nghĩa là "sự sống", và vitamin B9 hoặc axit folic, bắt nguồn từ tiếng Latin folium, có nghĩa là "chiếc lá", ám chỉ sự phong phú của nó trong các loại rau lá xanh. Mặc dù tên của các loại vitamin có vẻ quá sức hoặc thậm chí là tùy ý khi bạn nhìn vào các hàng số và chữ cái tại hiệu thuốc, nhưng mỗi loại đều được lựa chọn cẩn thận để thể hiện thứ tự khám phá hoặc phản ánh các đặc tính độc đáo của nó. Không chỉ là một chữ cái; mà là tên của một loại vitamin phản ánh lịch sử của nó. *** What Do the Letters of Vitamins Stand For? by Rachel Gresh It’s time for some myth-busting: The “C” in “vitamin C” does not stand for “citrus,” though the nutrient is famously abundant in citrus fruits. Science began exploring the unique capabilities of vitamins around 100 years ago, and named the essential compounds by highlighting their attributes and order of discovery. In 1920, Polish biochemist Casimir Funk coined the term “vitamin,” derived from the Latin word for life (vita) and “amine,” a nitrogen-rich compound. Before this coinage, in the 1890s, a compound was identified that prevented beriberi, a disease that commonly afflicted sailors. Due to this usage, it was eventually named vitamin B. Next up in 1918, vitamin A was identified as “fat-soluble A” by nutrition scientist Elmer McCullum. While conducting food experiments, he found an “accessory” substance in some fats, choosing “A” as its epithet. The name was changed to “vitamin A” in 1920 with the coining of Funk’s “vitamin.” Vitamins A and B established an alphabetic naming convention with vitamins C, D, and E following suit alphabetically and in order of discovery. In 1929, Danish scientist Carl Peter Henrik Dam identified a new compound that, if the standard were followed, should have been named “vitamin F.” However, Dam chose “vitamin K” in reference to the Danish word blodkoagulation (blood coagulation), emphasizing the vitamin’s role in this process. Later, researchers identified various forms of vitamins within the letter categorizations. They identified and numbered them during the next few decades, beginning with the earliest discovery, vitamin B1, or thiamine, named after the Greek word for sulfur, theion. By the 1930s and 1940s, 13 essential vitamins — A, C, D, E, K, and the eight B vitamins — had been identified and named. This includes vitamin B7 or biotin, which comes from the Greek biotos, meaning “life,” and vitamin B9 or folic acid, which derives from the Latin folium, meaning “a leaf,” a nod to its abundance in green, leafy vegetables. While the names of vitamins might seem overwhelming or even arbitrary when you’re staring at the rows of numbers and letters at the drugstore, each was carefully selected to represent its order of discovery or reflect its unique properties. It’s more than just a letter; a vitamin’s name reflects its history.

Thursday, February 6, 2025

Nếu Bộ Giáo dục Liên bang bị dẹp bỏ! Sắc lịnh hành pháp của TT Trump cách đây vài ngày công bố sẽ đóng cửa (dismantle) Bộ Giáo dục Liên bang vì hai lý do chính yếu: - Tinh giản nhân viên liên bang vối đã kồng kềnh (?), - Và giảm bớt gang nặng tài chánh của liên bang. Nếu làm được điều trên, chính phủ liên bang sẽ: • Tiết kiệm được 238 tỷ cho ngân sách năm 2025. Bộ Giáo dục có 4.100 nhân viên toàn thời gian. Hơn 1000 nhân viên tại Bộ Giáo dục được trả hơn 160.000 đô la một năm. 90 nhân viên kiếm được hơn 200.000 đô la một năm, gấp bốn lần mức lương trung bình của một giáo viên. • Bộ Giáo dục liên bang đang làm gì? Không làm gì cả, ngoài các lệnh tạp nhạp như dạy sinh lý cho học sinh mẫu giáo, phát tán sách khiêu dâm, cho Nam được phép dùng cầu tiêu nữ, để bao cao su hay băng vệ sinh trong nhà cầu Nam.. Dẹp bộ giáo dục liên bang, giao chuyện quản lý giáo dục cho bộ giáo dục tiểu bang là điều hợp lý. 1- Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Bộ GDLB bị dẹp bỏ? Nếu có một sắc lệnh hành pháp nhằm dẹp bỏ Bộ Giáo dục Liên bang (U.S. Department of Education), điều nầy sẽ là một bước đi gây tranh cãi lớn, với nhiều tác động quan trọng đến hệ thống giáo dục Mỹ. 1.1- Lợi ích có thể có: Tăng quyền tự chủ cho tiểu bang và địa phương: Một số người cho rằng giáo dục nên do các tiểu bang và địa phương quyết định, vì họ hiểu rõ nhu cầu của cộng đồng tại mỗi địa phương hơn là chính phủ liên bang. Giảm chi phí hành chính: Việc cắt giảm một cơ quan liên bang có thể giúp tiết kiệm ngân sách và giảm bớt quan liêu. Giảm sự can thiệp của chính phủ liên bang: Một số người tin rằng chính phủ liên bang áp đặt quá nhiều quy định và tiêu chuẩn cứng ngắt, gây khó khăn cho các trường học địa phương. 1.2- Những vấn đề tiềm ẩn: Gây hỗn loạn trong hệ thống giáo dục: Bộ Giáo dục liên bang đóng vai trò trong việc điều phối chính sách, hỗ trợ tài chính, và bảo đảm phẩm chất giáo dục. Nếu bị loại bỏ đột ngột, nhiều chương trình có thể bị ảnh hưởng. Giảm ngân sách cho các trường học nghèo: Bộ Giáo dục liên bang cấp nhiều khoản tài trợ cho các trường học có thu nhập thấp, học sinh khuyết tật, và chương trình hỗ trợ sinh viên. Nếu bị dẹp bỏ, ai sẽ đảm trách các nguồn tài trợ này tiếp tục được phân bổ hợp lý, điều mà các học khu hay chính phủ tiểu bang hay địa phương kho cáng đáng được. Thiếu tiêu chuẩn thống nhứt quốc gia: Quan trọng hơn hết, Hiện tại, Bộ GDLB giúp duy trì một số tiêu chuẩn chung toàn quốc, ví dụ như bảo vệ quyền lợi sinh viên hoặc yêu cầu trách nhiệm giải trình từ các trường học. Nếu quyền lực hoàn toàn thuộc về các tiểu bang, phẩm chất giáo dục sẽ rất phức tạp khó tạo sự đồng nhứt vì điều kiện xã hội ở mỗi địa phương hay tiểu bang khác nhau về giàu-nghèo. sắc tộc và văn hóa dị biệt v.v… Tóm lại, việc dẹp bỏ Bộ Giáo dục liên bang có thể làm tăng quyền tự quản của các tiểu bang, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ gây mất cân bằng giáo dục và giảm hỗ trợ cho những nhóm học sinh yếu thế, những con em đến từ các quốc gia khác trên thế giới không cùng một ngôn ngữ. Nếu có một lệnh như vậy, điều quan trọng là phải có một kế hoạch thay thế rõ ràng để bảo đảm giáo dục không bị gián đoạn và quyền lợi của học sinh vẫn được bảo vệ. Tổng thống Donald Trump đang soạn thảo một sắc lệnh hành pháp nhằm giải thể Bộ Giáo dục Liên bang. Kế hoạch này bao gồm hai giai đoạn: • Yêu cầu Bộ trưởng Giáo dục lập kế hoạch giảm nhân sự thông qua các biện pháp hành pháp. • Thúc đẩy Quốc hội thông qua dự luật chính thức giải thể Bộ Giáo dục, vì việc đóng cửa hoàn toàn cơ quan này cần có sự chấp thuận của Quốc hội. Tuy nhiên, việc giải thể Bộ Giáo dục liên bang sẽ gặp nhiều thách thức, do cần phải có sự đồng thuận từ Quốc hội và có thể đối mặt với sự phản đối từ các tiểu ban quốc hội liên quan trong lĩnh vực giáo dục. 2- Hệ quả trước mắt và lâu dài lên giáo dục Mỹ sẽ như thế nào? Nếu Bộ Giáo dục Liên bang bị dẹp bỏ, hệ quả đối với hệ thống giáo dục Mỹ sẽ diễn ra theo hai giai đoạn, trước mắt và lâu dài. 2.1- Hệ quả trước mắt Gián đoạn ngân sách và hỗ trợ tài chính từ liên bang: Bộ GDLB cung cấp hàng chục tỷ USD tài trợ cho các trường học, đặc biệt là các trường có tỷ lệ học sinh có thu nhập thấp. Các chương trình hỗ trợ sinh viên, như Pell Grants hay các khoản vay liên bang, có thể bị trì hoãn hoặc mất đi nếu không có kế hoạch thay thế rõ ràng. Mất điều phối giáo dục cấp liên bang: Hiện tại, Bộ Giáo dục đảm nhận vai trò giám sát chính sách và tiêu chuẩn giáo dục toàn quốc. Nếu bị giải thể, mỗi bang sẽ có quyền tự quyết, có thể dẫn đến sự hỗn loạn tạm thời khi các bang tìm cách quản lý giáo dục theo cách riêng. Các chương trình liên bang như hỗ trợ giáo viên, chương trình giáo dục đặc biệt (IDEA), và các sáng kiến giáo dục STEM có thể bị ngừng hoặc giảm hiệu lực vì không có ngân sách của liên bang. Tác động đến học sinh khuyết tật và các nhóm học sinh yếu kém: Luật giáo dục đặc biệt (IDEA) và Đạo luật Không để học sinh nào bị bỏ lại phía sau (NCLB) phụ thuộc phần lớn vào sự giám sát của Bộ GDLB. Nếu không có sự điều phối từ liên bang, quyền lợi của học sinh khuyết tật, học sinh da màu, và học sinh có hoàn cảnh khó khăn có thể bị đe dọa khi các bang có cách tiếp cận khác nhau đối với các nhóm này. 2.2- Hệ quả lâu dài Phẩm chất giáo dục sẽ không đồng đều giữa các tiểu bang: Nếu không có tiêu chuẩn liên bang, các bang có thể tự quyết định nội dung giảng dạy, tiêu chuẩn đánh giá và yêu cầu tốt nghiệp. Điều này có thể dẫn đến sự phân hóa lớn trong phẩm chất giáo dục giữa các tiểu bang giàu và nghèo, làm trầm trọng hơn vấn đề bất bình đẳng giáo dục trên toàn quốc. Giảm khả năng tiếp cận giáo dục đại học: Hệ thống hỗ trợ tài chính sinh viên có thể bị thu hẹp hoặc chuyển sang mô hình tư nhân, khiến học phí đại học tăng cao hơn và làm giảm cơ hội tiếp cận của sinh viên có thu nhập thấp. Nhiều trường đại học phụ thuộc vào tài trợ liên bang để duy trì học bổng và chương trình hỗ trợ sinh viên. Nếu mất đi nguồn này, chi phí học tập sẽ tăng vọt làm cho sĩ số sinh viên giảm. Từ đó, đại học mất d8i nguồn tài chánh để điều hành và mời gọi những giao sư có tầm vóc để giảng dạy và làm tăng uy tín của trường. Ảnh hưởng đến nghiên cứu và phát triển giáo dục: Bộ Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ nghiên cứu giáo dục và phát triển phương pháp giảng dạy mới. Việc loại bỏ cơ quan này có thể làm giảm nguồn tài chánh cho nghiên cứu giáo dục, ảnh hưởng đến khả năng đổi mới và nâng cao phẩm chất dạy học trên toàn quốc. Ảnh hưởng đến vị thế giáo dục Mỹ trên thế giới: Mỹ hiện đang dẫn đầu về giáo dục đại học, nhưng nếu hệ thống K-12 trở nên kém đồng nhất và kém trình độ, thế hệ sinh viên tương lai có thể không còn đủ sức cạnh tranh với các nước khác. Điều đó có thể khiến Mỹ sẽ bị thụt lùi trong các lĩnh vực về phát kiến và công nghệ so với các quốc gia như TC, Đức, hay Nhựt! 3- Quan điểm của người viết Nếu Bộ Giáo dục liên bang bị dẹp bỏ mà không có kế hoạch thay thế phù hợp, hệ thống giáo dục Mỹ sẽ đối mặt với tình trạng hỗn loạn trước mắt và suy giảm chất lượng lâu dài, đặc biệt đối với học sinh nghèo, học sinh khuyết tật và sinh viên đại học. Tuy nhiên, nếu các tiểu bang có thể tự điều hành hiệu quả và tìm ra nguồn ngân sách thay thế, một số khu vực có thể hưởng lợi từ quyền tự chủ lớn hơn. Do đó, quyết định loại bỏ Bộ GDLB là một quyết định cần phải cân nhắc hết sức kỷ lưỡng. Một quyết định “trung dung” là chính phủ liên bang cần nên điều nghiên nhiều chi tiết và dữ kiện hơn nữa như việc cải tổ gánh nặng hành chính của Bộ Giáo dục Liên bang cần một chiến lược toàn diện để giảm thiểu bộ máy quan liêu, tăng cường hiệu quả hoạt động và tập trung nhiều hơn vào việc hỗ trợ giáo dục có phẩm chất cao. Dưới đây là một số biện pháp mà chính phủ liên bang có thể thực hiện: Đơn giản hóa thủ tục và quy định: Cắt giảm các quy định phức tạp, không cần thiết đối với trường học, giáo viên và sinh viên. Hợp lý hóa các nhu cầu về báo cáo để giảm gánh nặng hành chính cho các cơ sở giáo dục trung ương và địa phương. Trao quyền nhiều hơn cho tiểu bang và địa phương: Chuyển giao một số trách nhiệm của Bộ GDLB cho các tiểu bang, các ty giáo dục (school district), và trường học, giúp họ tự chủ hơn trong việc quản lý giáo dục. Chánh phủ cần điều nghiên việc cung cấp tài trợ theo kiểu khối (block grants) thay vì tài trợ theo chương trình, giúp các địa phương linh hoạt sử dụng nguồn lực. Chính điều nầy sẽ làm giảm bớt nhân viên/chuyên viên trong việc điều hợp. Tối ưu hóa quy trình cấp học bổng và hỗ trợ tài chính: Đơn giản hóa quy trình đăng ký FAFSA (Free Application for Federal Student Aid) để sinh viên dễ tiếp cận hơn. Tinh giản số lượng chương trình hỗ trợ chồng chéo lẫn nhau nhằm tập trung vào các quỹ tài trợ thực tế, hợp lý và có hiệu quả hơn. Ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu suất: Áp dụng AI và tự động hóa để thanh lý hồ sơ nhanh hơn, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhân viên giáo dục. Cộng thêm việc khai triển các khung giảng dạy trên Zoom hay mạng trực tuyến giúp giáo viên, phụ huynh và sinh viên truy cập giáo trình hay trực tiếp hấp thụ từ giảng viên dễ dàng hơn. Cải tổ cơ cấu nhân sự và ngân sách: Cần tái cấu trúc bộ máy nhân sự để giảm số lượng vị trí hành chính không cần thiết cũng như cắt giảm các chương trình kém hiệu quả để tập trung ngân sách vào cải thiện phẩm chất giáo dục. Đối với các trường tư lập: Vì chủ trương của Hoa Kỳ là giáo dục tự trị, cho nên viêc xen vào giáo án, giáo trình, cũng như chương trình học ở mỗi nơi là một vấn đề cấm kỵ. Nhưng khi nhìn lại xã hội Mỹ trong vòng 10 năm trở lại đây, nhứt là trong giới sinh viên đã được “nhồi nhét” vào nhiều tư tường quá “tiến bộ”(?) khiến cho con đường giáo dục Mỹ hiện tại đã đi nhiều bước quá xa vì những khuynh hướng của giảng viên thiên về chính trị, tôn giáo, giới tính quá tự do đôi khi làm mất tính nhân bản của đời thường”, đi đến không tưởng, không ứng hợp với khoa học và thực tế. Xin đề nghị chính phủ liên bang động não nhằm giảm bớt hay chấm dứt những hiện tượng trên hầu tái lập quy củ của Đại học nhưng không vi phạm chủ trương … tự trị đại học Tất cả việc cải tổ đề nghị trên không chỉ giúp giảm gánh nặng hành chính mà còn nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dục liên bang, tạo ra môi trường học tập tốt hơn cho học sinh, sinh viên và giảng viên, và nhứt là xây dựng lại một xã hội nhân bản ở Hoa Kỳ. Mai Thanh Truyết Cựu Giảng sư, Trưởng ban Hóa học Đại học Sư Phạm Saigon trước 1975 Houston 6/2/2025

Wednesday, February 5, 2025

Những lý do hành pháp TT Trump ra lệnh cải tổ CDC và rút khỏi WHO Vào ngày 26/1/2025, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã yêu cầu toàn bộ nhân viên lập tức ngừng hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), theo các thông báo nội bộ được công bố. Theo một văn bản do ông John Nkengasong, một quan chức cao cấp của CDC, gửi tới lãnh đạo cơ quan, tất cả nhân viên đang làm việc với WHO dưới mọi hình thức, bao gồm các nhóm chuyên gia kỹ thuật, trung tâm điều phối, hội đồng tư vấn, thỏa thuận hợp tác hoặc các hình thức trực tiếp và trực tuyến, đều phải tạm ngừng các hoạt động ngay lập tức và "chờ hướng dẫn thêm". Lệnh này cũng cấm các nhân viên CDC đến thăm trụ sở hoặc văn phòng WHO. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC). Quyết định trên được đưa ra sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành một sắc lệnh hành pháp để bắt đầu quá trình rút Mỹ khỏi WHO. Tuy nhiên, việc này không thể diễn ra ngay lập tức vì cần Quốc hội phê chuẩn, đồng thời Mỹ phải thông báo trước một năm và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với WHO trong năm tài chính hiện tại. Các chuyên gia y tế cảnh báo rằng hành động bất ngờ này có thể làm chậm trễ các nỗ lực quốc tế trong việc kiểm soát các đợt bùng phát của virus Marburg, bệnh đậu mùa khỉ ở châu Phi, cũng như nhiều nguy cơ y tế khác trên toàn cầu. Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng hợp tác của các cơ quan y tế trong việc theo dõi những đợt bùng phát cúm gia cầm ở Mỹ. TS Jeffrey Klausner, chuyên gia tại Đại học Nam California, nhận định rằng việc ngừng trao đổi với WHO là một vấn đề lớn. Ông nhấn mạnh rằng hợp tác với WHO mang lại lợi ích đôi bên, với những thông tin thu được có thể giúp bảo vệ người dân Mỹ cả trong nước lẫn ngoà i nước. Chính quyền TT Donald Trump đã đưa ra một số quyết định ảnh hưởng đến hoạt động của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC). Cụ thể nhứt, CDC đã được yêu cầu rút lại các bài báo khoa học có sự tham gia của các nhà nghiên cứu của họ, nhằm loại bỏ những ngôn ngữ không phù hợp với sắc lệnh hành pháp công nhận chỉ có hai giới tính: nam và nữ. Các thuật ngữ như "giới tính", "chuyển giới", "LGBT" và "phi nhị nguyên" bị yêu cầu loại bỏ. (LGBT là viết tắt của Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender, tức là những người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới. Thuật ngữ này đại diện cho một cộng đồng những người có xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới không phải là dị tính hay theo giới tính sinh học thông thường. Phi nhị nguyên (Non-binary) là một thuật ngữ dùng để chỉ những người không xác định bản dạng giới của mình là hoàn toàn nam hoặc nữ. Họ có thể cảm thấy mình thuộc cả hai giới, nằm giữa hai giới, hoặc không thuộc bất kỳ giới nào. Một số thuật ngữ liên quan khác có thể bao gồm genderqueer, genderfluid, agender... Những người phi nhị nguyên thường không tuân theo các chuẩn mực giới truyền thống.) Ngoài ra, các nhà khoa học của CDC cũng được chỉ đạo rút tên khỏi các bài báo đồng tác giả với các tổ chức bên ngoài. Các chuyên gia y tế công cộng và biên tập viên tạp chí đã chỉ trích động thái này, cho rằng nó có thể cản trở việc đáp ứng nhu cầu y tế của các nhóm dân số đa dạng và đặt ra câu hỏi về tính hợp pháp của nó. Bên cạnh đó, chính quyền đã tạm thời ngừng các thông báo công khai từ các cơ quan y tế liên bang, yêu cầu phải có sự phê duyệt từ một quan chức được bổ nhiệm chính trị trước khi công bố. Việc này ảnh hưởng đến các thông tin từ CDC, Viện Y tế Quốc gia (NIH) và Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), bao gồm các ấn phẩm như Báo cáo Hàng tuần về Bệnh tật và Tử vong của CDC. Mặc dù có một số ngoại lệ cho các chức năng quan trọng, động thái này đã gây lo ngại về việc có thể làm chậm trễ việc truyền tải thông tin y tế công cộng quan trọng. Những động thái này phản ảnh quan điểm của chính quyền TT Trump về việc điều chỉnh các hoạt động y tế công cộng và hợp tác quốc tế theo các chính sách và ưu tiên mới. reuters.com CDC orders pullback of new scientific papers involving its researchers, source says 3 ngày trước apnews.com Trump administration freezes many health agency reports and online posts 14 ngày trước theguardian.com Travel, grant and funding cuts 'stifling' US health agencies in new Trump era 12 ngày trước 1- Những chương trình khác của CDC vẫn được giữ nguyên? Gần đây, một số chương trình và hoạt động của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã bị ảnh hưởng do các chính sách mới từ chính quyền TT Donald Trump. Cụ thể: • Gỡ bỏ dữ liệu và trang web: CDC đã tạm thời gỡ bỏ trang dữ liệu chính của mình để tuân thủ Sắc lệnh Hành pháp 14168, liên quan đến việc loại bỏ các nội dung về "ý thức hệ giới tính". Ngoài ra, các công cụ như Chỉ số Tổn thương Xã hội và Chỉ số Công bằng Môi trường cũng đã bị gỡ bỏ. • Hạn chế thông tin công khai: Chính quyền đã tạm thời ngừng các thông báo công khai từ các cơ quan y tế liên bang, bao gồm CDC, yêu cầu phải có sự phê duyệt từ một quan chức được bổ nhiệm chính trị trước khi công bố. Việc này ảnh hưởng đến các ấn phẩm như Báo cáo Hàng tuần về Bệnh tật và Tử vong của CDC. • Ngừng hợp tác quốc tế: CDC đã được yêu cầu ngừng hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bao gồm việc tham gia vào các nhóm kỹ thuật và hội đồng tư vấn. Quyết định này được đưa ra sau khi Mỹ bắt đầu quá trình rút khỏi WHO. Những thay đổi này có thể ảnh hưởng đến khả năng của CDC trong việc thực hiện một số chương trình và cung cấp thông tin y tế công cộng. Tuy nhiên, hiện chưa có thông tin chi tiết về mức độ ảnh hưởng đến tất cả các chương trình của CDC. Một số chương trình có thể tiếp tục hoạt động bình thường, trong khi những chương trình khác có thể bị điều chỉnh hoặc tạm dừng. 2- Còn vần đề tiêm vaccine thì sao? Gần đây, các chương trình tiêm chủng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã chịu ảnh hưởng từ các chính sách mới của chính quyền Tổng thống Donald Trump. Cụ thể, CDC đã loại bỏ một số khuyến nghị về bệnh lây truyền qua đường tình dục và vaccine sau khi Tổng thống Trump ban hành sắc lệnh liên quan đến vấn đề giới tính. Ngoài ra, Tổng thống Trump đã đề cử ông Robert F. Kennedy Jr. làm lãnh đạo Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ (HHS). Ông Kennedy nổi tiếng với quan điểm hoài nghi về vaccine và đã từng liên kết việc tiêm chủng với chứng tự kỷ - autism, mặc dù mối liên hệ này đã bị bác bỏ bởi cộng đồng khoa học. Việc bổ nhiệm này có thể ảnh hưởng đến các chính sách tiêm chủn g trong tương lai. Trong hình bên cạnh, trẻ em từ sơ sinh đến 1 tuổi, vào năm 1986 chỉ tiêm 5 mũi thuốc chủng ngừa, còn trẻ sinh năm 2024 phải tiêm 32 mũi chủng ngừa!!! Tuy nhiên, hiện tại chưa có thông tin chính thức về việc chấm dứt hoàn toàn các chương trình tiêm chủng. CDC vẫn tiếp tục khuyến nghị tiêm vaccine cho cộng đồng. Để cập nhật tin tức mới nhất, bà con nên theo dõi các thông báo chính thức từ CDC và Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ. Câu hỏi được đặt ra là: Có dư luận cho rằng trong vaccine có chứa vi lượng hormone triệt sản, đặc biệt là vaccine ngừa bịnh Ebola ở Phi Châu. Vì sau nầy thông kê cho biết đàn bà Phi châu không còn sanh sản nhiều nữa? Và dư luận cũng cho rằng vaccine chống Covid cũng có chứa hormone triệt sản nữa. Các tuyên bố về việc vaccine chứa hormone triệt sản, đặc biệt là trong vaccine Ebola hoặc vaccine COVID-19, đều không có bằng chứng khoa học đáng tin cậy. Đây là những thông tin thường được lan truyền trong các thuyết âm mưu và chưa được xác minh bởi bất kỳ cơ quan y tế nào có uy tín như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hay Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC). 2.1- Về vaccine Ebola và vấn đề sinh sản ở châu Phi • Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy vaccine Ebola chứa hormone triệt sản. • Một số tổ chức y tế ở châu Phi đã bác bỏ cáo buộc này, cho rằng đây là thông tin sai lệch nhằm gây hoang mang và làm giảm tỷ lệ tiêm chủng. • Sự suy giảm tỷ lệ sinh ở một số khu vực châu Phi có thể liên quan đến các yếu tố kinh tế, xã hội, sức khỏe môi trường, hoặc tác động gián tiếp từ dịch bệnh và không thể khẳng định rằng vaccine là nguyên nhân chính. 2.2 - Vaccine COVID-19 và hormone triệt sản • Vaccine COVID-19 đã được phát triển dựa trên công nghệ mRNA (Pfizer, Moderna) hoặc vector virus (AstraZeneca, Johnson & Johnson), không có cơ chế nào có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. • Các nghiên cứu lâm sàng và dữ liệu thực tế sau khi tiêm chủng trên hàng tỷ người không cho thấy bất kỳ ảnh hưởng nào đến khả năng sinh sản của nam hay nữ. • WHO, CDC và nhiều tổ chức y tế khác đã nhiều lần xác nhận rằng vaccine COVID-19 không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. 2.3- Nguồn gốc của các tin đồn • Tin đồn về vaccine chứa hormone triệt sản xuất hiện nhiều lần trong lịch sử, thường đi kèm với các chiến dịch chống tiêm chủng. • Một số nhóm đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết và lo ngại của người dân để lan truyền thông tin sai lệch. • WHO đã lên tiếng bác bỏ các thuyết âm mưu này nhiều lần, nhấn mạnh rằng vaccine được kiểm định nghiêm ngặt trước khi đưa vào sử dụng. 3- Những điều hành pháp Trump cấm CDC có ứng hợp với thực tế hay không? Các sắc lệnh hành pháp của Tổng thống Donald Trump nhằm hạn chế hoạt động của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã gây ra nhiều tranh cãi và lo ngại trong cộng đồng y tế. Ngừng hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Việc yêu cầu CDC ngừng hợp tác với WHO ngay lập tức đã được thực hiện sau khi Tổng thống Trump ban hành sắc lệnh hành pháp để bắt đầu quá trình rút Mỹ khỏi WHO. Quyết định này đã gây ra lo ngại về khả năng ứng phó với các vấn đề y tế toàn cầu và sự phối hợp trong việc kiểm soát dịch bệnh. Hạn chế truyền thông và thông tin: Chính quyền Trump đã ra lịnh các cơ quan y tế liên bang, bao gồm CDC, tạm dừng tất cả các liên lạc ra bên ngoài, bao gồm cả việc công bố thông tin cho công chúng. Động thái này đã dẫn đến lo ngại về việc truyền tải thông tin quan trọng như thu hồi thực phẩm và bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm. Các chuyên gia y tế công cộng đã chỉ trích quyết định này, cho rằng nó có thể gây hại đến niềm tin của công chúng và khả năng ứng phó với các vấn đề y tế. Những hành động này đã bị nhiều chuyên gia y tế và tổ chức y tế công cộng chỉ trích, cho rằng chúng có thể làm suy yếu khả năng ứng phó với các vấn đề y tế công cộng và gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng. "Điểm mấu chốt là việc rút khỏi WHO khiến người Mỹ và thế giới kém an toàn hơn", TS Tom Frieden, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của tổ chức y tế phi lợi nhuận Resolve to Save Lives và cựu giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cho biết. Trong một tuyên bố đáp lại lệnh của Trump, WHO cho biết họ "lấy làm tiếc" về quyết định của Hoa Kỳ. "Chúng tôi hy vọng Hoa Kỳ sẽ xem xét lại và chúng tôi mong muốn tham gia vào cuộc đối thoại mang tính xây dựng để duy trì quan hệ đối tác giữa Hoa Kỳ và WHO, vì lợi ích sức khỏe và phúc lợi của hàng triệu người trên toàn cầu". Việc Tổng thống Donald Trump quyết định rút Hoa Kỳ khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và tiến hành cải tổ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người dân Mỹ trong tương lai. Rút khỏi WHO: Quyết định rút khỏi WHO có thể làm suy yếu khả năng ứng phó của Hoa Kỳ đối với các đại dịch và bệnh truyền nhiễm toàn cầu. Việc rút lui có thể dẫn đến mất đi nguồn lực và thông tin quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng phòng ngừa và điều trị bệnh tật tại Hoa Kỳ. Riêng cá nhân người viết, việc rút ra khỏi WHO chính vì vai trò của ông TGĐ WHO có rất nhiều nghi ngờ trong việc công bố ban đầu khi xảy ra đại dịch, cũng như những mối dây liên lạc với TT Vi sinh Wuhan và các tỳ phú Bill Gates, cùng Goerge Soros. Cải tổ CDC: Việc cải tổ CDC có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của cơ quan này trong việc giám sát và kiểm soát dịch bệnh. Nếu các thay đổi dẫn đến giảm hiệu quả hoặc khả năng phản ứng chậm hơn, điều này có thể làm tăng nguy cơ lây lan của các bệnh truyền nhiễm và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Tác động đến sức khỏe người dân: Khi Hoa Kỳ rút khỏi WHO và tiến hành cải tổ CDC, khả năng ứng phó với các mối đe dọa sức khỏe toàn cầu có thể bị suy giảm. Điều này có thể dẫn đến việc chậm trễ trong việc phát hiện và kiểm soát dịch bệnh, tăng nguy cơ lây lan và ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân Mỹ. Mời vào xem các link dưới đây: time.com What Leaving the WHO Means for the U.S and the World 14 ngày trước time.com Trump's Choose-Your-Own-Adventure Health Agenda Is a Wake-Up Call for Cities and States 7 ngày trước politico.com 4- Thay lời kết Trước hết, cũng cần có vài lời với những tin tức của một số cá nhân và truyền thông trên các mạng lưới toàn cầu, người viết yêu cầu mỗi khi quảng bá hay bình luận một tin tức cũng cần nên “trung thực”, tin nào đã được kiểm nhận hay công bố từ những người có thẩm quyền, nhứt là trong giai đoạn nhạy cảm nầy. Cả đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đều tìm cách “triệt hạ” lẫn nhau, cho nên loan một tin không chính xác sẽ tạo thêm xáo trộn trongcộng đồng, nhứt là cộng động người Việt. Nên nhớ, chúng ta bàn hay phân tích sự việc, những chính sách của người đại diện đưa ra, nghĩa là phân tích, phê bình… CÁI SỰ chứ không phải CON NGƯỜI. Sự việc về những quyết định hành pháp của TT Trump từ ngày nhậm chức gây ra rất nhiều ngộ nhận trong cộng đồng người Việt hải ngoại và khắp nơi tạo ra nhiều tranh cãi vô bổ. Lấy thí dụ, nào có lịnh hành pháp cấm thêm Chlor vào nước uống để diệt trùng, nào có việc đóng cửa CDC, Hoa Kỳ qua TT Trump đang chuẩn bị thủ tục để rút khỏi WHO, chứ chưa chấm dứt tham gia và hợp tác và vẫn còn là một thành viên của WHO. Về sự việc “đóng cửa FDA”, cũng chỉ là một dự phóng cải tổ một vài chính sách không còn thích hợp mà thôi. Hoa Kỳ chỉ dứt khoát rút khỏi Hiệp ước Thượng đỉnh Biến đổi Khí hậu COP21 Paris năm 2015 mà thôi. Điều mà TT Trump đã rút khỏi năm 2019, nhưng dưới thời hành pháp TT Biden đã được tái lập lại (xin xem phần trên). Mai Thanh Truyết Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam Houston, 1-2025
Quyết định đóng cửa Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm - FDA của hành pháp Trump sẽ ảnh hưởng như thế nào? Nếu Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) bị đóng cửa hoặc ngừng hoạt động tạm thời (do chính phủ đóng cửa, thiếu ngân sách, hoặc lý do khác), an toàn thực phẩm ở Mỹ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng theo nhiều cách: 1. Giảm việc kiểm soát thực phẩm: FDA chịu trách nhiệm giám sát khoảng 80% nguồn cung thực phẩm của Hoa Kỳ. Nếu cơ quan này đóng cửa, nhiều cuộc thanh tra tại các nhà máy chế biến thực phẩm, trang trại và cơ sở nhập cảng có thể bị trì hoãn hoặc hủy bỏ. Điều này làm tăng nguy cơ thực phẩm nhiễm khuẩn như Salmonella, E. coli, và Listeria không được phát hiện kịp thời. 2. Chậm trễ trong việc thu hồi thực phẩm: FDA giám sát và yêu cầu thu hồi các sản phẩm không an toàn. Nếu cơ quan này bị gián đoạn hoạt động, việc phát hiện và thanh lý các vụ ngộ độc thực phẩm hoặc sản phẩm kém chất lượng có thể bị chậm trễ, gây nguy hiểm cho người tiêu dùng. 3. Ngừng xét nghiệm thực phẩm nhập cảng: FDA kiểm soát một phần lớn thực phẩm nhập cảng vào Hoa Kỳ. Nếu không có sự giám sát chặt chẽ, thực phẩm kém chất lượng hoặc chứa hóa chất độc hại có thể vào thị trường mà không bị phát hiện. 4. Giảm giám sát sản phẩm dược phẩm và y tế: Ngoài thực phẩm, FDA còn giám sát dược phẩm, thiết bị y tế và vaccine. Việc đóng cửa có thể làm chậm quy trình cấp phép thuốc mới, làm gián đoạn việc bảo đảm an toàn cho các sản phẩm y tế. 5. Ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng: Khi FDA không thể hoạt động bình thường, người tiêu dùng có thể mất lòng tin vào sự an toàn của thực phẩm và dược phẩm, ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi mua sắm. Tóm lại, nếu FDA bị đóng cửa, mức độ an toàn thực phẩm ở Mỹ sẽ giảm sút đáng kể, làm tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các vấn đề sức khỏe cộng đồng. 1- Quyết định trên của hành pháp TT Trump sẽ làm xáo trộn ngành thực phảm và chế biến ra sao? Quyết định của Tổng thống Donald Trump đã gây ra những gián đoạn đáng kể trong hoạt động của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến ngành thực phẩm và chế biến. Cụ thể: • Gián đoạn việc kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong thời gian chính phủ đóng cửa, nhiều cuộc kiểm tra an toàn thực phẩm đã bị hoãn lại, làm tăng nguy cơ bùng phát các vụ ngộ độc thực phẩm. • Chậm trễ trong quá trình phê duyệt: Việc đóng cửa cũng dẫn đến sự chậm trễ trong quy trình phê duyệt các sản phẩm mới, ảnh hưởng đến tiến độ ra mắt sản phẩm của các doanh nghiệp trong ngành thực phẩm và chế biến. 2- Cần cải tổ hay sửa đổi như thế nào? Nếu xem xét tác động tiêu cực của việc đóng cửa chính phủ đối với mức an toàn vệ sinh thực phẩm và ngành chế biến, một số đề nghị cải tổ có thể giúp hạn chế ảnh hưởng của các quyết định hành pháp như sau: 2.1- Bảo vệ ngân sách cho các cơ quan quan trọng • Tách biệt ngân sách của FDA khỏi chính trị: Cần có luật bảo vệ ngân sách của các cơ quan giám sát an toàn thực phẩm như FDA khỏi bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa chính phủ. Điều này đảm bảo rằng ngay cả khi chính phủ ngừng hoạt động, FDA vẫn có đủ nguồn lực để tiếp tục kiểm tra và giám sát. • Duy trì nhân sự thiết yếu: Phân loại một số hoạt động của FDA là “thiết yếu” để tiếp tục vận hành ngay cả khi chính phủ đóng cửa, tương tự như an ninh quốc phòng hoặc dịch vụ y tế khẩn cấp. 2.2- Đẩy mạnh tự động hóa và công nghệ AI • Sử dụng AI để giám sát an toàn thực phẩm: Nếu FDA phải giảm quy mô hoạt động, AI có thể hỗ trợ phân tích dữ liệu nhập khẩu, phát hiện rủi ro trong chuỗi cung ứng và cảnh báo sớm về nguy cơ thực phẩm nhiễm bẩn. • Ứng dụng blockchain để theo dõi nguồn gốc thực phẩm: Điều này giúp đảm bảo rằng dù FDA có chậm trễ trong việc kiểm tra, các công ty và người tiêu dùng vẫn có thể theo dõi nguồn gốc thực phẩm một cách minh bạch. (Blockchain là một ứng dụng có thể giúp theo dõi và quản lý hàng hóa, tăng cường tính minh bạch và giảm thiểu rủi ro). 2.3- Hợp tác công - tư để duy trì kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm • Cho phép các tổ chức độc lập giám sát tạm thời: Nếu FDA bị gián đoạn, chính phủ có thể ủy quyền cho các tổ chức khoa học và các hiệp hội ngành thực hiện kiểm tra an toàn thực phẩm. • Xây dựng quỹ khẩn cấp cho an toàn thực phẩm: Một quỹ do cả chính phủ và doanh nghiệp đóng góp có thể giúp FDA duy trì hoạt động trong thời gian khủng hoảng. 3- Xin nói thêm về việc bảo quản thực phẩm bằng hóa chất Việc bảo quản thực phẩm bằng hóa chất là một chủ đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số ý kiến từ các góc nhìn khác nhau: Quan điểm ủng hộ Kéo dài thời gian sử dụng – Hóa chất bảo quản giúp ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn, nấm mốc, kéo dài tuổi thọ thực phẩm, giảm lãng phí thực phẩm. Bảo đảm thực phẩm luôn sẵn có – Nhờ công nghệ bảo quản, thực phẩm có thể được vận chuyển xa hơn, giúp nguồn cung cấp thực phẩm ổn định, đặc biệt là ở những khu vực thiếu hụt thực phẩm tươi sống. Duy trì phẩm chất thực phẩm – Một số chất bảo quản giúp thực phẩm giữ nguyên hương vị, màu sắc và kết cấu lâu hơn. Quan điểm phản đối Ảnh hưởng sức khỏe – Một số chất bảo quản có thể gây hại nếu tiêu thụ thường xuyên, liên quan đến nguy cơ ung thư (nitrites, sulfites), dị ứng hoặc rối loạn hormone (BHA, BHT). Thực phẩm kém tự nhiên hơn – Nhiều người tin rằng thực phẩm tươi tự nhiên, không chứa chất bảo quản, là lựa chọn an toàn và lành mạnh hơn. Khả năng bị lạm dụng – Một số nhà sản xuất có thể lạm dụng hóa chất để che giấu thực phẩm kém phẩm chất, làm mất lòng tin của người tiêu dùng. Giải pháp cân bằng Sử dụng hóa chất bảo quản an toàn, được FDA và WHO quy định. Ưu tiên các phương pháp bảo quản tự nhiên như làm lạnh, hút chân không, muối chua, sấy khô. Giám sát chặt chẽ việc sử dụng hóa chất trong thực phẩm, bảo đảm không vượt quá giới hạn an toàn đã được quy định. 4- Các hormone kích thích tố tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc Việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc như gà, heo, bò là một vấn đề gây tranh cãi, vì nó có lợi ích kinh tế nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho sức khỏe. Dưới đây là một số điểm cần lưu ý khi đánh giá có nên cấm hay quản lý chặt chẽ các hormone tăng trưởng trong chăn nuôi: Lợi ích của hormone tăng trưởng Tăng năng suất chăn nuôi – Hormone giúp gia súc lớn nhanh, tăng trọng lượng nhanh hơn, giúp giảm chi phí sản xuất. Giảm chi phí thức ăn – Nhờ phát triển nhanh, vật nuôi tiêu thụ ít thức ăn hơn để đạt trọng lượng mong muốn. Tăng hiệu quả sản xuất sữa và thịt – Một số hormone như rBST (recombinant bovine somatotropin) giúp bò tăng sản lượng sữa mà không cần tăng số lượng bò. Tác hại và rủi ro Ảnh hưởng lên sức khỏe con người – Một số hormone như rBST, estrogen tổng hợp có thể tồn dư trong thịt, sữa, gây rối loạn nội tiết, ung thư hoặc dậy thì sớm ở trẻ nhỏ. Ảnh hưởng lên Kháng kháng sinh – Việc lạm dụng hormone kết hợp với kháng sinh trong chăn nuôi có thể góp phần làm gia tăng vi khuẩn kháng thuốc, gây nguy hiểm cho con người. Ảnh hưởng đến môi trường – Hormone thải ra từ chất thải chăn nuôi có thể làm ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Các chính sách trên thế giới Liên minh Châu Âu (EU) đã cấm hoàn toàn việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi từ năm 1989, với lý do lo ngại về sức khỏe con người. Mỹ & Canada vẫn cho phép sử dụng một số hormone (rBST, trenbolone acetate, zeranol), nhưng có giới hạn mức độ an toàn. Trung Cộng & Việt Nam có lệnh cấm với một số loại hormone nguy hiểm như Salbutamol, nhưng tình trạng lạm dụng vẫn có thể xảy ra trên thị trường chợ đen. Giải pháp cân bằng Tăng cường kiểm soát & giám sát – Thay vì cấm hoàn toàn, có thể áp dụng tiêu chuẩn nghiêm ngặt để kiểm tra dư lượng hormone trong thực phẩm. Thúc đẩy chăn nuôi tự nhiên – Khuyến khích các phương pháp chăn nuôi không hormone, sử dụng dinh dưỡng hợp lý để tăng trưởng tự nhiên. Công khai và minh bạch thông báo cho người tiêu dùng – Nhãn ghi rõ “không hormone tăng trưởng” (No added growth hormones) để người tiêu dùng có thể tự chọn lựa sản phẩm. Việc cấm hoàn toàn hormone tăng trưởng trong chăn nuôi hay không còn phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Nếu được kiểm soát tốt, một số hormone có thể được sử dụng trong mức độ an toàn. Tuy nhiên, với những loại hormone có nguy cơ cao như rBST, trenbolone acetate, việc cấm hoàn toàn là cần thiết. Việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc là một vấn đề gây tranh cãi, với các quan điểm khác nhau về lợi ích kinh tế và nguy cơ đối với sức khỏe con người. Một số nghiên cứu cho thấy việc sử dụng hormone có thể không gây hại đáng kể, trong khi các nghiên cứu khác lại chỉ ra mối liên hệ giữa hormone tăng trưởng và các vấn đề sức khỏe như rối loạn nội tiết và ung thư. Liên minh châu Âu (EU) đã cấm hoàn toàn việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi từ năm 1989 do lo ngại về sức khỏe con người. Trong khi đó, Mỹ và Canada vẫn cho phép sử dụng một số loại hormone, nhưng có giới hạn mức độ an toàn. 5- Thực phẩm “sạch” "Thực phẩm sạch" là thực phẩm tự nhiên, không phân bón, không hormone, cũng như không có yếu tố kích thích tăng trưởng nào hết. Có loại thực phẩm như trên trong thế giới hiện tại hay không? Câu trả lời là không. "Thực phẩm sạch" theo định nghĩa lý tưởng – không phân bón hóa học, không hormone, không thuốc trừ sâu, không chất kích thích tăng trưởng – gần như không tồn tại trong sản xuất công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, vẫn có một số lựa chọn tiệm cận với định nghĩa này: Thực phẩm hữu cơ (Organic) Tiêu chuẩn: Không sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu tổng hợp, kháng sinh, hormone tăng trưởng. Có chứng nhận: Các nước có tiêu chuẩn hữu cơ riêng như USDA Organic (Mỹ), EU Organic (Châu Âu), JAS (Nhật), VietGAP hoặc PGS (Việt Nam). Hạn chế: Sản lượng thấp, giá thành cao, không phải lúc nào cũng 100% "sạch tuyệt đối". Thực phẩm canh tác (Natural farming) Không sử dụng bất kỳ hóa chất nhân tạo nào, kể cả phân hữu cơ từ nguồn bên ngoài. Mô hình này phổ biến ở một số trang trại theo phương pháp của Masanobu Fukuoka (Nhật Bản) hoặc nông nghiệp tự nhiên Hàn Quốc (KNF). Hạn chế: Năng suất rất thấp, đòi hỏi đất đai cực kỳ màu mỡ, khó áp dụng trên diện rộng. Nông sản, sinh vật từ thiên nhiên Rau rừng, cá sông, gà chăn thả tự nhiên, mật ong rừng… là những sản phẩm không có sự can thiệp của con người. Nhược điểm: Sản lượng rất hạn chế, không thể cung cấp cho nhu cầu lớn. Tóm lại thực phẩm hoàn toàn "sạch tuyệt đối" trong sản xuất công nghiệp hầu như không có, vì ngay cả thực phẩm hữu cơ cũng có thể dùng phân hữu cơ hoặc thuốc bảo vệ thực vật sinh học. Nếu muốn tìm thực phẩm tiệm cận "sạch" nhất, có thể chọn các sản phẩm Hữu cơ (Organic) – có chứng nhận uy tín. Chú ý: Cũng có rất nhiều thương hiệu ghi “sản phẩm hữu cơ” nhưng thực sự là “giả” rất nhiều vì việc kiểm soát nhản hiệu nầy rất lõng lẽo! Thực phẩm từ nông trại tự nhiên – trồng theo phương pháp truyền thống không hóa chất Thực phẩm hoang dã (wild food) – rau rừng, cá tự nhiên là chọn thực phẩm tương đối an toàn, ít hóa chất, nhưng vẫn khả thi về giá cả và nguồn cung. Bạn có thể cân nhắc: Thực phẩm hữu cơ có chứng nhận – nếu phù hợp với ngân sách. Nông sản VietGAP, GlobalGAP – tiêu chuẩn an toàn nhưng giá mềm hơn hữu cơ. Mua từ nguồn uy tín, truy xuất được nguồn gốc – như các trang trại canh tác sạch, chợ nông sản địa phương. Chế biến đúng cách – rửa sạch, ngâm nước muối/baking soda để giảm dư lượng hóa chất. 6- Khuyến cáo cụ thể hành pháp TT Trump trong quyết định đóng cửa FDA Việc đóng cửa Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) có thể gây ra nh FDA chịu trách nhiệm giám sát và bảo đảm an toàn cho các sản phẩm thực phẩm, dược phẩm, thiết bị y tế và nhiều sản phẩm khác tại Hoa Kỳ. Nếu cơ quan này ngừng hoạt động, các chức năng quan trọng sau sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng. Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực, dưới đây là một số đề nghị cụ thể dành cho chính quyền của Tổng thống Trump: • Duy trì các hoạt động thiết yếu của FDA như phân loại các hoạt động quan trọng: Xác định và phân loại các hoạt động của FDA liên quan đến an toàn thực phẩm và dược phẩm là thiết yếu, bảo đảm chúng tiếp tục hoạt động ngay trong trường bị đóng cửa. • Tăng cường hợp tác với các cơ quan liên quan như phối hợp với Bộ Nông nghiệp, Bộ Công Thương mãi, và các cơ quan liên quan đến thực phẩm nhằm tăng cường hợp tác để giám sát và kiểm tra an toàn thực phẩm, truy tầm nguồn gốc và thanh lý thực phẩm gây ngộ độc. • Phản ứng nhanh với khủng hoảng sức khỏe: Trong các tình huống khẩn cấp về sức khỏe, như bùng phát dịch bệnh hoặc phát hiện sản phẩm bị nhiễm bẩn, FDA và CDC đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối phản ứng và cung cấp thông tin cho công chúng. Việc đóng cửa FDA sẽ làm giảm khả năng ứng phó hiệu quả với các khủng hoảng này. • Giám sát an toàn thực phẩm: FDA thiết lập và thực thi các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, bao gồm việc kiểm tra, thu hồi sản phẩm bị nhiễm bẩn và ngăn chặn các mối nguy hại đến sức khỏe cộng đồng. Việc đóng cửa FDA sẽ dẫn đến thiếu hụt giám sát, tăng nguy cơ bùng phát các bệnh truyền qua thực phẩm. • Quản lý dược phẩm và thiết bị y tế: FDA chịu trách nhiệm phê duyệt và giám sát an toàn của dược phẩm và thiết bị y tế. Nếu không có sự giám sát này, nguy cơ lưu hành các sản phẩm không an toàn hoặc kém phẩm chất lượng sẽ tăng lên, đe dọa sức khỏe người dân Việc đóng cửa Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng. Để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và đảm bảo an toàn thực phẩm, việc duy trì hoạt động của FDA là vô cùng quan trọng. Thay vì đóng cửa, cần nên xem xét cải tổ hoặc tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân và thích ứng với những thách thức mới trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và y tế. Đề nghị: 1- Thanh lọc lại chính sách kiểm soát cần thiết và không cần thiết; 2- Thanh lọc nhân chuyên chuyên ngành và loại bỏ những nhân viên dư thừa và thiếu năng lực; 3- Đẩy mạnh truyền thông và giáo dục cộng đồng về vệ sinh an toàn thực phẩm, về nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và các biện pháp phòng ngừa. 4- Xem xét việc cải cách, tiết giảm ngân sách để bảo đảm FDA không bị lạm dụng và phí phạm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng được bảo vệ liên tục 5- Tiết chế nhân sự để nâng cao năng suất và hiệu suất công việc. Hy vọng những giải thích và góp ý trên giúp Bà Con có thêm tin tức về sự việc đóng cửa FDA của hành pháp TT Trump. Mai Thanh Truyết Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam 2-2025