OCEAN VUONG: MỘT NHÀ
THƠ LỚN, THIÊN TÀI GỐC VIỆT
Tăng Quốc Kiệt
“Có những người con làm rạng
danh cha mẹ
Có những con dân làm rạng danh
Tổ quốc”.
Tôi hỏi 8 người bạn thích đọc
sách, có biết Ocean Vuong là ai không? Tất cả đều trả lời là không, vậy là tôi
nằm trong khối đa số hơi hổ thẹn, vì không biết đến một nhân tài gốc Việt, sống
ở Mỹ, một thi sĩ mà người bản xứ không tiếc lời ca tụng, cho giải thưởng về thơ
(genius prize) trị giá 625.000 đô la.
Thơ của em, Night sky with
exit wound (Trời đêm với những vết thương xuyên thấu) và quyển tiểu thuyết Trên
trái đất chúng ta một thoáng huy hoàng (On the earth, we’re gorgeous) được dịch
ra 30 thứ tiếng kể cả tiếng Việt ở VN, quyển tiểu thuyết được báo New York
Times cho là “biến cố văn chương” của năm 2019, và nằm trong danh sách best
sellers trong 6 tuần liên tiếp. Đó là lý do vì sao tôi viết bài này.
XUẤT THÂN
Từ đây, tôi gọi tên em là
Vương Hải, chứ không gọi Ocean Vuong như người Mỹ.
Em sinh năm 1988, bà ngoại tên
Lan, mẹ tên Hồng, gốc người Gò Công, gia đình 6 người vượt biên qua trại tị nạn
Philippines, ở đó 1 năm, định cư ở Mỹ năm 1990 lúc Hải được 2 tuổi. Gia đình 6
người cư ngụ trong một căn hộ chung cư có một phòng ngủ, ở vùng da đen Harford,
Connecticut. Nơi đây đã để lại dấu ấn trong đời và trong thơ văn của Hải. Cho tới
khi tiếp xúc với bên ngoài, em cứ nghĩ nước Mỹ là của người da đen.
Tên khai sinh do cha đặt là
Vương Quốc Vinh, sau khi người cha đi tù vì tội bạo hành đánh vợ, ly dị mẹ em,
bỏ nhà ra đi, người mẹ quyết định đổi tên em là Hải để cắt đứt với quá khứ.
Trong một lần phỏng vấn, được
hỏi nguồn thơ của em từ đâu ra, em trả lời là mặc dù mẹ em mù chữ, nhưng khi đặt
tên em, bà nghĩ đến Thái Bình Dương, là biển nối liền Mỹ với quê hương VN là có
ý thơ rồi (phải chăng bà đã nghĩ đến câu hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái
Bình, dạt dào”). Hơn nữa, em được giáo dục bởi 3 người đàn bà: bà ngoại, mẹ và
dì Mai, đã đọc thơ, kể chuyện, hát ca dao cho em nghe, do đó thơ, từ thuở nhỏ
đã thấm vào hồn em.
Bà ngoại Lan, là người mù chữ,
cũng như mẹ em và dì Mai, có lẽ trong gia đình có gen mang chứng khó đọc chữ
(dyslexia) vì người em của Hải đã bị chứng này.
Thời trẻ bà ngoại bỏ nhà ra
đi, làm me Mỹ, gặp ông ngoại là người Mỹ da trắng, tên Paul, gốc nông dân ở
Michigan, cũng bỏ nhà, đăng lính hải quân, qua chiến đấu ở VN.
Bà ngoại sinh 2 cô con gái, giống
Mỹ nhiều hơn giống Việt. Có lúc vì khó khăn, bà phải bỏ con vào cô nhi viện khi
chồng về Mỹ năm 1971 và không trở lại.
Chính bà ngoại là người đã kể
cho Hải nghe chuyện chiến tranh VN, do đó, dù đến Mỹ năm 2 tuổi, chiến tranh VN
bàng bạc trong thơ văn của Hải. Có thể nói, Hải rời VN nhưng VN không rời Hải.
Mẹ Hải, bà Hồng, sống bằng nghề
làm móng tay.
Hải là người đồng tính, năm 17
tuổi, lần đầu tiên em thổ lộ với mẹ và được bà chấp nhận.
Người tình đầu của em là
Trevor, gốc da trắng, con của một nông gia trồng thuốc lá, là đề tài mà em đã
viết trong thơ và trong quyển tiểu thuyết hết sức sống động. Sau đó Trevor chết
vì chích ma túy quá liều.
Hình ảnh người cha vắng mặt
trong đời em, được tả một cách nhạt nhòa bàng bạc trong thơ văn của Hải.
QUÁ TRÌNH HỌC VẤN
Hải đi học mẫu giáo hồi 5 tuổi,
nhưng mãi tới năm 11 tuổi em mới đọc và hiểu được tiếng Anh một cách thông thạo.
Sau đó em thường đi thư viện
và miệt mài trong sách vở. Em kể khi nghe băng bài diễn văn của mục sư Martin
Luther King Jr “I have the dream” thì em bắt đầu có mộng lớn của riêng mình.
Chú bé cô đơn, bị hiếp đáp
trên xe bus, trên đường đi học, tìm an ủi trong sách vở, bắt đầu làm thơ. Thầy
giáo nghĩ là em đạo văn, ông không thể tưởng tượng một đứa học trò nghèo, xuất
thân từ gia đình mù chữ, phát âm chữ THE cũng ngọng thì làm sao có thể làm thơ
hay như vậy, nên phạt em về tội ăn cắp, ăn cắp thơ! Nhưng ông giáo đã lầm, một
thiên tài vừa xuất hiện mà ông không biết!
Em kể: tôi viết rất chậm, xem
từ ngữ như một vật thể, tôi luôn cố tìm từ ngữ trong từ ngữ:
Tôi bước vào đời mình
Cách từ ngữ
Bước vào tôi
Nói về chuyện đọc sách, em viết:
Ôi thằng con ngốc
Con có thể lạc lối trong mọi cuốn
sách
Nhưng không bao giờ quên được
chính mình.
Vào đại học, lúc đầu em chọn
marketing vì hi vọng sẽ kiếm được nhiều tiền để giúp gia đình, nhưng sau 8 tuần
thì em bỏ học vì biết mình đã chọn sai, nên đổi qua Brooklyn College của Đại học
New York để theo học văn chương Anh thế kỷ 19. Em lấy bằng BA, sau đó tốt nghiệp
MFA về thơ của Đại học New York, hiện nay làm giảng sư MFA ở Đại học
Massachusetts, TP Amherst.
Quyết định chuyển ngành học từ
marketing qua văn chương là điều may cho chính bản thân Hải, cho nước Việt và
cho thế giới thi ca: một nhân tài có dịp để thăng hoa.
CÁC GIẢI THƯỞNG:
2010 (22 tuổi): Academy of
American Poets University and College Poetry Prize.
2012 : Stanley Kunitz Prize
for younger poets.
2013 : The Elizabeth George
Foudation Fellowship.
2013 : Chad Walsh Prize,
Beloit Poetry Journal.
2014 : Pushcart Prize.
2014 : Ruth Lily/Sargent
Rosenberg Fellowship.
2015 : The Narrative Prize.
2016 : Whiting Award for
Poetry.
2017 : Forward Prize for
Poetry Felix Dennis Prize for Best First Collection
2017 : T. S Eliot Prize
2018 : Kundman Fellowship
2019 : Mac Arthur Fellow (625.000
US $) với lời bình: “kết hợp truyền thống dân gian với những thử nghiệm ngôn ngữ”.
2020 : Dylan Thomas Prize -
Shortlist for On earth We’re Briefly Gorgeous.
2020 : NAAAP Pride Award
New Yorker bình luận: “Ocean
Vuong là người sửa lại ngôn ngữ tiếng Anh”.
Tạp chí Foreign Policy bình chọn
Ocean Vuong là 1 trong 100 nhà tư tưởng hàng đầu của nhân loại, năm 2016.
SỰ NGHIỆP:
Viết tiểu luận cho các báo:
Poetry, The Nation, TriQuarterly, Guernica, The Rumpus, Boston Review,
Narrative Magazine, The New Republic, The New Yorker, and The New York Times.
* Đã xuất bản: Burning (2011),
No (2013), Night sky with exit wound (2016), On earth we’re briefly gorgeous
(2019).
LƯỢC QUA TẬP THƠ “TRỜI
ĐÊM VỚI NHỮNG VẾT THƯƠNG XUYÊN THẤU”
HÌNH THỨC: Khổ nhỏ, dày 84
trang, xb năm 2016, nxb Copper Canyon Press, đề tặng mẹ [và ba tôi] sách đã được
dịch sang tiếng Việt ở VN.
NỘI DUNG: gồm 35 bài thơ, tựa
các bài thơ đôi khi khó hiểu cho người không rành thần thoại Hy Lạp, vài ví dụ:
Tellemachus (tên người con của Ulysse & Penelope trong tập thơ Odysse của
Homer), Trojan, Eurydice, Odysseus redux…
Có nhiều ẩn dụ khó hiểu ý tác
giả, nhưng khi hiểu được thì ý nghĩa thâm trầm sâu sắc.
Vần điệu theo kiểu thơ tự do,
rất du dương, rất thơ.
Ví dụ:
It’s hind legs croshed into the shine of
white christmas
In the square below, a nun on fire, runs
silently toward her god
Beneath sound of his own.
(Hai chân sau của nó được tạo thành ánh
sáng của cây giáng sinh trắng
Ở quảng trường bên dưới, một nữ
tu đang bốc cháy, đang lặng lẽ chạy về phía vị thần của mình
Bên dưới âm thanh của riêng mình).
Trong tập thơ, Hải viết bằng
tiếng Việt nhiều lần, có cả dấu:
tặng mẹ [và ba tôi]
Ba
Bà ngoại, Hạ Long bay, Củ Chi, Vietnam, Cà
pháo, Gia đình
Lan ơi, em khoẻ không. Giờ em đang ở đâu…
Theo Tupelo Quartely: Thơ buồn,
đẹp. Sexy một cách dữ tợn, đụng chạm đến chính trị. Biểu lộ nỗi ám ảnh của người
đồng tính luyến ái. Người Pháp nói: “traduire c’est trahir” (dịch là phản), do
đó độc giả nên tìm đọc nguyên bản tiếng Anh mới cảm nhận được cái hay, cái du
dương của ngôn ngữ mà tác giả đã dày công sáng tác.
Tôi xin trích vài bài dịch
thơ, nói về các người thân của Vương Hải.
VỀ MẸ:
* Trong bài thơ Rồi có một
ngày, ta sẽ yêu Ocean Vương
Hải, bạn đang nghĩ gì?
Phần đẹp nhất của cơ thể là bất cứ nơi đâu.
Phủ hình bóng mẹ (trang 82)
* Trong bài thơ Đầu ra trước
(head first)
Nhưng chỉ có người mẹ, có thể bước đi, với
sức nặng của nhịp đập của quả tim thứ hai (trang 20)
Tôi nghĩ tôi thương mẹ nhiều lắm (trang
70)
Con thương mẹ, mẹ ơi (trang 7)
Không có gì bằng cơm với cá,
Không có gì bằng má với con (thành ngữ VN,
trang 20)
VỀ CHA:
Đừng lo, cha mày chỉ là cha mày.
Cho đến, khi một người trong nhà quên mất.
Giống như cách mà xương sống,
Không nhớ hai cánh tay.
VỀ BÀ NGOẠI :
* Trong tập thơ Burning
Ngoại tôi hôn.
Như thể bom đang nổ sau nhà,
Nơi mà bạc hà và hoa lài toả hương,
Qua cửa sổ bếp,
……….
Khi ngoại tôi hôn, sẽ không
Có âu yếm cầu kỳ, không âm nhạc Tây phương
Của đôi môi mím chặt, ngoại hôn như để hút
lấy
Bạn vào trong bà.
Vương Hải như đóa sen, mọc từ
bùn, vươn lên và tỏa hương. Em đi từ no one (không là ai) trở nên anyone (bất cứ
ai) rồi trở thành someone (một người hơn người).
Tôi theo dõi nhiều buổi phỏng
vấn, các buổi đọc thơ của Vương Hải trên các chương trình TV Mỹ, Canada, Pháp,
Đức. Điều đập vào mắt tôi là cách em chào cử tọa, em cúi mình thật thấp. Người
Nhật bảo: những hạt lúa chín là những hạt lúa cúi đầu - thái độ thật khiêm tốn,
ăn mặc giản dị, giọng nói nhẹ nhàng của phái nữ, trầm bổng đầy chất thơ.
Thật khó tưởng tượng một chú
bé, thuở nhỏ nói thứ tiếng Anh của người da đen ít học, một lần ở tiệm Sears,
người bán hàng hỏi có phải em là con nuôi của mẹ em (vì mẹ là con lai Mỹ rất trắng),
em trả lời không, tôi từ asshole của mẹ tôi ra. Ngày nay, em sử dụng thứ tiếng
Anh hết sức trau chuốt của giới trí thức khoa bảng.
Em kể lại, thuở nhỏ, bài học đầu
tiên mà bà ngoại và mẹ em dạy để sinh tồn ở nước Mỹ là coi chừng, đừng để ai
chú ý tới mình. Vì mình là người Việt da vàng đã khác họ rồi, mục đích là mình
phải làm sao để trở nên vô hình, mẹ dạy con phải tự biến mất. Em hiểu là người
lớn muốn cho em được yên thân, được an toàn (ngày nay với phong trào bài Á, những
lời khuyên đó có còn đúng không?)
Có sự khác biệt giữa thế hệ thứ
nhất và thế hệ thứ hai. Thế hệ thứ hai muốn người ta biết đến mình, để vươn
lên: có chúng tôi đây, chúng tôi tự hào về mình. Thế hệ thứ nhất dạy con mình
biến đi, tự vệ bằng cách tự xóa mình.
Theo Vương Hải, để được biết đến
em phải trở thành nghệ sĩ.
Tôi mong em sẽ đi xa hơn nữa
(vì em còn quá trẻ, 33 tuổi) trong sự nghiệp sáng tác của mình để đạt được
Nobel văn học.
Tiếc cho em, khi đã đạt được
vinh quang, thoát khỏi cảnh nghèo, thì những người thân lần lượt ra đi: bà ngoại,
người đã dạy văn chương bình dân VN cho em, kể cho em nghe về cuộc chiến tàn khốc,
đã chết vì ung thư xương giai đoạn cuối, mà em đã tả một cách sống động trong
quyển tiểu thuyết.
Người mẹ mà Hải hết lòng
thương yêu (Con thương mẹ, mẹ ơi) cũng đã ra đi vì ung thư vú di căn. Người mẹ,
làm việc trong tiệm nail, suốt ngày phải cúi đầu giũa móng tay, móng chân cho
khách, luôn miệng nói sorry, sợ làm đau khách sẽ không được tip.
Một bữa, sau khi dự buổi ra mắt
sách của Hải, nghe con đọc thơ tiếng Anh mà bà chẳng hiểu gì, chỉ quan sát cử tọa,
bà mẹ bật khóc nức nở vì sung sướng. Bà nói với Hải: “Má không bao giờ nghĩ là
mình sẽ sống để nhìn thấy ngày những người da trắng, đứng tuổi, vỗ tay tán thưởng
con của má”.
Hải đã trả hiếu cho mẹ rồi: bằng
sự thành công của em, khi em được đánh giá là thiên tài của nước Mỹ. Có chăng một
chốn gọi là chín suối? Nếu có, chắc mẹ em đang nở nụ cười mãn nguyện: nhiệm vụ
của bà đã hoàn thành.
Cám ơn Vương Hải, đã cho tôi
niềm hãnh diện của người Việt Nam.
“Summer in the mind,
God opens his other eye:
Two moons in the lake”.
Vương Hải
No comments:
Post a Comment