Thursday, October 24, 2024

CON NGƯỜI PHƯƠNG NAM Tôi không sinh ra tại Sài Gòn mà chỉ tới năm 1954 mới vào sống tại đây khi đã 15 tuổi. Chín năm sau, khi thành một thầy giáo tôi từ Sài Gòn xuống một tỉnh miền Tây dạy học, nơi chốn đi về không đâu khác là Sài Gòn, cha mẹ anh em tôi vẫn ở đấy và một thời đèn sách của tôi cũng còn đấy. Cũng chín năm sau, 1972, Tân An (cách Sài Gòn 45km) là nơi tôi định cư cho đến bây giờ. Sài Gòn – Châu Đốc – Tiền Giang – Bến Tre – Tân An…theo cách nghĩ của tôi chỉ có một ranh giới rõ nét là những km diện địa, còn cái gọi là “Người Sài Gòn” thì như một cục đường tan vào ly nước là miền Tây rất nhanh, nếm thấy vị mà không còn biết đường đâu nước đâu. Sài Gòn không có đặc sản về thực phẩm, mọi thương hiệu có mặt tại đây hầu như đều từ miền Tây lên: mắm thái Châu Đốc, bánh pía, bún mắm Sóc Trăng, hủ tiếu Mỹ Tho, bưởi Năm Roi, soài cát Hòa Lộc... Không thấy lộ ra một khác biệt nào lớn có tính cách định hình ngoài khác biệt là nhà ở tỉnh thường có vườn và ít chung cư và người tỉnh hay bận rộn vì các đám giỗ ở nhà nhau! Cà phê vỉa hè là một nét chung rõ nhất. Khái niệm “nhà quê” tôi không nghe nói ở nơi tôi sống đã 58 năm, điều này khá thịnh tại quê gốc của tôi. Trước hết, hình dạng Nam Kỳ cứ ví như một phụ nữ cho nó... dễ hiểu, không cao kều dài ngoẵng mà nở ngang ở cái vòng 3 mà lại xẹp lép không núi không đèo vì vậy khoảng cách không gian giữa các tỉnh với Hòn Ngọc Viễn Đông không lớn, lại có hệ thống giao thông đa dạng và phát triển cao thúc đẩy sự hòa vào nhau nhanh hơn và gọn hơn. Sài Gòn (và Nam Kỳ) trở thành thuộc địa của Pháp sớm nhất và trực tiếp thành đất hải ngoại của Pháp ngay từ năm 1867, Nho học bị hủy bỏ gần như ngay tức khắc với việc Nam Bộ bị tách khỏi VN. Chính vì thế mà người Sài Gòn phát âm tiếng Pháp chuẩn hơn. Những phụ âm Pr, Cl, Tri…trong khi người miền Bắc phát âm là pờ-re (près), cờ-lo (clo), tờ-ri-pô-li (Tripoli) thì người đất này phát gần với Tây hơn. Âu hóa sớm, mưa nhiều, khí hậu nóng quanh năm, đất đai màu mỡ, giao thông, công thương phát triển sớm, vị trí thuận lợi trong giao thương Âu-Á, con người lại có óc mạo hiểm của kẻ đi khai phá, đặc tính này làm phát những doanh nhân nhiều người lừng lẫy.… Hào hiệp và nghĩa khí là tính cách nổi trội, kẻ nào đó tai tiếng hoặc thất bại ở nơi khác mà biết “ôm đầu máu” tìm vào Nam Kỳ với mặc cảm bị thành kiến sẽ nhanh chóng quên được mặc cảm này bởi người Nam Kỳ không tò mò về đời tư người khác, “đánh kẻ tìm đi không đánh kẻ tìm lại”, thích cưu mang và lòng thương người dành cho kẻ sa cơ. Đọc rồi mà lâu quá nên quên cách tỏ tình khá thú vị này: “Hai ơi, tui thương thiệt mà”, “Thôi đi, hổng có tin nổi đâu, nói chi nói hoài dzậy”. “À há, láo xe ăn đó”, “Độc dữ ha, mà thương rồi thì sao chớ?”. Rồi, tối đó có thể cùng nhau vào một căn nhà, nhà hát cải lương chứ không phải các nhà khác đâu đó. Ngày nay tất nhiên ngôn ngữ có khác nhiều nhưng tấm tình chân thật và cách bộc lộ thì vẫn thẳng như vậy thôi. Đấy là tính chân thật, mộc mạc không kiểu cách. Còn nhớ, hồi 1964, một ông chủ nhà máy nước đá ở Châu Đốc có người con út học với tôi cho nên tôi có dịp tới vào những ngày giỗ của nhà ông ấy. Một bữa ông nói đại ý là thấy tôi chưa có vợ mà lại hiền lành (có lầm không, ông chủ) nên ông muốn gả con gái đang là giáo viên cho, còn nói sẽ cho tôi nhà và mọi thứ gia đình tôi khỏi lo chi cả… Tôi không thành rể Nam Kỳ là cái phần số nó thế. Người Nam Kỳ bén nhạy ưa mùi mẫn mà hài hước, trào lộng vì vậy cải lương là loại hình giải trí ruột, vở nào mùi một tí và có danh hài là vở ấy đắt khách. Cũng nhờ cái tánh này mà người Nam Kỳ phát về báo chí, ngôn ngữ, văn phong báo chí, nhất là báo trào phúng của Sài Gòn thật ấn tượng, châm biếm mà không moi móc, nhẹ mà đau ngầm chứ không gay gắt nhục mạ người bị châm biếm. Và không đâu hơn, Nam Kỳ rất thịnh về nói lái, tiếng lóng phong phú và thiện nghệ. Hồi trước tôi hay ăn cơm vỉa hè nên biết một anh tài xế xích lô máy, trưa nào anh cũng tạt về nhà chất vợ con đầy một xe và ghé quán cơm này. Họ không ăn nghèo như sinh viên chúng tôi nhưng ăn tiệm cũng là một cái thú của người Nam Kỳ. Có người nói người Nam Kỳ ham vui, ít lo xa, theo tôi nhận xét này khá đúng với câu cửa miệng là “mai tính”. Những tính cách trên, tôi có một nhân chứng sống là cụ Vương Hồng Sển, một học giả, nhà cổ ngoạn và là Thầy của nhiều thế hệ chúng tôi ở đại học. Nhiều cuốn sách, bài báo của Thầy, nhất là cuốn Nửa Đời Hư cho thấy đây là một siêu mẫu của người Nam Kỳ. “Con mèo tam thể đi ăn vụng bị hàng xóm chém tét móng chân trước, đang nằm rên hì hì trên đầu tủ sách. Vừa viết đến đây, tôi đọc lớn. Con mèo nhướng mắt tưởng tôi ngỏ lời an ủi, nên hoà âm mấy tiếng hừ hừ, tợ chiếc ấm gần sôi. Bỗng tôi đổi sang giọng lớn, không mấy êm tai, tôi thấy vành tai con miêu đang xụ lại vành lên, trán con miêu nhăn nhăn, tam thể tựa hồ bụng bảo dạ: “Lão Vương nầy chướng, chúng cho về hưu cũng phải: Lão lải nhải những gì rỗng tuếch, chẳng bù má Năm, nói những lời đáng giá, hứa cho ăn thì no bụng đến phát ách, hăm đánh đòn thù nhừ tử nên thân; Bữa nay lão viết giống gì nữa đây, chỉ hại tốn giấy?” Ấy đó, trên bảy mươi mà còn bị chó mèo xài xể, hỏi phải hư chưa?- (Vương Hồng Sển, Hơn Nửa Đời Hư) Đó là quá khứ, còn đây là động từ chia ở thì hiện tại: “Ngồi ở ngoài hiên có thể ngửi được mùi biển cả. Hoa cúc dại mọc liếm lên thềm. Ngôi nhà của tụi mình không cần rộng, chỉ cần kê vừa một cái giường và gian bếp. Ở đó có ông già hơi lãng đãng, đôi khi lấy điện thoại di động khuấy cà phê, hay ngồi nhìn mây những khi ti vi hết chương trình thế giới động vật. Ở đó có bà già hí húi cọ nồi, lâu lâu vói tay ra sau tự đấm lưng. Radio mở rọt rẹt chương trình ca cải lương cuối chiều, miệng bà cằn nhằn tối qua không ngủ được vì ông già ngáy dữ quá. Đêm nay tôi sẽ thủ cục muối hột, cứ hả họng ra ngáy là tôi thả vô miệng cho mặn thấy mồ tổ. Mặt ông già tê mê, khoái chí nói bà cằn nhằn cũng có duyên, y như hồi xưa vậy, thiệt chẳng bõ công tôi bỏ xứ theo bà.”(Nguyễn Ngọc Tư) Trên là những ấn tượng của tôi về nơi mà tôi đi xe ngựa lần đầu tiên, ăn cái hột vịt lộn, chè đậu đỏ bánh lọt, uống ly nước mía, ăn cơm tấm, mắm thái, mua trái cây một chục là 14 trái, cầm tờ giấy bạc thoải mái xé đôi khi cần thanh toán một nửa mệnh giá của nó… lần đầu tiên trong đời. Nay những ấn tượng ấy hình như đang phai dần mà nghiệt thay lại phai từ Sài Gòn trước tiên. Bao giờ thì Nam Kỳ phai theo? Nghĩ đến đó mà rầu thúi ruột! Cao Thoại Châu
Lần trang Lịch sử: Ai Giết Lê Khắc Sinh Nhựt? Nhiều vụ án kể từ sau cuộc đảo chánh chính phủ Ngô Đình Diệm năm 1963 trở đi, tình hình chánh trị ở miền Nam ngày càng xáo trộn, phong trào sinh viên tranh đấu ngày càng trở nên sâu đậm hơn. Còn nhớ ngay sau cuộc chính biến tháng 11/63, nhiều Hội sinh viên ở các trường đại học Saigon được thành lập và việc tranh dành chức Chủ tịch Hội và Tổng hội ngày càng gay gắt hơn. Có thể nói trong giai đoạn nầy có ba thành phần sinh viên trong có mưu đồ tiến chiếm Hội và Tổng hội sinh viên Saigon là: • Một thành phần sinh viên tranh đấu thực sự cho sự công bằng xã hội và yêu sách, đề nghị chánh phủ cần sửa đổi nhiều điều luật cho việc điều hành quốc gia, cũng như việc đòi tự trị đại học; • Một thành phần sinh viên gọi là “thân chánh phủ”, được chánh phủ hỗ trợ phương tiện cho việc điều hành Hội hay Tổng Hội nhằm làm đối trọng với thành phần trên; • Và một thành phần sinh viên thứ ba là Cộng sản hay thân CS muốn nắm và dùng lực lượng sinh viên nhằm tiếp tay cho công cuộc chiếm đóng miền Nam của CS BV. Trong giai đoạn nầy có thể nói hai thành phần đầu chiếm đại đa số sinh viên. Còn thành phần thứ ba rất ít, chỉ len lõi và chờ thời cơ để phá hoại mà thôi. Do đó, có thể nói cuộc tranh chấp giữa hai thành phần sinh viên đầu rất quan trong. Chúng ta có thể đan cử và sinh viên điển hình lúc bấy giờ là: Lê Hữu Bôi (bị CS giết trong vụ Mậu Thân 1968), Ngyễn Trọng Nho, Tô Lai Chánh (người cùng với Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu cạo đầu khích dộng sinh viên tổng biểu tình ngày chủ nhựt 25/8 tại Giảng đường ĐH Y Khoa đường Trần Quý Cáp ngày thứ sáu 23/8/1963), Nguyễn Hữu Thái (người bị nghi là mastermind trong vụ ám sát GS Nguyễn Văn Bông), Võ Văn Trưng, Hồ Hữu Nhựt, Lê Hồng Khanh, Nguyễn Thanh Bình (trong vụ xé Hiến chương Vũng Tàu thời Tướng Nguyễn Khánh) v.v… Nhưng mãi đến nhiệm kỳ 1967-1968, cộng sản bắt đầu xâm nhập vào thành phần sinh viên và được huấn luyện cung cách đấu tranh ngõ hầu nắm các Hội và Tổng hội sinh viên. Từ khi Nguyễn Đăng Trừng nắm chức Chủ tịch rồi tiếp theo, Nguyễn Văn Quỳ (Nông Lâm Súc) làm Chủ tịch niên khóa sau đó. Và Huỳnh Tấn Mẫm, sinh viên y khoa năm thứ tư bắt đầu xuất hiện vừa chức Chủ tịch Hôi Sinh viên Y khoa và Phó CT Tổng hội sinh viên Saigon. Và HTM được đôn lên làm CT cho đến niên khóa 1970 qua sự lũng đoạn bầu cử do cs BV giựt dây. Đến năm 1971, liên danh Lý Bửu Lâm đắc cử, và Huỳnh Tấn Mẫm sau đó được bầu là Chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Nam Việt Nam mới ra đời tháng 7/1971. Cũng cần nên nhắc lại ở giai đoạn vừa kể trên các thành viên lãnh đạo thân cộng hay “đã là cán bộ cộng sản” khác của Tổng hội gồm: Lê Văn Nuôi (Chủ tịch Tổng đoàn học sinh Sài Gòn), Nguyễn Hoàng Trúc (Tổng thư ký Tổng hội sinh viên Sài Gòn), Hạ Đình Nguyên (phó chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn), Võ Như Lanh, Trịnh Đình Ban, Cao Thị Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Xuân Lập, Cao Lập, Lê Hiếu Đằng. Và, Lê Khắc Sinh Nhựt (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1948) học Luật tại Sài Gòn và là Chủ tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Luật Khoa Đại Học Sài Gòn niên khóa 1970 -1971. Cũng trong niên học nầy, anh được bầu vào ban Chấp hành của Tổng Hội Sinh Viên nhiệm kỳ 1970-1971 với chức vụ PCT Tổng hội SCSG cùng với HTM làm Chủ tịch. Vì có khuynh hướng “quốc gia” cho nên LKSN bị các thanh viên trong Ban chấp hành TH muốn triệt tiêu anh. Nhóm nầy gồm có: Nguyễn Đăng Trừng - Huỳnh Tấn Mẫm - Trịnh Đình Ban. Và cái kết cuộc là Lê Khắc Sinh Nhựt bị bắn vào ngày 28/6/1971. *** Ai giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhựt? Thành đoàn Cộng sản hay Huỳnh Tấn Mẫm? 1- Bối cảnh lịch sử “Ngày 28/6/1971, thành đoàn CS ra lệnh cho biệt động thành bắn chết Sinh viên Lê Khắc Sinh Nhựt ngay tại hành lang trường Luật Sài Gòn. Ban ám sát thuộc Thành Đoàn Cộng Sản cử 2 tên tới Đại học Luật khoa số 4, DuyTân, nhận là người nhà của Lê Khắc Sinh Nhựt và muốn gặp anh có việc cần. Lúc đó sắp tới mùa thi cuối niên học, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thi cử tại một giảng đường. Nghe báo có người nhà tìm, Nhựt đi ra. Vừa tới hành lang trước phòng Ban đại diện sinh viên, tên ám sát nhận diện đúng là LKSN, hắn mau lẹ móc súng từ trong áo jacket ra bắn liền 3 phát trúng ngực LKSN. Sau đó, hắn vội vàng phóng ra ngoài và nhảy lên xe, do một tên khác lái, đang nổ máy chờ sẵn. Viên Cảnh sát đứng gác bên ngoài bắn mấy phát chỉ thiên. Trên đường đào tẩu, chúng còn quăng ngược lại một quả lựu đạn, nhưng may mắn lựu đạn không nổ. Thành đoàn CS giết LKSN vì 2 lý do: • Một là để răn đe các sinh viên thuần túy có tinh thần quốc gia; hai là để trả mối hận gây nên do Liên danh LKSN đã thắng liên danh Việt Cộng Trịnh Đình Ban (bảy điểm) trong cuộc bầu cử Ban Đại diện sinh viên Luật khoa niên khóa 70-71; • Đồng thời LKSN còn đứng Phó Nội vụ trong liên danh Lý Bửu Lâm (Kiến trúc) thắng cử trong cuộc bầu Ban Đại diện Tổng hội SVSG, giành lại Tổng hội SVSG từ tay Thành đoàn Cộng sản. Cuộc bầu cử này tổ chức tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (Nông Lâm Súc) vào ngày 20.6.1971. Sau khi biết kết quả kiểm phiếu nghiêng về liên danh Lý Bửu Lâm, bọn sinh viên Việt Cộng dở ngay bản tính côn đồ, chúng nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ẩu đả hỗn loạn (Trần Bạch Đằng. Trui Rèn Trong Lửa Đó. Tái bản 1. Trang 21). Bị thất bại trong cuộc bầu cử Tổng hội sinh viên, Thành Đoàn Cộng sản hết sức cay cú. Họ đã đưa ra 2 quyết định: Một là sát hại sinh viên LKSN; hai là chỉ thị Huỳnh Tấn Mẫm tập họp một số sinh viên tại trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lý vào ngày 28 tháng 7 năm 1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có. Đó là ‘Tổng hội Sinh viên Việt Nam’, do Huỳnh Tấn Mẫm làm chủ tịch và Nguyễn Thị Yến làm tổng thư ký. Quyết định hạ sát sinh viên LKSN là một quyết định tàn ác, đê tiện của Thành Đoàn Cộng Sản. Vì thế, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù họ tung ra nhiều tài liệu và sách báo khoe khoan thành tích đấu tranh của các tổ chức Thành Đoàn, nhưng đặc biệt họ không hề dám công khai nhắc tới ‘thành tích’ ám sát sinh viên LKSN." (Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh).” (Trích từ Huỳnh Bá Hải). Cũng từ tác giả Huỳnh Bá Hải cho biết thêm:” Đám tang của sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật chấn động Sài Gòn. Khiến giới Tin Lành ám ảnh kinh hoàng cho đến tận hôm nay. Đầu tiên gia đình an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi giờ là công viên Lê Văn Tám. Sau 1975 thì gia đình cải táng phần mộ anh Lê Khắc Sinh Nhật về nghĩa trang Ân Từ Viên kế bên phần mộ thân sinh của anh. Đây là nghĩa trang Tin Lành thuộc tỉnh Bình Dương ngày nay. Cho đến gần đây tôi mới khám phá ra nỗi ám ảnh của giới Tin Lành về việc quan tâm đến chính trị có ít nhiều đến cái chết của sinh viên Luật Khoa: Lê Khắc Sinh Nhật. Người Tin Lành trong và ngoài nước rất SỢ cụm từ "chính trị". Cho đến nay chúng ta chỉ nghe đến người Tin Lành ở Tây Nguyên biểu tình năm 2001 và 2004. Dưới miền xuôi thì chỉ biết đến các mục sư Nguyễn Hồng Quang, mục sư Thân Văn Trường, mục sư Dương Kim Khải, mục sư Nguyễn Mạnh Hùng. Còn lại các nhà thờ Tin Lành từ Nam chí Bắc, từ trong nước ra Hải Ngoại rất ngại và sợ khi bàn luận đến chính trị. Rồi những người gây tội ác ngày xưa như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đình Ban, Huỳnh Tấn Mẫm đều bị thất sủng và gạt ra bên lê của các nhóm lợi ích của các nhóm lợi ích. Nhưng chúng tôi chưa thấy những người này lên tiếng xin lỗi hay bị đền tội vì gây ra cái chết cho những người tài năng vô tội. Những ngày đầu năm 2021 thì nhóm phóng viên của báo Thanh Niên họp mặt. Tôi có nghe phong phanh có xô xát đánh nhau ngay trong bàn tiệc ngày đầu năm 1.1.2021 trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm, dù ông bị Nguyễn Công Khế cướp công. Bản chất của cộng sản là gian trá và bạo lực. Họ giỏi gieo rắc sự sợ hãi và sống trên nỗi lo sợ hãi hùng của nạn nhân. Không phải ngày xưa trước 1975 mà cho đến bây giờ cộng sản cũng đã dùng bạo lực để huỷ diệt nền văn minh và tiến bộ. Nguy hiểm nhất là cộng sản huỷ hoại nhân cách của con người và làm tê liệt mọi sự phản kháng trong xã hội. Sự ãnh cảm chính trị, bàng quan với vận mệnh dân tộc của giới Tin Lành Việt Nam có phần phát xuất từ sự sợ hãi bạo lực khủng bố của cộng sản. Cái chết của sinh viên Lê Khác Sinh Như6t là một ví dụ? Đám tang của sinh viên LKSN chấn động Sài Gòn. Khiến giới Tin Lành ám ảnh kinh hoàng cho đến tận hôm nay. Đầu tiên gia đình an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi giờ là công viên Lê Văn Tám. Sau 1975 thì gia đình cải táng phần mộ anh LKSN về nghĩa trang Ân Từ Viên kế bên phần mộ thân sinh của anh. Đây là nghĩa trang Tin Lành thuộc tỉnh Bình Dương ngày nay. Sau 1975 thì gia đình của anh Lê Khắc Sinh Nhựt về sống ở Tân Thuận- Quận 7, Sài Gòn. Chị ruột của anh LKSN là vợ của mục sư Nguyễn Bá Quang (đã mất ở Orange, CA, Hoa Kỳ) hiện nay đang định cư tại USA. 2- Nhân vật Huỳnh Tấn Mẫm Ông tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1942 tại xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định (bên trong Sân bay Tân Sơn Nhất ngày nay). Xong tiểu học, Mẫm thi đậu vào trường Trung học Petrus Ký (nay là Lê Hồng Phong). Năm 1963, ông Mẫm đậu Tú tài toàn phần và trúng tuyển kì thi vào Đại học Y khoa Sài Gòn, vì học khá cho nên được Bộ Y tế chính quyền Sài Gòn cấp học bổng. Năm 1958, lên 15 tuổi, đang học lớp Đệ ngũ (lớp 8) trường Petrus Ký, Mẫm được kết nạp vào tổ chức bí mật do Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí) cầm đầu. Tại đây, Mẫm từng được giao công tác rải truyền đơn chống chính quyền Sài Gòn và năm 1960 Mẫm được kết nạp vào Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Vì đã được kết nạp vào tổ chức của Công Sản nên thời kỳ Phong trào Phật giáo 1963, Mẫm luôn luôn có mặt và hành động táo bạo trong hầu hết các cuộc biểu tình chống chính quyền và đã từng bị bắt. Do quá trình tranh đấu, năm 1965, Mẫm được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng. Tại trường Y Sài Gòn, ông trúng ghế phó chủ tịch phụ trách ngoại vụ của trường. Được sự phân công của tổ chức, ông đại diện cho trường Y khoa Sài Gòn ứng cử vào Ban chấp hành Tổng hội Sinh viên Sài Gòn và trúng tiếp chức vụ Phó Chủ tịch phụ trách nội vụ. Theo luật, khi chủ tịch THSVSG tốt nghiệp ra trường, ông được đôn lên thay thế. Huỳnh Tấn Mẫm đã cùng với ban chấp hành lãnh đạo sinh viên chống quân sự hóa học đường, chống bắt đi lính, tổ chức những đêm đốt giường chiếu và ca hát ầm ĩ ở quân trường. Không chỉ vậy, ông Mẫm còn lãnh đạo những đêm nhạc"Hát cho đồng bào tôi nghe"đã khơi dậy lòng yêu nước khắp đường phố Sài Gòn. Năm 1971, ông tổ chức khởi động chiến dịch đốt xe Mỹ. Sinh viên còn tổ chức đốt xe Mỹ trước ống kính máy ảnh, quay phim của các hãng tin nước ngoài. Khoảng thời gian 1969-1972 là giai đoạn phong trào HSSV lên cao trào do sự xâm nhập của CSBV qua Thành đoàn Cộng sản. Theo lời chính HTM kể, vì mâu thuẫn giữa NVT và NCK sau bầu cử 1971. Nguyễn Cao Kỳ tiếp phái đoàn Đại diện HTM, LV Nuôi tại trại Phi Long. TH Sinh viên xin một trụ sở và được NCK thoải mãn, lấy nhà số 4 Tú Xương, và cung cấp xe cộ và vật dụng văn phòng. Nguyễn Cao Kỳ còn đi xa hơn nữa khi HTM làm yếu sách để xin vữ khí và được cấp rất nhiều lựu đạn KM3 (một loại lựu đạn gây tiếng nổ lớn nhưng không gây xác thương nhân mạng. Và có thể kết luận, Ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ vì tranh dành quyền lực cá nhân với Ông Nguyễn Văn Thiệu mà tiếp một bàn tay cùng với bàn tay đã nhúng chàm và vấy máu của Huỳnh Tấn Mẫm trong nhiều vụ ám sát sinh viên và nhân viên giảng huấn của ngành giáo dục đại học, trong đó có LKSN! Lịch sử sẽ ghi thêm một hành động tiếp tay với kẻ ác trong cái chết của sinh viên LKSN! 3- Thay lời kết Qua các sự kiện trên và qua những hành động phá hoại và nắm quyền hạn Chủ tịch Tổng hội SVSG do Thành đoàn Cộng sản giựt dây, có thể nói Huỳnh Tấn Mẫm đã trực tiếp gắn liền với cái chết của LKSN, dù không có một bằng chứng rõ rệt nào. “Quyết định hạ sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật là một quyết định tàn ác, đê tiện của Thành Đoàn Cộng Sản. Vì thế, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù họ tung ra nhiều tài liệu và sách báo khoe khoang thành tích đấu tranh của các tổ chức Thành Đoàn, nhưng đặc biệt họ không hề dám công khai nhắc tới ‘thành tích’ ám sát sinh viên LKSN" (Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh). Qua ngày tháng đong đưa, sự thật lịch sử lần lượt được phơi bày, và những người gây tội ác ngày xưa như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đình Ban, Huỳnh Tấn Mẫm, cùng với Lê Hiếu Đằng… đều bị thất sủng và gạt ra bên lề của các nhóm lợi ích do chính những cá nhân trong Bộ Chính Trị, Trương ương đảng….cầm đầu. Để rồi như con ếch hay con ểnh ương chỉ còn biết kêu than cho qua ngày tháng, để rồi trước khi hết đời như LHĐ…cho thành lập …Nhóm phản tỉnh …thốt lên vài tiếng kêu gọi đảng Cộng sản thực thi các loại …dân chủ giả cầy! Để trả lại công bằng cho lịch sử, các ông cần phải có đủ can đảm nói lên tội lỗi giết người của mình! • Các ông vẫn còn nợ sinh viên LKSN và gia đình một lời xin lỗi dù chỉ qua “cửa miệng”! • Tổ quốc Việt Nam sẽ không bao giờ tha thứ cho các ông về tội phản quốc và phản dân tộc nầy! Dù cho Thành đoàn Cộng sản hay các cá nhân kể trên là nguyên nhân trực tiếp cho cái chết của sinh viên LKSN, Đảng Cộng Sản Bắc Việt mới đích thị là nguyên nhân chính, vì Đảng tội đồ nầy chính là nguyên ủy của mọi sự ÁC giáng lên đầu dân tộc Việt ở miền Nam suốt hơn 50 năm qua… Và Huỳnh Tấn Mẫm cùng các đồng chí của ông còn nợ dân tộc Việt và gia đình của LKSN vì đã giết một người tài hoa, lịch lãm, tận hiến cho xã hội đó chính là LÊ KHẮC SINH NHỰT. Mai Thanh Truyết Hiệu đính 10/2024

Tuesday, October 22, 2024

Xin mở lại hồ sơ Bauxite Tân Rai và Tu Viện Bát Nhã ở Lâm Đồng ngày nào... Từ Bauxite Đến Tu Viện Bát Nhã Vũ Đông Hà (DLB):” Mọi thông điệp, chủ trương "hòa hợp hòa giải" nào có bóng dáng một đảng cầm quyền, một nhà nước đang cai trị, hay những tay sai công cụ của chúng muốn "bắt tay" với phía bị cai trị đều là một âm mưu chính trị mang tính mỵ dân và lừa đảo”. Kể từ đầu năm 2009, câu chuyện Bauxite bắt đầu nở rộ từ trong nước và ra hải ngoại. Dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký sắc lịnh số 167 ngày 1/11/2007 và đã bắt đầu khởi công từ đầu năm 2008 ở công trường Bảo Lâm (Bảo Lộc) và giữa năm 2008 ở công trường Nhân Cơ, Đắk Nông, nhưng chỉ chính thức công bố vào đầu năm 2009 mà thôi. Mặc dù có biết bao góp ý từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, cùng kinh nghiệm của những quốc gia đang khai thác như Liên bang Nga, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu. Từ đó đến nay, người Việt tại hải ngoại góp ý nhiều bài viết trên báo chí, trên mạng lưới toàn cầu cũng như trên đủ loại truyền thông khác như paltalk, truyền hình, truyền thanh của những nhà chuyên môn, ký giả và những người còn lưu tâm đến Đất và Nước Việt Nam về vấn đề trên. Quyển “Từ Bauxite đến Uranium: Tiến trình Đô hộ Việt Nam của Trung Cộng” đã xuất bản vào tháng 4/2009 và tái bản 2013 do GS Trần minh Xuân. TS Phan Văn Song và người viết. Hiện nay, tại Tân Rai và Nhân Cơ, có hai hình ảnh nổi bật nhứt là hai dãy nhà cao từng sừng sửng trên bầu trời, cao nhứt ở hai vùng nầy. Đó là hai tòa nhà "Bạch cung" Chinalco, một ở Nhân Cơ, tổng hành dinh của địa điểm khai thác và 5 địa điểm khai thác khác, chiếm diện tích tổng cộng 1.800 Km2, 1/3 diện tích của tỉnh Đắk Nông. Dãy nhà thứ hai ở Tân Rai, thuộc xả Lộc Thắng, Lâm Đồng chiếm diện tích khai thác là 2.297 Km2. Kết luận của người viết là Trung Cộng, qua sự đồng thuận của đảng CS Bắc Việt đã sử dụng hai vùng khai thác bauxite nầy chỉ là Diện và Điểm là một âm mưu của TC nhắm tới là chính thức và hợp thức hóa sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, và thậm chí những người quân nhân tình báo chiến lược để chiếm đóng và khai thác tất cả lợi điểm của vùng Cao nguyên Trung phần Việt Nam từ kinh tế, chính trị, quân sự, và khoáng sản ở nơi nầy. Câu chuyện Bauxite đã được chúng tôi khơi nguồn từ năm 2009, và quan điểm dứt khoát của chúng tôi là hình thái khai thác trên chỉ là một cuộc xâm lăng không tiếng súng của TC. Có thể nói, tất cả góp ý về việc khai thác quặng bauxite ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam là một việc làm hoàn toàn không ứng hợp với việc bảo vệ môi trường cùng hiệu quả kinh tế của việc khai thác, cũng như ảnh hưởng đến đời sống người dân, đặc biệt là những người thiểu số. Tất cả đểu khuyến cáo là không hiệu quả kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Cộng bị buộc phải đóng cửa trên 100 nhà máy khai thác bauxite trong đó có một nhà máy vừa mới khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của người dân và sức ép của luật môi trường. Tuy nhiên, trong vòng chưa đầy một tháng, tháng 6 năm 2009, hai sự kiện nỗi bật là sự kiện đánh phá nhà thờ Tam Tòa ở Quảng Bình và nhứt là, việc đánh đập tăng ni và tống xuất ra khỏi tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng đã làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước cũng như trên thế giới. Câu hỏi được đặt ra là, tại sao những sự kiện đánh phá tôn giáo lại nở rộ ra trong thời điểm nầy? Tất cả chúng ta điều biết CSBV đang nhức nhối và gánh chịu rất nhiều áp lực từ phía người dân trong nước và hải ngoại vì những việc làm "sai trái" trong khi chấp nhận cho Trung Cộng (TC) tiến chiếm đất biên giới miền Bắc, để mất Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa, để TC cấm cột mốc ở Đão Bảy Cạnh, đão lớn nhứt ở Côn Sơn, lãnh hải bị thâu hẹp và ngư dân đánh cá Việt Nam bị xua đuổi và bị đánh chìm tàu, cùng sự kiện để cho người Hán xâm nhập vào Việt Nam không cần hộ chiếu…. Nhưng một sự việc quan trọng nhứt là, CSBV lại để cho TC khai thác dưới danh nghĩa là khai thác Bauxite ở cao nguyên Trung phần Việt Nam qua công ty Chinalco. Việc làm nầy tạo ra cơ hội cho TC đem nguồn nhân sự đóng cùng khắp ở Việt Nam đặc biệt là ở Tân Rai (Lâm Đồng), Nhân Cơ (Đắk Nông), và Nông Sơn (Quảng Nam). Trong một số bài viết trước, chúng tôi đã chứng minh là TC đến các vùng vừa kể trên không phải để khai thác bauxite mà là khai thác quặng mỏ uranium. Ngày 21 tháng 4 năm 2009, tại Công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto, Canada, Ông Chủ tịch Tổng Giám Đốc John Lynch đã công bố bản tin sau khi họp với đối tác là Việt Nam rằng, Công ty đã đồng ý trên nguyên tắc về việc chia sẻ, khai triển và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam. Quả thật đây là một chỉ dấu cho thấy giả thuyết có nguồn nguyên liệu phóng xạ ở cao nguyên Trung phần Việt Nam là có thật. Chính nhờ đó mới có những giao kết thăm dò và khai thác giữa Việt Nam với các đối tác khác. Và TC, đã nắm bắt cũng như biết nguồn nguyên liệu nầy, vì vậy cho nên mới thực hiện dự án khai thác quặng mỏ bauxite để đánh lạc hướng thế giới thêm một lần nữa. Theo ước tính sơ khởi của công ty NWT thì cao nguyên có trữ lượng là 210 ngàn tấn quặng oxid uranium (U3O8) với nồng độ trung bình là 0,06%. Và ở một tài liệu khác cho biết hàm lượng quặng mỏ oxid uranium ở mỏ than Nông Sơn, Quảng Ngãi là 8.000 tấn quặng và có cùng một nồng độ trung bình với oxid uranium ở Cao nguyên. Theo ước tính của Hội đồng Năng lượng Thế giới (World Energy Council), trữ lượng Urranium trên thế giới là 13,792 triệu tấn, trong đó Việt Nam chứa 1,7% tức 237.300 tấn. Riêng tại vùng Nông Sơn, sự phân bổ được ghi nhận qua ước tính RAR (Resonable Assured Resources) như sau: tại Bến Giang (Đông Nam Nông Sơn) 1.337 tấn, Khế Hòa và Khế Cao, 6.744 tấn, và An Điền có trữ lượng 500 tấn quặng với nồng độ 0,034% Uranium. 1- Tu viện Bát Nhã Vào năm 2005, trong chuyến về Việt Nam lần thứ nhất của Thiền sư Nhất Hạnh, Thượng tọa Đức Nghi đã thỉnh mời thiền sư và tăng thân Làng Mai lên thăm tu viện Bát Nhã và Thượng tọa đã tuyên bố cúng dường tu viện Bát Nhã cho thiền sư Nhất Hạnh.” Xin nhắc lại là Thượng Tọa Đức Nghi đã từng đến San Diego, nam California, thăm tu viện Lộc Uyển của Thiền Sư Nhất Hạnh trước đó, và hứa sẽ khôi phục lại trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội do Thiền sư Nhất Hạnh lập năm 1964 và dâng tu viện Bát Nhã ở Lâm Đồng cho Thiền Sư Nhất Hạnh. Việc xây dựng tu viện Bát Nhã sau đó được thực hiện từ tháng 3 năm 2005 đến tháng 1 năm 2008. Chi phí mua đất và xây dựng từ 20-4-2005 đến 11-3-2008 là 14 tỉ 162 triệu đồng tiền Việt Nam do phật tử trong và ngoài nước đóng góp. Và vào ngày 27, 28, 29 tháng 6 năm 2009, 200 thanh niên thuộc xã hội đen của công-an VC sai bảo, tới Thiền-Viện Bát-Nhã đâp phá đồ đạc, vứt bỏ đồ ăn, cúp điện nước, khóa hết cửa ra vào. Mọi sự hỗ trợ bên ngoài đều vô vọng vì con đường độc đạo từ Bảo-Lộc vào Bát-Nhã đều có đám thanh niên tụ tập để kiểm tra!!! Rồi, vì một lý do thầm kín nào đó, ngày 1 tháng 9 năm 2009, Thượng tọa Đức Nghi đã gửi Bản Kiến Nghị tới 3 nơi: Hội đồng trị sư Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Trị sư Tỉnh hội Phật Giáo Lâm Đồng và Ban Đại diện Phật Giáo thị xã Bảo Lộc mà nội dung có những đoạn như sau:”Cách đây trên 3 năm, con đã nhiệt tình bảo lãnh để Làng Mai tu tập tại tu viện Bát Nhã. Được Giáo Hội Trung ương cho phép, văn thư số 212 ngày 22-5-2006, Ban Tôn Giáo Chính phủ cho phép, văn thư số 525 ngày 7-7-2006. Ban đầu con cứ tưởng Làng Mai tôn trọng Giáo hội Phật Giáo Việt Nam và Nghị định 22 của Ban Tôn giáo Chính phủ, cứ tưởng tôn trọng lời đề nghị của con tại Làng Mai 2006, lời đề nghị của con tại chùa Từ Hiếu năm 2007, lời đề nghị của con tại tu viện Bát Nhã năm 2008.Cả 3 lần trực tiếp gặp Sư ông Làng Mai (Thích Nhất Hạnh) để nói lên thực trạng của tu viện Bát Nhã. Giáo hội Làng Mai chưa được phép sinh hoạt tại Việt Nam, con chỉ đứng đơn xin tu theo pháp môn Làng Mai tại tu viện Bát Nhã. Nên mọi việc xảy ra con chịu trách nhiệm trước Giáo Hội và Nhà Nước. Con muốn tương lai tu viện Bát Nhã sẽ lên tới 1.000 tu sinh, nhưng những lời đề nghị của con lên Sư ông và quý vị giáo thọ không ai lắng nghe cả. Đã 3 năm qua, con đã hơn 10 lần bị kiểm điểm vì vi phạm Hiến chương Giáo Hội và Nghị định 22 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. … Kể từ hôm nay, ngày 01 tháng 09 năm 2009, con xin rút lại tất cả những văn thư con xin phép cho Làng Mai tu tập. Con không bảo lãnh, không chiụ trách nhiệm mọi việc sẽ xảy ra của Làng Mai tại tu viện Bát Nhã trong thời gian tới.” Sau đó, tình trạng của trên 400 “tu sinh” tại đây được cho biết là phải rời tu viện Bát Nhã. Những tu sinh này sau đó phải đến cu ngụ tại chùa Phước Huệ, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Nhưng họ vẫn bị truy đuổi khỏi chùa này. “Thầy” Nhất Hạnh vội vã viết thư cho Chủ tịch CS Nguyễn Minh Triết lá thư:”Tôi không biết hiện giờ Chủ Tịch đang ở đâu, nên nhờ mạng Phù Sa gửi một bản thư này đến Chủ Tịch. Đây là một tiếng chuông chánh niệm. Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương nhờ. Ngày xưa trong Cách Mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc che chở. Bây giờ cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (Tu viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy tìm tới tỵ nạn nơi một chùa khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc). Tôi xin Chủ Tịch kịp thời ngăn chận hành động sai trái chống luân thường đạo lý này”. Đến cuối năm 2009, khoảng gần 400 tu sĩ Làng Mai cư ngụ tại chùa Phước Huệ bị yêu cầu phải rời khỏi chùa này chậm nhất là vào ngày 31 tháng 12. Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào lúc đó đã phải nộp đơn lên Tổng thống Pháp Sarkozy xin cho 400 tu sĩ Làng Mai ở Bát Nhã được tị nạn ở Pháp. Và cuối cùng 400 tu sinh cũng bị tống xuất sau khi “Thầy” xin CS BV can thiệp không được. 2- Lý do vì sao các tu sinh bị tống xuất khỏi tu viện Bát Nhã Có nhiều lý do có thể được giải thích sau đây: • Phải chăng CSBV, trước quá nhiều áp lực của cộng đồng thế giới nhứt là người Việt trong và ngoài nước, đã tìm cách xoay chuyển sự chú ý của dư luận sang một hướng khác để người Việt quốc gia tập trung vào câu chuyện đàp áp tôn giáo mà quên đi hành động "Lê Chiêu Thống-Trần Ích Tắc" của họ? Vì làm như vậy, CSBV đã thu hẹp tầm quan trọng của vấn đề để chuyển sang tính cách nội bộ trong quốc gia, trong việc đàn áp tôn giáo hơn là những việc bán nước tày trời kể trên, liên quan đến những sự xáo trộn toàn vùng Đông Nam Á có thể xảy ra khi câu chuyện TC khai thác quặng mỏ uranium trở thành hiện thực. • Thêm một hướng suy khác nữa là, vị trí của tu viện Bát Nhã nằm trong địa bàn hoạt động mà CS BV đã nhượng cho TC khai thác bauxite ở xả Lộc Thắng chỉ cách thị xả Bão Lộc 15 Km về hướng Bắc với diện tích khai thác là 2.297 Km2. Tu viện Bát Nhã hiện có khoảng 400 tu sinh và có nhiều xác suất là số tu sinh sẽ tăng lên nhiều hơn nữa theo thời gian. Do đó, chủng tử của Phật giáo chắc chắn sẽ được gieo trồng cùng khắp ở miền cao nguyên trù phú nầy trong một tương lai không xa. Việc làm nầy sẽ là một trở ngại lớn cho sự có mặt của TC ở đây, vì tôn giáo là một khắc tinh của chủ nghĩa cộng sản. Do đó, dưới áp lực của đàn anh nước lớn và theo lệnh của ông chủ, CSBV bắt buộc phải triệt hạ tu viện Bát Nhã với bất cứ giá nào, dưới mọi hình thức đán áp man rợ như thời Trung Cổ để làm trọn nhiệm vụ bán nước của mình. Qua hai hướng suy nghĩ trên về vấn đề đàn áp tu viện Bát Nhã trong giai đoạn thực hiện dự án khái thác dự án của CSBV, từ đây chúng ta có thể liên kết vào sự kiện khai thác bauxite hay uranium của TC tại vùng nầy, hay nếu nói theo ngôn ngữ của Việt Nam hiện tại thì hai vấn đề trên có "liên hệ hữu cơ" mật thiết với nhau. Chính vì vậy, chúng ta cần phải có thái độ thích ứng với sự kiện đã xảy ra. 3- Người con Việt phải làm gì? Chắc chắn, mỗi người chúng ta dù ở trong nước hay ngoài nước đều có trách nhiệm và bổn phận trước việc tiến chiếm Cao nguyên Trung phần của TC qua sự tiếp tay của thái thú biết nói tiếng Việt là CSBV. Do đó, người Việt hải ngoại và quốc nội cần nên cảnh giác và thận trọng trong mục tiêu tranh đấu ngõ hầu nhận thức rõ đâu là Diện và đâu là Điểm như sự việc dựng chuyện khai thác quặng bauxite, nhưng thực sự là khai thác quặng mỏ uranium. Và việc đàn áp tu sinh Bát Nhã chính là để che đậy hành động bán nước của những người cầm quyền hiện tại mà thôi. Bất tuân dân sự sẽ là một chiêu thức tuyệt vời của toàn dân Việt trong điều kiện đấu tranh bất bạo động trước tiến trình toàn cầu hóa hiện nay. Sau cùng, để kết luận, CSBV đã cố tình dựng lên vụ Bát Nhã là tạo ra một phát súng nhắm vào hai hướng: • Một là làm sai lạc hướng đấu tranh của người Việt còn nặng tình với quốc gia; • Và hai là nhằm vào việc xóa tan mầm mống phật giáo trong lòng dân tộc. Hai việc trên chắc chắn sẽ được khắc ghi vào những trang sử đen tối nhứt của Việt Nam thời hiện đại qua câu chuyện Bắc thuộc lần thứ 5 nhằm thực hiện những điểu khoản ký kết của CSBV ghi trong Hội nghị Thành Đô ngày 3-4/9/1990. Phụ chú: Nguoiduatin • 2 hours ago Tài liệu 13 trang của Sở Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA): Thế lực chính trị của nhóm Phật Giáo phản loạn. Tác Giả: Trần Tú Uyên phiên dịch. http://saigonecho.info/main... Trần Tú Uyên phiên dịch từ tài liệu của USMACV. (Tổng cộng 13 trang tiếng Anh) - Nguyên gốc tài liệu tìm ở đây: http://www.vietnam.ttu.edu/... 1) Thích Trí Quang. 2) Thích Huyền Quang. 3) Thích Thiện Hoa. 4) Thích Pháp Trí. 5) Thích Pháp Siêu. 6) Thích Trí Thủ. 7) Thích Thanh Vân. 8) Thích Minh Châu. 9) Thích Hộ Giác. 10) Thích Đôn Hậu. 11) Thích Thiện Minh. 12) Thích Nhất Hạnh. Ai thống trị Việt Nam ngày nay: Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy? Tác giả Stephen B. Young. http://rossikuku.blogspot.c... HỒ CHÍ MINH ĐỨNG TÊN TRONG 13 KẺ ĐỘC TÀI ĐẪM MÁU NHẤT THẾ KỶ 20. http://rossikuku.blogspot.c... Hồ Chí Minh - đến từ Bắc Việt Số người chết: 1.7 triệu người Cầm quyền: 24 năm (1945-1969) Tội ác lớn nhất: Chiến tranh VN Thể chế chính trị: Cộng sản Nguyên nhân chết: Bệnh tim http://www.thedailybeast.co... ... ml#slide_4 Formosa: Cú lừa vĩ đại của Ba Đình và thủ đoạn thâm độc của Bắc Kinh http://danlambaovn.blogspot... Formosa là phương tiện, Bắc Kinh là thủ phạm, Ba Đình là đồng phạm Lãnh thổ nước nào trên đất VN? Nguoiduatin • an hour ago Kính cảm ơn Chú Mai Thanh Truyết. Đúng là Trung cộng thôn tính VN không cần súng đạn, chỉ cần tiền là có thể mua được gói "trúng thầu" để biến VN thành bãi rác công nghệ, vừa lập được căn cứ trú đóng quân sự tại Tây Nguyên. Mục đích của Trung cộng không hẳn là lợi nhuận từ bauxit. Formosa, cái chúng cần là hiện diện trên toàn cõi VN. Sách lược của Trung cộng là be bờ những nước có chung đường biên giới, biến nước nhỏ thành chư hầu giữ nhà cho nó. Hành động nối giáo cho giặc của nhóm cầm quyền cộng sản vừa có tiền nuôi kiêu binh, vừa đỡ lo sợ Trung cộng lại tiếp tục công bố những mật nghị mà cộng sản đã lén lút ký kết và cả chiến tranh. Về tôn giáo, cộng sản đánh phá khốc liệt trong nước. Ở hải ngoại thì có đám`đảng viên khoát áo thày tu và những kẻ bán linh hồn cho quỷ hoạt động tiếp tay đánh phá cộng đồng Việt tỵ nạn cộng sản. Nghị quyết 36 của VC đã bị đánh bại nhưng hệ lụy vẫn còn. Quốc gia Việt Nam là trên hết. Không tổ chức đảng phái nào có quyền nhân danh để làm điều xằng bậy. Không có khái niệm độc quyền yêu nước. Với ông Thích Nhất Hạnh. Một khi người tu hành che giấu Việt Minh, cộng sản nằm vùng đánh phá Miền Nam, không thể gọi đó là Từ bi bác ái. Đó là hành động tiếp tay cho sự ác vì ngu muội hoặc háo danh. Ai rồi cũng phải chết, nhưng chết trong danh dự hoàn toàn khác với cái chết vì danh lợi. Trọng kính Bụi đời Trần Văn Trụi Ngoc Truong • 2 hours ago Ngày vc tiến vào Saigon, 30 4 1975, chính mắt tôi thấy bọn thầy chùa phất cờ phật giáo và cờ v+ đón mừng lính bắc việt trên đường Lê văn Duyệt, qua khỏi ngã ba Hòa Hưng. Còn ở đại học Vạn hạnh, hai tên thầy chùa áo nâu, chục thằng sinh viên hò hét, hoan hô cộng sản, vậy bọn này đều là zombie hay thú rừng không trí óc? Bọn tay sai cộng sản, cho tới bây giờ vẫn có người e dè không dám nói thẳng, sợ xúc phạm đạo đức "mấy thầy", sau này lên niết bàn không được. Sucks man. Phan Công • 3 hours ago Tôi chưa từng thấy một người miền Nam nào phàn nàn hay chỉ trích chế độ VNCH. Trái lại, những người căm thù tên Tàu HCM nhiều nhất, những người đấu tranh chống cs mạnh nhất lại là những đảng viên cs và những người sinh ra và lớn lên trong cái lò ... XHCN! - "Tôi biết đi với TQ là rất nguy hiểm, nhưng thà mất nước chứ quyết không để mất đảng" (Nguyễn Văn Linh). - "Ta đánh Mỹ là đánh cho LX, đánh cho TQ" (Lê Duẫn). - "Chỉ có những kẻ ngu mới đi chống Mỹ" (Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu). Trực ngôn • 3 hours ago Bài viết rất thuyết phục của tác giả Mai Thanh Truyết, một lần nữa, đã vạch trần âm mưu thâm độc của Tàu cộng. Chúng, Tàu cộng, đã TẠM THỜI thành công trong việc sai tên Tàu HCM lập ra đảng cs tay sai để giúp chúng chiếm đóng đất nước VN và tiêu diệt dân tộc VN, một dân tộc kiên cường, từng 13 lần đánh bại giặc Tàu xâm lược. Dân Nam • 5 hours ago Để rộng đường thông tin, nhờ BBT/DLB cho đăng bài báo phía dươi, cám ơn. THIỀN SƯ NHẤT HẠNH- KẺ ĐÁNH ĐU VỚI TINH: VỀ VỚI ĐẤT HAY CHƯA VỀ VỚI ĐẤT?! -T/g LÃO MÓC - Vậy, Thiền sư Nhất Hạnh là ai? Và quá trình hoạt động ra sao? -Tên thật Thiền sư Nhất Hạnh là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại làng Minh Hương (Bảo Vinh), huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. -Pháp danh Trùng Quang, đã xuất gia tu học từ năm 16 tuổi với Hòa thượng Thanh Hạ Quý thuộc môn phái Tổ đình Từ Hiếu. -Đầu thập niên 1950, Đại đức Thích Nhất Hạnh học Trung học tại Huế. -Năm 1956, Đại đức vào Sàigòn học Đại học Văn khoa. Đỗ Cử nhân Văn khoa khoảng 1959. -1960: Góp phần thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và sáng lập trường Thanh Niên Phụng sự Xã hội, nhà xuất bản Lá Bối. -Năm 1961, Viện Đại học Vạn Hạnh cử Đại đức Thích Nhất Hạnh du học tại đại học Princeton, tiểu bang New Jersey về môn Tôn giáo đối chiếu. Thời gian này Đại đức Nhất hạnh thường thuyết giảng về Phật Giáo tại Đại học Columbia với tư cách một nhà sư gốc Á châu. -Năm 1964, Thượng tọa Thích Trí Quang viết thư yêu cầu Đại đức Nhất Hạnh mau trở về nước để hỗ trợ cho Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. (Theo Bạch thư của Hòa thượng Thích Tâm Châu). -Năm 1966, Thượng tọa Thích Trí Quang phái Đại đức Thích Nhất Hạnh ra ngoại quốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, đòi quyền tự quyết, lập chính phủ hòa giải dân tộc. Đại đức Nhất Hạnh đến Pháp với tư cách Trưởng phái đoàn Hòa Bình của Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất tại cuộc Hòa Đàm Paris về Việt Nam. Mục đích của phái đoàn Phật Giáo do Đại đức Nhất Hạnh lãnh đạo là nói cho thế giới biết rằng: “Dân Việt Nam không muốn đánh nhau nữa, chỉ muốn ngồi xuống thương thuyết để đi tới một giải pháp hòa bình”. -Tháng 5-1966, Đại đức Nhất Hạnh định cư tại Pháp và tích cực tham gia các sinh hoạt phản chiến. -Từ năm 1968, sư cô Chân Không đã qua Pháp làm phụ tá cho Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, đã yểm trợ các công tác về hoà bình, về xã hội, về hướng dẫn các khóa tu học được tổ chức khắp nơi trên thế giới và giúp xây dựng và quản trị Làng Hồng rồi Làng Mai. Mỗi năm có hàng trăm thiền sinh trên thế giới về đây tu học. Chính Thiền sư Nhất Hạnh đã viết về ni sư Chân Không trong bài “Ngày Em Hai Mươi Tuổi” như sau: Ni sư Chân Không đã có mặt với tôi bắt đầu năm 1968 cho tới bây giờ, đã yểm trợ tất cả các công tác về hòa bình, về xã hội của tôi một cách liên tục.” -Từ năm 1966, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh bắt đầu hành xử như một thiền sư, ăn mặc nâu sòng, giản dị, mặc nhiên không còn ưa gọi Thượng Tọa nữa, cả họ Thích của các bậc tu hành thọ từ 250 giới trở lên cũng ít dùng tới. Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành Thiền sư Nhất Hạnh, nổi tiếng khắp thế giới. Bài viết này có cái tựa “Thiền sư Nhất Hạnh: kẻ đánh đu với tinh” vì chính ông Thượng Tọa Thích Đức Nghi này là kẻ đã qua Làng Mai năn nỉ, ỉ ôi Thiền sư Nhất Hạnh và sau đó, vào năm 2005 đã tuyên bố cúng dường tu viện Bát Nhã cho Thiền sư Nhất Hạnh, nay đã hiện nguyên hình… con tinh mà Thiền sư Nhất Hạnh đã đánh đu trong bao lâu nay!. Thiền sư Nhất Hạnh đã bất chấp tội vọng ngữ, lớn tiếng vu oan giá họa cho Không lực Hoa Kỳ ném bom thiêu hủy 300 ngàn nóc gia ở thị xã Bến Tre trong Tết Mậu Thân 1968 nên đã bị quả báo là đã bị bọn Al Queda dùng phi cơ đánh sập hai toà nhà Trung Tâm Tâm Thương Mại ở New York sát hại hàng mấy ngàn người. Từng bước, từng bước thiền sư Nhất Hạnh đã được mấy anh lớn bên nhà cho phép đem “pháp môn Làng Mai” về nước để truyền bá. Và nhất là đem tiền bạc về xây dựng tu viện Bát Nhã với Rừng Phương Bối, xóm Bếp Lửa Hồng, thiền đường Tâm Bất Động, cư xá Phượng Vĩ, thiền đường Cánh Đại Bàng, công trường Bông hồng cài áo, cốc Lưng Đồi, cư xá Tâm Ban Đầu, cốc Trà Thơm… Rốt cuộc “Làng Mai Bát Nhã, kịch bản trắng tay” đúng như cái tựa bài viết của luật sư Đỗ Thái Nhiên. Ba Phi • an hour ago Đảng cs của tên Tàu HCM cứ tưởng âm mưu phá nước và bán nước của chúng là không ai biết. Không ngờ, còn có nhiều nhà trí thức, nhà khoa học hải ngoại như GS Trần minh Xuân, TS Phan Văn Song và TS Mai Thanh Truyết (tác giả quyển sách “Từ Bauxite đến Uranium: Tiến trình Đô hộ Việt Nam của Trung Cộng”) v.v. đã âm thầm vạch rõ cho đồng bào VN thấy rõ âm mưu thâm độc của tên Tàu HCM và đảng cs của y. Thế mới biết, chế độ VNCH đã đào tạo được những thế hệ người VN yêu nước mãnh liệt như thế nào. Hàn sĩ • an hour ago (Trích: "Do đó, người Việt hải ngoại và quốc nội cần nên cảnh giác và thận trọng trong mục tiêu tranh đấu ngõ hầu nhận thức rõ đâu là Diện và đâu là Điểm như sự việc dựng chuyện khai thác quặng bauxite, nhưng thực sự là khai thác quặng mỏ uranium. Và việc đàn áp tu sinh Bát Nhã chính là để che đậy hành động bán nước của những người cầm quyền hiện tại mà thôi. Hết trích). Xin cảm ơn TS Mai Thanh Truyết đã đã rất nhiệt tình với quê hương, kiên trì báo động với toàn dân về âm mưu tàn phá môi trường sống và bán nước cho giặc Tàu của đảng cs VN. Trân trọng. Hòn Nghê • 6 hours ago Báo động đỏ từ nhà báo Tom Phillips in Beijing Tuesday 12 September 2017 03.20 EDT: Từ tin này, các bạn làm ơn nhắc dân Việt chớ có mà mua bất cứ thức ăn gì của Tàu+! Nếu hàng hoa' không tuôn vào VN qua ngã biên giới Tàu phù thì qua các nước thứ ba khác: Campuchia, Lào, lắm khi từ HK hay Đài Loan (mạo danh) hổng chừng! https://www.theguardian.com... Và đã có: http://www.nytimes.com/2007... Dung Lê Đăng ledangdung952@gmail.com Aug 19 Chào anh Truyết! Tôi là một người đã nghĩ hưu từ năm 2008. Tôi vẫn thường xuyên vào đọc Dân Làm Báo. Hôm nay ngày 20/8/2017, tình cờ tôi thấy có bài viết nhan đề: Vén màn bí mật tại Việt Nam: Quặng bauxite hay quặng phóng xạ? Đọc bài viết của anh, trước hết tôi thấy anh là một nhà khoa học giỏi, có tinh thần yêu nước thương dân. Lúc nào cũng trăn trởvề tình hình đất nước. Tôi chỉ là một ''kỹ sư'' dưới chế độ cộng sản khát máu, hèn với giặc ác với dân.Tôi không hiểu tại sao chính phủ Hoa kỳ lại làm ăn với một chế độ độc tài như đảng cướp sạch Việt Nam? Tôi chỉ sơ qua mấy lời thăm hỏi anh và chúc anh luôn mạnh khỏe để khi Việt Nam không còn cộng sản thì anh hãy về góp phần xây dựng đất nước, chẳng hạn như khoa học gia Dương Nguyệt Ánh và nhiều nhà khoa học giỏi hiện đang làm việc tại Hoa Kỳ… Tôi là một người ở trong nước, nhưng ở độ tuổi U70 rồi nên tôi cùng từng trải cuộc đời khốn nạn ở chế độ CS khát máu và cũng quan tâm đến hiện tình đất nước, thương người dân mình thật thà chất phác CS bảo sao nghe vậy. Cảm ơn sự hồi am của anh. Nếu có thể anh cho tôi xin địa chỉ email của Lisa phạm. Tôi ngày nào cũng xem livestream của cô ấy, nhưng không liên lạc được với cô ấy. Cảm ơn anh! Lê Đăng Dung Sư? • an hour ago Sư gì Nhất Hạnh! Chỉ là 1 dạng dlv cao cấp của việt cộng nhận lệnh để sủa theo ý chúng nó thôi. Hết sôi rồi việc. Bị chúng nó đá cho vài đá mà vẩn còn can đãm vác đầu về thì đúng là cái nòi vc chính tông: da mặt dày hơn đít trâu. Lâm Viên • 3 hours ago "Tôi xin Chủ tịch kịp thời ngăn chận hành động sai trái chống luân thường đạo lý này "? Chính thằng chủ tịch đã ra lệnh cho đàn em nó làm mà sao thầy lại xin nó ngăn chận .Ngay cả bản thân thầy, khi thầy phản chiến mà thầy không chống chúng nó.Thầy cũng phạm tội lộng ngôn khi thầy nói Mỹ dội bom 300 ngôi nhà dân ở Bến tre.Thầy cũng đã làm chuyện"chống luân thường đạo lý" Ác lai, ác báo .Gieo nhân nào, lãnh quả nấy .Chuyện Làng Mai là quả báo của thầy đấy .Quả báo nhãn tiền. Đâu cần đợi tới kiếp sau phải không "Thiền sư"?

Thursday, October 10, 2024

Hoa Kỳ - Trung Cộng: Cuộc chiến Công Nghệ Lạnh Trước hết, câu hỏi đầu tiên được đặt ra là, liệu Trung Cộng có đang bắt kịp Hoa Kỳ về công nghệ không? Câu trả lời từ Information Technology and Innovation Foundation, một tổ chức tư vấn phi đảng phái có trụ sở tại Washington, ngày 29/9/2024, tập trung vào công nghệ, lập luận rằng TC đã vượt qua Hoa Kỳ trong một số ngành công nghiệp và nhanh chóng bắt kịp trong các lĩnh vực mà nước này không dẫn đầu. Câu hòi tiếp theo liệu TC có mạnh hơn Hoa Kỳ hay không? Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh ờ London tính toán rằng TC thực sự sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trong 21 năm, trước khi Hoa Kỳ giành lại vị trí dẫn đầu vào năm 2057, và bản thân nó sẽ bị Ấn Độ vượt qua vào khoảng năm 2081. Ngày 21 tháng 3 năm 2024. Và dưới đây là những dự đoán về các thay đổi “lãnh đạo” từ nay cho đến năm 2100: Quốc gia nào sẽ thống trị thế giới vào năm 2050? Câu trả lời là… Trung Cộng, Ấn Độ và Hoa Kỳ sẽ nổi lên như ba nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2050, với tổng GDP thực tế tính theo đô la Mỹ cao hơn 70 phần trăm so với GDP của tất cả các quốc gia G20 khác cộng lại. Chỉ riêng tại TC và Ấn Độ, GDP dự kiến sẽ tăng gần 60 nghìn tỷ đô la, tương đương quy mô hiện tại của nền kinh tế thế giới. Và quốc gia nào sẽ thống trị thế giới vào năm 2100? Theo dự báo của Fathom Consulting, ngày 22/2/2024 thì các nền kinh tế châu Á như TC và Ấn Độ dự kiến sẽ dẫn đầu nền kinh tế toàn cầu với tỷ trọng GDP cao nhất. Báo cáo dự báo TC sẽ chiếm 22,68% và đạt 101 nghìn tỷ đô la vào năm 2100. Sau đây là những quốc gia có tầm nhìn xa nhất vào năm 2024: • Hoa Kỳ. • Hàn Quốc. • Nhật Bản. • Trung Quốc. • Singapore. • Đức. Một câu hỏi tiếp, Ai sẽ là quốc gia giàu nhất vào năm 2030? Trên thực tế, TC được nhiều người coi là nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2030, đã có nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng trong vài thập kỷ qua, nhưng vận may của nước này dường như đã thay đổi sau Covid-19. Dự đoán: Các nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới vào năm 2030 • Brazil — 4,439 nghìn tỷ đô la. • Đức — 4,707 nghìn tỷ đô la. • Nga — 4,736 nghìn tỷ đô la. • Indonesia — 5,424 nghìn tỷ đô la. • Nhật Bản — 5,606 nghìn tỷ đô la. • Ấn Độ — 19,511 nghìn tỷ đô la. • Hoa Kỳ — 23,475 nghìn tỷ đô la. • Trung Quốc — 38,008 nghìn tỷ đô la. 1- Hoa Kỳ - Trung Cộng trong thế triệt buộc Như vậy, rõ ràng là Hoa Kỳ và TC đang bị mắc kẹt trong một "cuộc chiến công nghệ lạnh" và bên chiến thắng sẽ thống trị thế kỷ 21. Bắc Kinh không được coi là một đối thủ công nghệ cách đây một thập kỷ. Bây giờ, một số người gọi đó là một nhà lãnh đạo. Hoa Kỳ đã đi sau trong các lĩnh vực quan trọng. Không có gì ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc biến chế độ của họ thành một cường quốc công nghệ. Đầu tiên, họ phát triển và sau đó thực hiện các kế hoạch và dự án kéo dài nhiều năm, áp dụng một cách tiếp cận kiên quyết, có phương pháp và kỷ luật. Kết quả là, các nhà lãnh đạo chính trị của Trung Quốc và đội quân chuyên gia kỹ trị của họ có thể sớm sở hữu các công nghệ của tương lai. Hoa Kỳ vẫn có thể bắt kịp. Thật không may, người Mỹ, tập trung vào các vấn đề khác, không đáp ứng được những thách thức mà Trung Quốc đặt ra. Hoa Kỳ cần phải huy động toàn xã hội để giành lại những gì họ từng có: quyền kiểm soát các công nghệ tiên tiến. Đây là cách Hoa Kỳ lên mặt trăng và đây là chìa khóa để giành chiến thắng trong thế kỷ này. Người Mỹ có thể không thích thực tế rằng họ một lần nữa lại rơi vào cuộc đấu tranh kiểu Chiến tranh Lạnh, nhưng họ sẽ phải thích nghi với thực tế đó hoặc bị bỏ lại phía sau. 2- Về cuốn sách “Cuộc chiến Công nghệ Vĩ đại giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng TS Gordon Chang đã sống và làm việc tại Trung Cộng trong gần hai thập kỷ, gần đây nhất là tại Thượng Hải, với tư cách là cố vấn cho công ty luật Hoa Kỳ Paul Weiss. Các bài viết của ông về Trung Quốc đã được xuất bản trên "The New York Times", "The Asian Wall Street Journal", "The Far Eastern Economic Review", & "The International Herald Tribune. Ông đã xuất bản hàng chục quyển sách nói về những biến động, âm mưu của các cường quốc trên thế giới, trong đó có ba quyển sách trực tiếp liên quan đến cuộc đối đầu Mỹ - Trung, người viết chú ý vào dưới đây: • Cuộc chiến hạt nhân: Triều Tiên thách thức thế giới - "Nuclear Showdown: North Korea Takes On the World" -– 2006. Nơi đây, Ông tập trung vào tham vọng hạt nhân của Triều Tiên và những tác động đối với an ninh toàn cầu. tác giả thảo luận về sự bất chấp các chuẩn mực quốc tế của chế độ Triều Tiên và cách hành động của họ có thể gây ra xung đột rộng hơn, đặc biệt là khi Hoa Kỳ và TC đóng vai trò chủ chốt. • "Kế hoạch hủy diệt nước Mỹ của Trung Cộng” - China's Plan to Destroy America là một cuốn sách bàn về mối đe dọa mà TC đặt ra đối với Hoa Kỳ và các giá trị của phương Tây. Trong cuốn sách, Ông lập luận rằng TC đang theo đuổi một chiến lược dài hạn nhằm mở rộng ảnh hưởng toàn cầu và làm suy yếu sự thống trị của Mỹ. Ông phân tích các yếu tố như kinh tế, quân sự và công nghệ mà TC đang xử dụng để đạt được mục tiêu này. Ông cũng thảo luận về các chính sách của chính phủ TC và cách chúng vận hành có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia của Mỹ. Qua đó, cuốn sách kêu gọi sự cần thiết phải nhận thức và hành động từ phía Mỹ để bảo vệ lợi ích và giá trị của mình. Cuốn sách đã thu hút sự chú ý nhờ những quan điểm gây tranh cãi và phân tích sâu sắc về mối quan hệ Mỹ - Trung. Nó khuyến khích độc giả suy nghĩ về những thách thức và cơ hội trong thế giới hiện đại, cũng như vai trò của Hoa Kỳ trong việc đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. "China's Plan to Destroy America" được xuất bản vào năm 2021. • Và cuốn sách “Cuộc chiến công nghệ vĩ đại giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng" - "The Great U.S.- China Tech War" - (2020). Trong cuốn nầy tác giả đi sâu vào cuộc cạnh tranh công nghệ giữa Hoa Kỳ và TC, lập luận rằng cuộc chiến công nghệ này là mặt trận chính trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn để giành quyền thống trị toàn cầu. Ông phác thảo tham vọng của TC trong các lĩnh vực như AI, 5G và năng lực mạng, đồng thời cảnh báo về những rủi ro an ninh quốc gia đối với Hoa Kỳ. Ba cuốn sách nầy phản ảnh trọng tâm của Chang về quan hệ Hoa Kỳ-TC, chủ nghĩa độc tài của TC và các xung đột địa chính trị rộng lớn hơn, đặc biệt là trong bối cảnh sức mạnh công nghệ và quân sự. 3- Tại sao TS Chang viết cuốn sách thứ ba trong thời điểm nầy? Gordon G. Chang đã viết "Cuộc chiến công nghệ vĩ đại giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng" vào thời điểm cụ thể này vì sự cạnh tranh công nghệ giữa Hoa Kỳ và TC đã trở thành một trong những khía cạnh quan trọng nhất của cuộc cạnh tranh địa chính trị và kinh tế rộng lớn hơn và có tính cách toàn cầu. Một số yếu tố chính đã góp phần vào tính cấp thiết của việc viết cuốn sách theo quan điểm của tác giả như dưới đây: * Căng thẳng leo thang giữa Hoa Kỳ và TC: Trong những năm gần đây, căng thẳng giữa Hoa Kỳ và TC đã gia tăng, đặc biệt là dưới thời chính quyền Trump và Biden. Cuộc chiến công nghệ nổi lên như một yếu tố cốt lõi của cuộc xung đột này, với cả hai quốc gia cạnh tranh để dẫn đầu trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, mạng 5G, máy tính lượng tử và chất bán dẫn. Cuộc chiến thương mại, lệnh trừng phạt và các hành động chống lại những gã khổng lồ công nghệ TC như Huawei đã nhấn mạnh sự nghiêm trọng của cuộc chiến này. * Tham vọng công nghệ của TC: TC đã đưa ra các sáng kiến như Made in China 2025 và tham vọng AI của mình để trở thành quốc gia dẫn đầu toàn cầu về công nghệ tiên tiến. Động thái mạnh mẽ này, được hỗ trợ bởi các nỗ lực do nhà nước tài trợ và hành vi trộm cắp sở hữu trí tuệ, được coi là một thách thức trực tiếp đối với sự thống trị của Hoa Kỳ trong lĩnh vực công nghệ, gây ra mối lo ngại về những hậu quả tiềm tàng đối với sự lãnh đạo và an ninh toàn cầu. * Mối quan ngại về an ninh quốc gia: Tác giả lập luận rằng cuộc chiến công nghệ có tác động sâu sắc đến an ninh quốc gia. Các công nghệ như 5G, trí tuệ nhân tạo và an ninh mạng không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn rất quan trọng đối với các ứng dụng quân sự và sự thống trị thông tin. Mối đe dọa của các cuộc tấn công mạng, gián điệp và kiểm soát các mạng lưới truyền thông toàn cầu đã khiến cuộc cạnh tranh này trở nên cấp bách hơn. * Ảnh hưởng đến trật tự thế giới: Ông coi cuộc cạnh tranh công nghệ này là cuộc chiến giành tương lai của quyền lực toàn cầu. Bất kỳ ai kiểm soát được công nghệ của ngày mai đều có thể ảnh hưởng đến trật tự thế giới, nền kinh tế và các cấu trúc quản trị. Khi TC ngày càng quyết đoán hơn trên trường quốc tế, TS Chang thúc giục Hoa Kỳ hành động nhanh hơn để bảo vệ vai trò lãnh đạo của mình. Với đề tựa "Cuộc chiến công nghệ vĩ đại giữa Hoa Kỳ và TC", Ông hy vọng sẽ nâng cao nhận thức về những nguy cơ do sự trỗi dậy về công nghệ của TC gây ra và ủng hộ các chính sách mạnh mẽ hơn của Hoa Kỳ để bảo vệ các lợi ích công nghệ và chiến lược của mình. Ông coi thời điểm này là bước ngoặt, nơi Hoa Kỳ phải phản ứng quyết liệt để duy trì lợi thế cạnh tranh và ảnh hưởng toàn cầu của mình. 4- Nhận định của TS Chang có thuyết phục hay không? Quan điểm của Tiến sĩ Gordon G. Chang trong "Cuộc chiến công nghệ vĩ đại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc" bắt nguồn từ niềm tin rằng sự trỗi dậy của TC như một cường quốc công nghệ gây ra mối đe dọa trực tiếp và đáng kể đối với an ninh quốc gia, lợi ích kinh tế và vị thế lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ. Quan điểm của ông phản ánh lập trường chỉ trích sâu sắc đối với chính phủ TC và các chiến lược của nước này, và ông ủng hộ phản ứng quyết đoán hơn của Hoa Kỳ để chống lại tham vọng của TC. Nhưng liệu các kết luận của Gordon G. Chang trong "Cuộc chiến công nghệ vĩ đại giữa Hoa Kỳ và TC" có thuyết phục hay không tùy thuộc vào cách người ta đánh giá các lập luận và bằng chứng của ông. Chang là một nhà phê bình nổi tiếng của TC và quan điểm của ông phản ánh mối quan tâm sâu sắc về những rủi ro mà TC gây ra cho Hoa Kỳ, đặc biệt là về mặt công nghệ và an ninh quốc phòng. Sau đây là một số điểm cần cân nhắc về tính thuyết phục trong kết luận của ông: Các khía cạnh thuyết phục: * Mối quan tâm thực sự về tham vọng công nghệ của TC: TC đang tích cực theo đuổi sự thống trị công nghệ được dân chúng Tàu ủng hộ mạnh mẽ vì có tinh thần tự ái dân tộc cao. Các sáng kiến như Made in China 2025 và khoản đầu tư lớn của TC vào các lĩnh vực như AI, máy tính lượng tử và chất bán dẫn là bằng chứng rõ ràng về tham vọng của nước này. Hơn nữa, việc TC xử dụng các doanh nghiệp do nhà nước hậu thuẫn và bị cáo buộc đánh cắp sở hữu trí tuệ là những vấn đề đã được ghi chép rõ ràng khiến các nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác lo ngại. * Ý nghĩa về an ninh quốc gia: Ông coi TC không chỉ là đối thủ cạnh tranh mà còn là mối đe dọa hiện hữu đối với Hoa Kỳ. Ông lập luận rằng tham vọng công nghệ của TC được chính phủ độc tài hậu thuẫn, được thiết kế để đạt được sự thống trị toàn cầu và thay thế Hoa Kỳ trở thành cường quốc hàng đầu toàn cầu. Ông đã thuyết phục liên kết cuộc chiến công nghệ với các mối quan ngại về an ninh quốc gia, đặc biệt là liên quan đến các công nghệ quan trọng như 5G và an ninh mạng. Khẳng định của ông rằng Hoa Kỳ không thể để mất lợi thế công nghệ của mình có sức thuyết phục cao vì việc tích hợp công nghệ tiên tiến vào các hệ thống quân sự, tình báo và truyền thông khiến cuộc cạnh tranh này không chỉ đơn thuần là kinh tế. Rủi ro do gián điệp và tấn công mạng là có thật qua kế hoạch Ngàn nhân tài của TC, cũng như cần phải có sự đồng thuận của lưỡng đảng tại Hoa Kỳ về nhu cầu bảo vệ chống lại các mối đe dọa trên. * Kêu gọi hành động chiến lược: Ông ủng hộ việc Hoa Kỳ có lập trường hung hăng và chiến lược hơn trong cuộc chiến công nghệ với TC. Ông tin rằng Hoa Kỳ phải làm nhiều hơn nữa để bảo vệ sở hữu trí tuệ của mình, cắt đứt TC khỏi các công nghệ quan trọng (như chất bán dẫn tiên tiến) và tách rời các chuỗi cung ứng chính để ngăn TC giành thêm lợi thế. Ông thúc giục Hoa Kỳ dẫn đầu các nỗ lực toàn cầu nhằm hạn chế TC tiếp cận các công nghệ mới nổi và xây dựng liên minh mạnh mẽ hơn với các quốc gia dân chủ khác để đối đầu với tham vọng công nghệ của Trung Quốc. Lập luận của TS Chang rằng Hoa Kỳ cần phải hành động mạnh mẽ hơn phù hợp với các xu hướng chính sách được thấy trong những năm gần đây. Hoa Kỳ đã áp đặt các lệnh trừng phạt, hạn chế thương mại và chặn quyền tiếp cận công nghệ bán dẫn tiên tiến của TC, điều này chứng tỏ rằng nhiều người trong chính phủ Mỹ đã chia xẻ mối quan tâm của ông. Việc Ông thúc đẩy các biện pháp tiếp tục hoặc tăng cường để hạn chế quyền tiếp cận của TC đối với các công nghệ quan trọng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ phù hợp với các thay đổi chính sách hiện tại. Tuy nhiên, suy nghĩ của Ông vẫn còn nhiều hạn chế tiềm ẩn: * Quá nhấn mạnh vào các mối đe dọa: Những người chỉ trích có thể lập luận rằng Ông đưa ra quan điểm hơi thiên vị hoặc gây hoang mang về sự trỗi dậy của công nghệ TC. Mặc dù tham vọng của TC là có thật, một số nhà phân tích tin rằng đất nước này phải đối mặt với những thách thức nội bộ đáng kể, chẳng hạn như sự phụ thuộc vào công nghệ bán dẫn nước ngoài và khó khăn trong việc đạt được sự đổi mới thực sự. Những thách thức này có thể hạn chế khả năng vượt qua Hoa Kỳ của TC nhanh như Ông d0a4 gợi ý trong sách. Kết luận của ông có vẻ kém cân bằng hơn khi so sánh với những người tin rằng cuộc đua công nghệ mang tính cạnh tranh hơn nhưng không thảm khốc đối với Hoa Kỳ. * Bỏ qua các điểm mạnh của Hoa Kỳ: Trong khi Chang tập trung vào các mối đe dọa từ TC, ông có thể đánh giá thấp các điểm mạnh hiện có của hệ sinh thái công nghệ Hoa Kỳ, bao gồm sự thống trị của nước này trong các lĩnh vực chính như AI, phát triển phần mềm và thiết kế chất bán dẫn. Hoa Kỳ tiếp tục thu hút nhân tài toàn cầu, dẫn đầu trong nghiên cứu và phát triển, và duy trì các trung tâm đổi mới như Thung lũng Silicon. Một số người có thể cho rằng kết luận của Chang bỏ qua khả năng phục hồi và khả năng thích ứng của ngành công nghệ Hoa Kỳ. Đây chính là sức mạnh thực sự của Hoa Kỳ. * Tác động kinh tế rộng hơn: Một số người chỉ trích cách tiếp cận cứng rắn, như cách mà Ông ủng hộ, cho rằng việc leo thang chiến tranh công nghệ quá mức có thể phản tác dụng về mặt kinh tế. Việc tách khỏi TC có thể gây tổn hại đến chuỗi cung ứng toàn cầu, đẩy chi phí lên cao và gây hại cho các công ty Hoa Kỳ phụ thuộc vào sản xuất hoặc thị trường của TC. Hậu quả kinh tế lâu dài của việc tách rời có thể cần được cân nhắc kỹ lưỡng hơn so với các mối lo ngại về an ninh quốc gia, nghĩa là cần phải cân nhắc các chính sách làm giảm thiểu thiệt hại nhiều nhứt. * Cũng cần chú ý vào việc tập trung vào các hàm ý toàn cầu của Trung Cộng: Quan điểm của Chang cũng xem xét các hàm ý toàn cầu của sự trỗi dậy về công nghệ của TC. Ông cảnh báo rằng nếu TC thành công trong việc thống trị các công nghệ mới nổi, họ có thể áp đặt mô hình quản trị của mình đặc trưng qua việc giám sát hàng loạt, kiểm duyệt và đàn áp lên các quốc gia khác. Ông lập luận rằng việc cho phép TC kiểm soát các công nghệ quan trọng, chẳng hạn như mạng 5G, có thể cho phép họ kiểm soát các phương tiện truyền thông toàn cầu, hệ thống kinh tế và thậm chí cả các hoạt động quân sự của các nước trên thế giới, kể luôn cả Hoa Kỳ. Tóm lại, dù sao kết luận của TS Chang chắc chắn thuyết phục những người coi sự trỗi dậy về công nghệ của TC là mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự lãnh đạo và ổn định toàn cầu của Hoa Kỳ. Ông nhấn mạnh một cách hiệu quả những rủi ro do tham vọng của TC gây ra và lập luận cho một phản ứng mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số suy nghĩ khác có thể thấy quan điểm của ông đặt nặng vào việc báo động quá đáng, hoặc quá tập trung vào mối đe dọa từ TC mà không xem xét bức tranh toàn cảnh, bao gồm khả năng phục hồi của ngành công nghệ Hoa Kỳ và những nhược điểm tiềm ẩn của việc tách rời mạnh mẽ. Cuối cùng, tính thuyết phục trong kết luận của Ông phụ thuộc vào quan điểm và tầm nhìn về sự trỗi dậy của TC, cho dù họ coi đó là mối nguy hiểm không thể tránh khỏi hay là thách thức có thể được quản lý thông qua một cách tiếp cận cân bằng hơn. Quan điểm của TS Chang là cuộc chiến công nghệ giữa Hoa Kỳ và TC không chỉ là sự cạnh tranh mà còn là cuộc chiến giành tương lai của quyền lực và các giá trị toàn cầu. Ông coi sự trỗi dậy của TC là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ và trật tự quốc tế tự do và tin rằng Hoa Kỳ phải hành động quyết đoán để bảo vệ vị thế lãnh đạo và an ninh công nghệ của mình. Quan điểm của ông bắt nguồn từ niềm tin rằng chỉ thông qua các biện pháp quyết liệt, Hoa Kỳ mới có thể duy trì vị thế là cường quốc hàng đầu thế giới và ngăn chặn TC định hình lại trật tự toàn cầu theo hướng có lợi cho mình. Thay lời kết Qua những nhận xét góp nhặt từ các tin tức bình luận trên mạng, người viết có vài cảm nhận về những điều cảnh báo của TS Gordon Chang về tham vọng thống lĩnh thế giới của TC, nhứt là kể từ khi TC trở thành nến kinh tế thứ hai vượt qua Nhựt. Trong hiên tại, những biến động tên thế giới như cuộc chiến giữa Ukraina và Nga vẫn còn dai dẳng, chưa có dấu hiệu chấm dứt, cuộc chiến giữa Israel và Hamas, Hezbollah, Houthi, những “đứa con của Iran” có nguy cơ dẫn đến … đại chiến thế giới, và việc TC luôn luôn làm nóng biển Đông qua việc sát hại tàu đánh cá Việt, chiếm cứ các đảo của Phi v.v…Tát cả những sự việc trên đưa đẩy và càng kích thích TC thể hiện sức mạng quân sự và sự bá quyền của mình nhằm thống lãnh thế giới. Thế giới đang rung chuyển và có thể nói đang lần lần tiến đến điễm…tới hạn (threshold limit), hay điểm báo động đỏ! Chỉ cần một quyết định thiếu tự chế của một quốc gia hung hãn như Trung Cộng sẽ phát động ngay cuộc chiến toàn cầu. Dù vậy, người viết vẫn tin rằng, TC sẽ không dám động thủ dù đã thể hiện nhiều khả năng răn đe hăm dọa cùng khắp. Nhưng Tập Cận Bình hiện nay đang ở thế yếu trong cuộc tranh chấp quyền lực nội bộ. Những tuyên bố đầy hiếu chiến, những hành động hiếp đáp các nước nhỏ ở Biển Đông chỉ làm xoa dịu các sức ép chính trị trong nội bộ và làm thỏa mãn tâm lý nước lớn của người Tàu mà thôi. Dù sao đi nữa, yếu tố TC không thể nào bỏ qua được trong ván cờ thế giới hiện nay. Trung Cộng là trọng tâm của Mỹ, chứ không phải là Nga. Mai Thanh Truyết Houston – Thu 2024

Monday, September 30, 2024

Thiên Nhiên cảnh báo Tiến trình làm sạch thiên nhiên và trả lại thiên nhiên những nguồn nước trong lành, bầu khí quyển tươi mát, bảo vệ những cánh rừng nơi trú ngụ của các thú vật sắp bị tiệt chủng, bớt phí phạm những nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới nhất là nguồn nước sạch .... là bổn phận và trách nhiệm của mọi người trên hành tinh nầy. Đã tự nhận là một sinh vật thượng đẳng, con người không thể từ chối bổn phận trên được. Việt Nam từ khi mở cửa để phát triển từ năm 1986 trở đi, tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp tệ hại. Tương tự như ở Trung Cộng, có thể nói rằng mức độ tiếp nhận ô nhiễm do con người tạo ra ở Việt Nam đã đến mức tới hạn tối đa (threshold limit) rồi. Một thí dụ điển hình về Chỉ số Phẩm chất Không khí – Air Quality Index – AQI ở Hà Nội hàng năm. Hà Nội thường có chỉ số AQI từ mức “kém” đến “rất xấu” xảy ra trong trong nhiều tháng trong năm. Các chỉ số AQI cụ thể có thể dao động từ khoảng 100 (mức "kém") đến 300 (mức "rất xấu") trong những ngày ô nhiễm nặng. Khi chỉ số AQI đạt mức 150, theo khuyến cáo WHO, nhà cửa cần phải phải được đóng kín và con người không được đi ra ngoài. Vào mùa hè 2024, Một số khu vực ở Hà Nội đã ghi nhận mức ô nhiễm không khí cao hơn, chẳng hạn như như hai khu phố sang trọng Vinhome Riverside với AQI 302 và Quang Khánh với AQI 282. Tình hình phẩm chất không khí ở Sài Gòn hiện tại là "trung bình" với chỉ số AQI là 56, chánh yếu bị ô nhiễm bởi PM2.5 . Điều này có nghĩa là không khí hiện tại khá tốt cho phần lớn mọi người, nhưng những người nhạy cảm có thể gặp các triệu chứng nhỏ đến trung bình khi tiếp xúc lâu dài. Các thông số cụ thể về chất lượng không khí như sau: - PM2.5: 12µg/m³, vượt 2,4 lần giá trị hướng dẫn chất lượng không khí hàng năm của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Tính đến hôm nay, ngày 27 tháng 9 năm 2024, phẩm chất không khí tại Sài Gòn được đánh giá là trung bình, với AQI là 68. Mức phẩm chất không khí này có thể chấp nhận được đối với hầu hết mọi người, mặc dù những người nhạy cảm với đường hô hấp có thể cảm thấy hơi khó chịu. Chất gây ô nhiễm chính góp phần vào AQI này là PM2.5, bao gồm các hạt nhỏ có thể ảnh hưởng đến phổi theo thời gian Chỉ số phẩm chất không khí là chỉ số đo lường mức độ ô nhiễm không khí trong một khu vực, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. AQI thường được chia theo các mức độ khác nhau từ “Tốt” đến “Nguy hiểm” dựa trên các chỉ tiêu như nồng độ bụi mịn (PM2.5, PM10), ozone (O₃), nitrogen dioxide (NO₂), sulfur dioxide (SO₂) và carbon monoxide (CO). Ngoài các hạt bụi mịn như PM2.5 và PM10, khí thải từ xe hơi và xe gắn máy còn chứa nhiều hóa chất và khí độc hại khác, xuất phát từ quá trình đốt cháy nhiên liệu không hoàn toàn. Các hợp chất này có thể gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người. Dưới đây là các hóa chất phát thải từ khói xe hơi và xe gắn máy: Carbon monoxide (CO), Nitrogen oxides (NOx), Hydrocarbons (HC), Sulfur dioxide (SO₂), Carbon dioxide (CO₂), Amoniac (NH₃), Benzen (C₆H₆), Formaldehyde (HCHO), Polycyclic Aromatic Hydrocarbons (PAHs), 10. Chì (Pb). Các phương tiện giao thông xử dụng nhiên liệu hóa thạch như xăng và dầu diesel là một trong những nguồn gây ô nhiễm không khí chính tại các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và Sài Gòn. Để có một khái niệm về mức độ ô nhiễm không khí ở hai Hà Nội và Sài Gòn, chúng ta căn cứ chỉ số AQI đo đạc hàng ngày do các máy quan trắc đặt để ở khắp các đường phố. Các dữ liệu căn bản dưới đây về diện tích, mật độ dân số, lượng xe gắn máy và xe hơi tại Hà Nội và Sài Gòn căn cứ vào thống kê gần đây: Hà Nội có Diện tích: 3,358.6 km²; Dân số khoảng 8.5 triệu người (2023); Mật độ dân số 2,531 người/km²; Lượng xe gắn máy 7 triệu xe (2023); Lượng xe hơi khoảng 700,000 xe (2023). Còn Sài Gòn có Diện tích: 2,095.6 km²; Dân số khoảng 9.5 triệu người (2023); Mật độ dân số khoảng 4,535 người/km²; Lượng xe gắn máy khoảng 8.5 triệu xe (2023); Lượng xe hơi khoảng 800,000 xe (2023). Hà Nội có xu hướng chịu ảnh hưởng từ thời tiết theo mùa, đặc biệt là sự khác biệt giữa mùa nắng từ tháng 10 đến tháng 4 (mùa khô) có AQI trung bình 150-200. Đây là mức không lành mạnh cho các nhóm nhạy cảm đến không lành mạnh cho mọi người. Và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 (mùa ẩm ướt), mức AQI trung bình từ 80 – 150. Còn Sài Gòn có khí hậu nhiệt đới, mùa nắng hay mùa khô khoảng từ tháng 12 đến tháng 4 có AQI trung bình 100-150; và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 có AQI trung bình: 70-120, tức mức từ tốt đến trung bình. Dù Hà Nội lớn hơn về diện tích so với Sài Gòn, có mật độ dân số thấp hơn, có số lượng xe máy và hơi thấp hơn, nhưng chỉ số phẩm chất không khí AQI trung bình cao hơn Sài Gòn nói lên tính cách hết sức nghịch lý một khi so sánh giữa hai thành phố. Tại sao? Hà Nội thường có mức độ ô nhiễm không khí cao hơn so với Sài Gòn do một loạt các yếu tố địa lý, khí hậu, hạ tầng và nguồn phát thải khác nhau giữa hai thành phố. Dưới đây là những lý do chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí ở Hà Nội cao hơn: 1. Vị trí địa lý và điều kiện khí hậu: Hà Nội nằm ở vùng đồng bằng Sông Hồng, có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh, khô và mùa hè nóng, ẩm. Con, Sài Gòn nằm ở miền Nam, có khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng không có mùa đông lạnh như Hà Nội. Sài Gòn thường có mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, giúp giảm bụi và làm sạch không khí nhờ lượng mưa lớn. Điều kiện gió cũng thường thuận lợi hơn, giúp phân tán các chất ô nhiễm ra khỏi khu vực đô thị. 2. Sài Gòn mặc dù cũng có mật độ dân số và xe cộ cao, nhưng với hệ thống giao thông và không gian đô thị rộng lớn hơn, Mạng lưới giao thông tương đối nhiều hơn và đường xá rộng hơn, cho nên tình trạng tắc nghẽn giao thông và khí thải không bị tích tụ dày đặc như ở Hà Nội. Điều này làm giảm sự tập trung của các hạt bụi mịn và khí thải ở mức cao. 3. Nguồn phát thải công nghiệp và xây dựng: Hà Nội có nhiều cơ sở công nghiệp, đặc biệt là ở các khu vực ngoại ô và làng nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, sản xuất đồ gỗ. Nhiều cơ sở sản xuất này chưa được trang bị công nghệ thanh lọc khí thải tốt, dẫn đến việc phát thải bụi và hóa chất vào không khí. Ngoài ra, các hoạt động xây dựng liên tục và nhiều công trình hạ tầng đô thị đang trong giai đoạn phát triển cũng tạo ra lượng lớn bụi và chất ô nhiễm. Còn Sài Gòn, tuy cũng có các khu công nghiệp lớn, nhưng nhiều trong số đó được đặt cách xa trung tâm thành phố hơn, nhờ đó giảm thiểu tác động của khí thải lên khu vực dân cư đông đúc. Hơn nữa, các điều kiện gió ở khu vực này cũng giúp phân tán các khí thải nhanh chóng. 4. Phẩm chất và Cung cách quản lý phương tiện giao thông: Hà Nội có tỷ lệ xe máy và xe hơi thấp hơn Sài Gòn, tuy nhiên, nhiều xe máy, xe hơi tại Hà Nội có tuổi đời lớn, không bảo đảm được tiêu chuẩn khí thải, gây ra nhiều khí thải độc hại hơn. Việc bảo trì xe cộ chưa được thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt, khiến lượng phát thải từ xe tăng cao. 5. Thiếu không gian xanh và khu vực nước lớn: • Hà Nội có mật độ xây dựng cao và thiếu không gian xanh trong nội đô, hạn chế khả năng cây cối hấp thụ các chất ô nhiễm trong không khí. Đồng thời, các hồ nước và sông ngòi trong thành phố, mặc dù có khả năng làm mát không khí, nhưng cũng bị ô nhiễm, không đủ khả năng giảm ô nhiễm môi trường. • Sài Gòn có một số không gian xanh và hệ thống sông ngòi lớn hơn, giúp cải thiện chất lượng không khí và điều hòa nhiệt độ, làm giảm bớt sự tích tụ của các chất ô nhiễm. Tóm lại, Hà Nội thường có mức độ ô nhiễm không khí cao hơn Sài Gòn là do sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn vào mùa đông, mật độ giao thông và phương tiện cũ kỹ cao, nguồn phát thải công nghiệp và xây dựng gần khu dân cư, cũng như thiếu không gian xanh. Những yếu tố nầy làm cho tình trạng ô nhiễm tại Hà Nội trở nên nghiêm trọng, đặc biệt trong những tháng mùa đông khô hanh khi không khí khó khuếch tán. Qua các phân tích về AQI ở hai thành phố lớn nhứt Việt Nam là Hà Nội và Sài Gòn, có nhiều chỉ dấu cho thấy thiên nhiên đã cảnh báo con người về mức tới hạn trong hiện tại. Đó là, hệ thống sông ngòi từ Bắc chí Nam đã và đang biến thành những dòng sông chết, hệ lụy tất yếu của sự phát triển bừa bãi và không cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Một khi thiên nhiên không còn khả năng tự điều tiết để tái tạo hay làm sạch môi trường thì hệ quả về sự suy thoái môi trường ở Việt Nam sẽ khốc liệt hơn và con người sẽ không còn đủ khả năng để điều chỉnh hay cứu chữa nữa. Và chính sự khuất tất trên của những người quản lý đất nước hiện tại đã là một trọng tội đối với những thế hệ tiếp nối. Trước những vấn nạn của Đất Nước hiện nay, dú là thiên tai hay nhân tai, mỗi người con Việt, dù sống trong hay ngoài nước vẫn hằng mong quê hương luôn tươi đẹp, mỗi người dân cùng nhau đóng góp cho sự thịnh vượng chung và sự hài hòa trong tình tự dân tộc. Một suy nghĩ sau cùng của người viết là:”Làm sao có sự phối hợp giữa người Việt trong và ngoài nước để cùng bảo vệ thiên nhiên?” Để tạo sự phối hợp giữa người Việt trong và ngoài nước nhằm bảo vệ thiên nhiên, thiết nghĩ chúng ta có thể thực hiện một số bước sau: Tạo mạng lưới kết nối: Thiết lập các mối liên lạc, trao đổi trực tiếp giữa người trong và ngoài nước nhằm đối thoại trong tinh thần cởi mở, kết nối các diễn đàn hoặc nhóm mạng xã hội từ những người quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường sống chung và hào hòa… Từ đó, những hoạt động trao đổi, chia xẻ tin tức qua ý tưởng và kinh nghiệm, sẽ tạo ra sự gắn kết giữa người Việt hầu hình thành một sự đoàn kết quốc gia. Các việc trên sẽ khuyến khích người Việt ở trong và ngoài nước tham gia vào các dự án bảo vệ môi trường, như trồng cây, dọn dẹp rác thải, bao plastic ở các bãi biển hoặc bảo tồn các hệ sinh thái vùng. Thiết nghĩ, mỗi người trong chúng ta cùng xây dựng các kênh kết nối và hợp tác chặt chẽ, người Việt trong và ngoài nước có thể cùng nhau tạo ra những thay đổi tích cực trong công tác bảo vệ thiên nhiên. Mỗi người trong chúng ta, nếu ý thức được điều đó, cần phải biết gìn giữ và bảo vệ môi trường sống chung quanh mình. Đó là một phương cách an toàn và nhân bản nhất trong thiên niên kỷ thứ ba. Vừa qua, phát biểu trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam trước Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai của Liên Hiệp Quốc vào trưa 22/9, ông Tô Lâm nhấn mạnh “mục tiêu phát triển bền vững của thế giới và lợi ích của con người phải được đặt ở vị trí trung tâm, là mục tiêu cao nhất của chúng ta”. Ông Tô Lâm, người cũng nắm chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, có thực quyền quyết sách cao nhất, phát biểu thêm rằng “Thành tựu khoa học, công nghệ phải phục vụ tiến bộ xã hội, hướng về con người, giải phóng con người, phát triển con người toàn diện…”, qua tường thuật trên trang web của Liên Hiệp Quốc (LHQ). Phải chăng cho tới bây giờ lãnh đạo Việt Nam mới nhận thức được rằng “con người phải được đạt ở vị trí trung tâm để phát triển bền vững trên thế giới.” Dù muộn, nhưng chúng ta có … quyền hy vọng vì yếu tố con người, hạt mầm của quốc gia sẽ là quyết định tương lai của Việt Nam trong những ngày sắp đến. Hay cũng chỉ... nói để mà nói! Chờ xem!! Qua trên, chúng ta đã duyệt qua câu chuyện về Thiên Nhiên qua nhiều góc cạnh khác nhau, dù muốn hay không muốn, Thiên nhiên đã từng hiện diện từ thuở tạo thiên lục địa. Qua thời gian, Thiên nhiên biến thiên và biến đổi với sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của con người. Thông điệp hôm nay nhằm mục đích gợi lại khái niệm cần phải trả lại Thiên nhiên cho Thiên nhiên, gìn giữ môi trường và hệ sinh thái chung cho 8 tỷ con người đang hiện diện trên quả đất nầy. Và hơn nữa, có làm được như thế, chúng ta đã trả lại một phần nào món nợ mà chúng ta đã vai mượn trước của các thế hệ sau do việc làm suy thoái môi trường và phí phạm tài nguyên trong quá trình phát triển kỹ nghệ để phục vụ tham vọng của con người. Rốt cuộc rồi... trước thách thức của biến đổi khí hậu, "trở về với thiên nhiên" vẫn là một khái niệm then chốt. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và phục hồi các hệ sinh thái, kêu gọi mọi người tôn trọng các quy luật của thiên nhiên và giảm thiểu thiệt hại của con người đối với môi trường. Đây không chỉ là bảo vệ hệ sinh thái hiện tại mà còn là trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai. Phát triển bền vững có nghĩa là cân bằng nhu cầu của con người với việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, cho phép thiên nhiên tự phục hồi và duy trì sự cân bằng hệ sinh thái của trái đất ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa của thế giới. Mai Thanh Truyết Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPS) Denver 28-9-2024

Thursday, September 26, 2024

Nói chuyện với Thiên nhiên Qua cơn bão Yagi vừa qua với sức tàn phá kinh hoàng ở các tỉnh cực bắc của Việt Nam, với mức thiệt hại về nhân mạng và tài sản cá nhân nặng nề, cộng thêm nạn sạt lở, đất chuồi, lũ lụt … làm đảo lộn hệ sinh thái cả một vùng rộng lớn. Chúng ta nghĩ gì? Thiên nhiên có phải là nguyên nhân tạo ra những cơn bão, hạn hán, lũ lụt hay có sự góp tay của con người hay không? Từ những thắc mắc trên, câu hỏi được đặt ra là, thiên nhiên là sản phẩm của Thượng đế ban cho con người, và con người cần phải trân quý, bảo quản và gìn giữ như thế nào… Và câu chuyện trao đổi với Cô Trà My, VOA hôm nay sẽ xoay quanh đề tài “Trả lại thiên nhiên cho thiên nhiên”. Trước hết, để trả lời câu hỏi “Thiên nhiên có phải là nguyên nhân chính tạo ra những cơn bão, hạn hán, lũ lụt hay có sự góp tay của con người hay không?” Xin thưa, thiên nhiên và con người đều có vai trò trong việc hình thành và làm trầm trọng thêm các hiện tượng thời tiết như bão, hạn hán và lũ lụt. Dưới đây là những nguyên nhân điển hình chứng minh thiên nhiên và con người đã và đang tương tác: • Thiên nhiên với các hiện tượng thời tiết như bão, hạn hán và lũ lụt chỉ là kết quả của các quy luật tự nhiên, như sự thay đổi nhiệt độ, áp suất không khí, và chu trình tuần hoàn nước. Sự biến đổi khí hậu tự nhiên theo thời gian cũng góp phần gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan. Cộng thêm sự tương tác giữa các yếu tố khí quyển như gió, mây và độ ẩm có thể tạo ra bão và mưa lớn. • Còn về con người, các sinh hoạt của con người, như đốt nhiên liệu hóa thạch và phá rừng, đã làm gia tăng lượng khí nhà kính trong khí quyển, dẫn đến biến đổi khí hậu và làm tăng tần suất và cường độ các hiện tượng thời tiết cực đoan.Việc thay đổi xử dụng đất, chẳng hạn như đô thị hóa và nông nghiệp không bền vững, phủ lấp các trũng tự nhiên trong xây dựng, các hồ thiên nhiên nhằm điều tiết một lượng nước mưa quá tải trong một thời gian ngắn…; tất cả có thể làm giảm khả năng hấp thụ nước, dẫn đến lũ lụt hoặc hạn hán. Và việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên và phá hủy hệ sinh thái làm suy giảm khả năng tự phục hồi của môi trường, khiến thiên nhiên dễ bị tổn thương hơn trước các hiện tượng thời tiết cực đoan kể trên. Vì vậy, thiên nhiên có thể tạo ra các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhưng hoạt động của con người hiện đang làm trầm trọng thêm những hiện tượng này. Do đó, để giảm thiểu tác động tiêu cực, cần có sự kết hợp giữa hiểu biết về quy luật tự nhiên và quản lý bền vững từ phía con người. Khái niệm về thiên nhiên "Trả lại thiên nhiên cho thiên nhiên" là một khái niệm chỉ việc bảo vệ, phục hồi và giữ gìn môi trường tự nhiên, để duy trì sự cân bằng và hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Các lý do quan trọng để trả lại thiên nhiên cho thiên nhiên: 1. Bảo vệ đa dạng sinh học: Thiên nhiên cung cấp môi trường sống cho hàng triệu loài động, thực vật. Việc trả lại thiên nhiên còn nguyên trạng là giúp duy trì sự đa dạng sinh học, bảo vệ các loài động thực vật khỏi nguy cơ tuyệt chủng. 2. Cân bằng hệ sinh thái: Các hệ sinh thái cần được giữ gìn để duy trì sự cân bằng tự nhiên, giúp các chuỗi thức ăn và vòng tuần hoàn tự nhiên hoạt động hiệu quả. 3. Chống biến đổi khí hậu: Thiên nhiên giúp hấp thụ khí carbon dioxide. Khôi phục rừng, đầm lầy và các hệ sinh thái tự nhiên có thể hấp thụ carbon dioxide do sinh hoạt của con người tạo ra, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. 4. Thiên nhiên có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sức khỏe con người thông qua nhiều cách khác nhau. Rừng và cây xanh giúp việc lọc không khí, giảm ô nhiễm và cung cấp oxy, từ đó cải thiện sức khỏe hô hấp. 5. Các hệ sinh thái như sông, hồ và đầm lầy đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước sạch, cần thiết cho sức khỏe và sinh hoạt hàng ngày. Thiên nhiên cung cấp các nguồn thực phẩm đa dạng, bao gồm rau quả, hạt, và động vật, cung cấp dinh dưỡng thiết yếu cho cơ thể. Và, thiên nhiên mang lại cảm giác thư giãn và giảm căng thẳng. Việc tiếp xúc với thiên nhiên có thể cải thiện tâm trạng và sức khỏe tinh thần. Các hoạt động ngoài trời như đi bộ, chạy, hoặc đạp xe trong môi trường tự nhiên không chỉ giúp rèn luyện thể lực mà còn tăng cường sức khỏe tổng thể. Và sau cùng, một số nghiên cứu cho thấy các hợp chất tự nhiên trong cây cối và đất có thể hỗ trợ hệ miễn dịch, giúp cơ thể chống lại bệnh tật. Tóm lại, thiên nhiên không chỉ là nguồn sống mà còn là yếu tố quan trọng trong việc duy trì và cải thiện sức khỏe con người. 6. Tôn trọng quyền của các thế hệ tương lai: Con người có trách nhiệm bảo vệ hành tinh mà chúng ta đang sống. Việc trả lại thiên nhiên cho thiên nhiên thể hiện sự tôn trọng đối với môi trường và các sinh vật khác. Bảo vệ thiên nhiên cho các thế hệ sau. Mỗi hành động nhỏ của chúng ta đều có thể góp phần bảo vệ thiên nhiên và tạo ra một tương lai bền vững. Thiên nhiên có tự bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên hay không hay cần phải có bàn tay con người giúp sức? Thiên nhiên có khả năng tự bảo vệ và phục hồi nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp, nhưng thông thường thì cần có sự can thiệp và quản lý của con người để bảo đảm sự bền vững. Dưới đây là một số điểm quan trọng: Thiên nhiên tự bảo vệ qua những “hành động thiên nhiên” như: - Nhiều hệ sinh thái có khả năng tự phục hồi sau các tác động như thiên tai. Ví dụ, rừng có thể phục hồi sau hỏa hoạn hoặc lũ lụt. - Các loài động thực vật trong tự nhiên duy trì mối quan hệ cân bằng, giúp kiểm soát quần thể sinh vật và bảo vệ môi trường. – Sự tuần hoàn của nước, carbon, và các chất dinh dưỡng được tái chế qua các chu trình tự nhiên, bảo đảm sự tồn tại của hệ sinh thái nguyên thủy. Tuy nhiên, con người cũng là tác nhân là suy giảm “sức khỏe” của thiên nhiên, cũng như giúp sức, tham dự, và can thiệp vào các sinh hoạt: - Hoạt động của con người như khai thác tài nguyên, đô thị hóa, và ô nhiễm có thể làm suy giảm hệ sinh thái. - Cần có các biện pháp bảo vệ và phục hồi để giữ cho thiên nhiên khỏe mạnh. - Con người cần áp dụng các phương pháp quản lý bền vững cho tài nguyên thiên nhiên, như bảo tồn rừng, quản lý nguồn nước, và nông nghiệp hữu cơ. – Con người cũng cần tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên sẽ giúp cộng đồng hành động tích cực hơn. Tóm lại, thiên nhiên có khả năng tự bảo vệ, nhưng sự can thiệp và quản lý của con người là rất cần thiết để bảo đảm sự bền vững và phục hồi tài nguyên thiên nhiên. Việc dân tộc Viking xuôi Nam vào cuối thế kỷ thứ 8 phải chăng là do sự biến đổi tuần hoàn của khí hậu từ chu kỳ ấm qua chu ky lạnh khiến họ phải xuôi Nam tìm nguồn sống? Việc dân tộc Viking xuôi nam vào cuối thế kỷ thứ 8 không chỉ là kết quả của sự biến đổi khí hậu, mà còn do nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, khí hậu là một yếu tố quan trọng trong bối cảnh lịch sử này. 1. Do biến đổi khí hậu: Trước khi họ di cư, khu vực Bắc Âu trải qua một thời kỳ ấm hơn, cho phép nông nghiệp và chăn nuôi phát triển. Đến cuối thế kỷ thứ 8 và đầu thế kỷ thứ 9, nhiệt độ bầu khí quyển bắt đầu hạ thấp, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và khiến cuộc sống trở nên khó khăn hơn. 2. Tìm kiếm nguồn sống: Sự thay đổi khí hậu từ một chu kỳ ấm qua một chu kỳ lạnh, có thể đã thúc đẩy người Viking tìm kiếm vùng đất mới để khai thác tài nguyên và nguồn sống, dẫn đến các cuộc xâm lược và định cư tại các khu vực như Anh, Ireland và các vùng khác của châu Âu như Ukraina và Nga. Việc dân tộc Viking xuôi nam vào cuối thế kỷ thứ 8 là một quá trình phức tạp, có sự tác động của biến đổi khí hậu, nhưng cũng bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế, chính trị và tinh thần khám phá. Sự kết hợp của những yếu tố này đã dẫn đến những cuộc di cư và xâm lược nổi tiếng của họ trong suốt một thời gian dài… Có lẽ chúng ta cũng cần đem yếu tố di cư của dân tộc Viking từ cuối thế kỷ thứ 8, cũng như thời tiết bắt đầu nóng lên vào cuối thế kỷ 20 là những yếu tố nhằm giảm thích sự biến đổi khí hậu. Phải chăng thiên nhiên và sự thay đổi khí hậu chỉ là một chu kỳ tuần hoàn của trái đất: Chu kỳ ấm và chu kỳ lạnh và mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 12 thế kỷ. Khoa học hiện đại chỉ có khả năng ghi nhận khoảng hàng trăm năm những sự thay đổi của quả đất, vì vậy không đủ dữ kiện để thiết lập một mô hình toán cho tương lai hàng trăm năm được. Thành thử, việc trái đất “nóng lên” đưa đến những hệ quả nguy hiểm cho con người vào thời điểm năm 2100 cũng chỉ là giả thuyết mà thôi. Mai Thanh Truyết Thu phân 23//9/2024

Friday, September 20, 2024

Bão Yagi: Bài học từ thiên tai, ‘nhân tai’ Bài phỏng vấn MTT do BTV Trà My, Radio VOA ngày 20/9/2024 1- Tại sao hậu quả thảm khốc của bão Yagi được giới khoa học liên hệ với biến đổi khí hậu? MTT: Bão số 3 hay Bão Yagi vừa qua đã gây thiệt hại cho Việt Nam khoảng 40.000 tỷ đồng, ước giảm khoảng 0,15% GDP năm 2024. Bão đã gây ra tình trạng mất điện, mất nước, mất thông tin liên lạc trên diện rộng cùng lúc, cả trên biển và trên bờ, toàn bộ địa bàn của một số địa phương và tại nhiều địa phương, khiến công tác thông tin, liên lạc, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn càng trở nên khó khăn, nặng nề và nhiều thách thức hơn. Đến nay, một số địa phương vẫn còn tình trạng ngập lụt, hoặc có nguy cơ cao khiến cho thiệt hại còn có thể còn nặng nề hơn. Về chi tiết có thể kể ra … khoảng 257.000 căn nhà, 1.300 trường học và nhiều công trình hạ tầng bị sập đổ, hư hại; 305 sự cố đê điều, chủ yếu là các tuyến đê lớn từ cấp 3 trở lên; trên 262.000 ha lúa, hoa màu, cây ăn quả bị ngập úng, thiệt hại, gãy đổ; 2.250 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng, cuốn trôi; gần 2,3 triệu gia súc, gia cầm bị chết và gần 310.000 cây xanh đô thị gãy đổ. Nhìn chung, hệ thống kết cấu hạ tầng của các địa phương do ảnh hưởng của bão, nhiều nơi bị hư hại nghiêm trọng. Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu, dân sinh về đường sá, cầu, cống, điện, cấp nước, thoát nước, viễn thông, thông tin, trường học… bị hư hại, cần sớm khắc phục. Các công trình hạ tầng thủy lợi, đê kè, đập chứa nước của nhà máy thủy điện… bị thiệt hại, tiềm ẩn rủi ro, nguy cơ khi tình hình bão lũ thời gian tới dự báo còn rất phức tạp. Bão Yagi, giống như nhiều cơn bão khác trong thời kỳ hiện tại, đã thu hút sự chú ý của giới khoa học và truyền thông vì những hậu quả thảm khốc mà nó gây ra. Có một số lý do khiến các nhà khoa học gắng kết các cơn bão mạnh mẽ như Yagi với sự biến đổi khí hậu như sau: Tăng cường năng lượng nhiệt đới: Một trong những hậu quả của sự Biến đổi khí hậu là làm tăng nhiệt độ của đại dương, vì vậy các cơn bão có thể lấy thêm năng lượng từ đại dương đã ấm hơn. Năng lượng này giúp cơn bão mạnh lên nhanh chóng và có khả năng trở thành bão cấp cao hơn. Nhiệt độ đại dương cao hơn có thể làm gia tăng độ ẩm trong không khí, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các cơn bão mạnh mẽ hơn nữa. Hệ quả là các cơn bão trở nên mạnh mẽ hơn và kéo dài hơn. Trong lúc đó, sự biến đổi khí hậu làm tăng mực nước biển do hiện tượng băng tan và sự giãn nở nhiệt của nước biển. Điều này dẫn đến nguy cơ lũ lụt nghiêm trọng hơn trong các khu vực ven biển khi bão đổ bộ. Từ đó có thể làm thay đổi mô hình khí hậu toàn cầu, ảnh hưởng đến hướng di chuyển và tần suất của bão. Những thay đổi này có thể dẫn đến việc các cơn bão đổ bộ vào các khu vực không thường xuyên bị ảnh hưởng trước đây. Tăng cường cường độ của gió: Sự thay đổi trong khí quyển có thể dẫn đến sự thay đổi trong cường độ và cấu trúc của các cơn bão. Các nghiên cứu cho thấy rằng cường độ gió của bão có thể gia tăng do sự thay đổi nhiệt độ trong bầu khí quyển. Những yếu tố này kết hợp lại có thể giải thích tại sao các cơn bão như Yagi gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn so với những năm trước đây. Mặc dù không thể kết luận một cách chính xác rằng biến đổi khí hậu là nguyên nhân trực tiếp gây ra mỗi cơn bão cụ thể, nhưng các nghiên cứu cho thấy rằng nó có thể làm tăng cường độ và sự nghiêm trọng của các hiện tượng thời tiết cực đoan, bao gồm cả bão. 2- Biến đổi khí hậu là gì? Biến đổi khí hậu góp phần thế nào vào các thiên tai như thế này? (tạo thời tiết cực đoan hơn, thiên tai dị thường hơn, mức độ tàn phá khắc nghiệt hơn, kéo dài hơn, thường xuyên hơn?) MTT: Biến đổi khí hậu đề cập đến sự thay đổi lâu dài trong các yếu tố và điều kiện khí hậu của Trái Đất, đặc biệt là sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu. Điều này chủ yếu là kết quả của các hoạt động của con người, như đốt nhiên liệu hóa thạch (dầu, than, khí đốt), phá rừng, và các hoạt động công nghiệp khác, dẫn đến việc tăng cường khí nhà kính như carbon dioxide (CO2), methane (CH4), và nitrous oxide (N2O) trong khí quyển. Tác động của biến đổi khí hậu đối với thiên tai: 1. Thời tiết khắc nghiệt hơn: Biến đổi khí hậu làm thay đổi nhiệt độ toàn cầu, dẫn đến nhiều đợt nóng hay lạnh bất thường hơn ở nhiều vùng khác nhau vào cùng một thời điểm. Thí dụ như, Houston đang mùa nóng bất thường vào cuối tháng 8 vừa qua trên 100oF, tuy nhiên ở vùng Wyoming cũng vào thời điểm nầy nhiệt độ giảm xuống dưới 10oF so với mức trung bình hàng năm! Vì nhiệt độ tăng cao bất thường tạo nên một khối lượng hơi nước bốc hơi từ đại dương, và vì áp suất không khí thay đổi, tạo thành gió … từ đó đưa hơi nước lần vào các bờ biền và lục địa…tạo mưa giông, hoặc nếu cường độ mạnh hơn sẽ tạo ra bão. Sự tăng cường nhiệt độ đại dương và độ ẩm cung cấp nhiều năng lượng hơn cho các cơn bão, khiến chúng có thể mạnh lên nhanh chóng và đạt cường độ cao hơn. Mặc dù có sự gia tăng mưa ở nhiều khu vực khác nhau, sự biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng sự bất thường trong lượng mưa, dẫn đến hạn hán nghiêm trọng hơn ở những nơi bị ảnh hưởng. 2. Bão Yagi vừa qua đã mang theo gió mạnh, có thể lên đến cấp 8, cấp 9 hoặc hơn nữa. Gió mạnh gây thiệt hại cho nhà cửa, cây cối, cột điện và các công trình xây dựng. Bão thường đi kèm với mưa lớn kéo dài nhiều giờ hoặc nhiều ngày. Lượng mưa lớn có thể dẫn đến tình trạng ngập lụt nghiêm trọng ở các khu vực thấp, làm tắc nghẽn giao thông và gây khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. 3. Và dĩ nhiên, mức độ tàn phá cũng sẽ khắc nghiệt khắc nghiệt hơn, nếu lượng hơi nước bốc hơi ở đại dương cáng nhiều, có thể tạo ra sóng thần và cơn bão sẽ hung dữ hôi, mức ngập lụt và thiệt hại vật chất nhiều hơn nữa. Tóm lại, sự biến đổi khí hậu đang xảy ra hôm hay thể hiện qua các Thượng đỉnh hàng năm do LHQ bảo trợ luôn nhắc nhỡ các quốc gia trên thế giới cần phải hạn chế sự phát thải những khí nhà kính và những khí thải làm tăng sự hâm nóng toàn cầu khi carbon dioxide, methane, các oxit nitrogen v.v…Các khí trên không những làm gia tăng sự bất thường nghiệt ngã, làm xáo trộn chu kỳ thời tiết, đảo lộn các sinh hoạt của dân chúng trên thế giới, nhứt là nông dân trong việc canh tác theo thời vụ. Trong trường hợp trên, con người cũng khó thích ứng được trong lãnh vực môi trường, khoa học, y tế và sức khỏe con người, thưa cô Trà My. 3- Tại sao châu Á được xem là khu vực dễ tổn thương nhất, thiệt hại nặng nề nhất vì biến đổi khí hậu? MTT: Châu Á là một lục địa lớn nhứt, có diện tích khoảng 44,58 triệu km², chiếm 30% diện tích toàn cầu, và đông dân nhứt trên thế giới có hơn 4,7 tỷ người sinh sống, tương đương với 60% dân số thế giới. Châu Á là lục địa lớn nhất và đa dạng về địa lý, từ các vùng ven biển đến vùng núi cao và các khu vực sa mạc. Sự đa dạng này có nghĩa là các khu vực khác nhau có thể bị ảnh hưởng khác nhau bởi biến đổi khí hậu, từ mực nước biển dâng cao đến hiện tượng hạn hán và lũ lụt. Thêm nữa, Á châu nằm cạnh Thái Bình Dương, cũng là đại dương lớn nhứt thế giới, vì vậy, ảnh hưởng liên đới giữa hai vùng nầy cùng chia xẻ “ngọt bùi” cùng với sự hình thành và hoạt động của bão tố nhiệt đới ở châu Á, đặc biệt là ở các khu vực ven biển phía Đông của Việt Nam. Vì vậy, Châu Á là một trong những khu vực dễ tổn thương nhất và chịu thiệt hại nặng nề nhất do biến đổi khí hậu vì một số nguyên do nội tại và ngoại tại, hay do thiên nhiên và con người: Xác suất xảy ra thiên tai: Do vị trí của Châu Á nằm cạnh TB Dương cho nên mật độ xảy ra thiên tai nhiều hơn so với các châu lục khác. Đây là khu vực thường xuyên phải đối mặt với các thiên tai như bão nhiệt đới, động đất, sóng thần, và lũ lụt. Các hiện tượng này có thể trở nên nghiêm trọng hơn do biến đổi khí hậu, làm gia tăng thiệt hại và tổn thất. Về địa chất vùng biển và ven biển thường là các vùng thấp, nhiều nơi ngang tầm với mực nước biển như miền Nam VN cho nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng cao và lũ lụt. Và sự Biến đổi khí hậu đang làm gia tăng sự biến động trong thời tiết, từ các đợt nắng nóng bất thường đến các cơn bão mạnh hơn và tiến đến nhanh… đôi khi khoa học khí tượng không kịp cảnh báo dân chúng chúng trong vùng kịp thời. Tóm lại, sự biến đổi khí hậu mang đến nhiều hậu quả do nhiệt độ bầu khí quyển nóng lên làm cho băng tan, mực nước biển dâng cao, bão lớn hơn, và hạn hán kéo dài có thể gây thiệt hại nặng nề đối với các nền kinh tế quốc dân và nhiều ảnh hưởng khác đan cử ở phần trên. Và Á châu trở thành một khu vực đặc biệt dễ bị tổn thương trước các tác động của biến đổi khí hậu, dẫn đến thiệt hại nặng nề hơn so với nhiều khu vực khác trên thế giới. 4-Ngoài yếu tố thiên tai, các yếu tố nhân tai nào đưa tới các thảm họa như Yagi tại VN? (Xin liệt kê tổng quát từ đốt rẫy, phá rừng, nạo vét lòng sông, hút cát, xả đập…) Nói về lũ và lụt, Giáo sư Nguyên Ngọc Lung, chuyên gia về rừng vừa có bài viết nói rõ:” khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất, 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm, cho nên ta đào giếng ở đâu cũng có nước. Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại, chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm, hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất. Nghĩa là còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt. Lụt hiền, lành, và thân thuộc như bạn chung tình mỗi năm một lần trở lại. Tôi ở Hội An, tôi biết, 3 năm qua không có lụt, người ta nhớ và chờ. Lụt rửa sạch ruộng đồng và mang về phù sa. Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên, chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt, với cỏ, với cao su, keo, cà phê… tràn lan, là các loại cây không có bộ rễ giữ nước (mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là “độ che phủ”), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ, làng mạc và con người.” Như vậy, ngoài các yếu tố thiên tai, nhiều yếu tố nhân tai cũng đã góp phần làm gia tăng mức độ thiệt hại và sự tàn phá của các thảm họa như bão Yagi ở Việt Nam. Dưới đây là một số yếu tố nhân tai chính như: Đốt rẫy, phá rừng, nạo vét lòng sông, hút cát xả đập. Đốt rẫy, hay còn gọi là đốt đồng, là một phương pháp truyền thống trong nông nghiệp được sử dụng để làm sạch đất trước khi trồng cây mới. Đây là một kỹ thuật phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt là trong các khu vực nông thôn ở các nước đang phát triển. Khi rừng bị phá, đất trở nên dễ bị rửa trôi hơn khi gặp mưa lớn từ bão, dẫn đến lũ lụ Những video quay ở các điểm sạt lở cho thấy, rừng già hầu như biến mất. Mưa dầm kéo dài khiến đất ẩm ướt, mất tính liên kết và cả ngàn mét khối đổ ập xuống nhà cửa, đường sá. Nếu còn rừng, đất sẽ liên kết tốt hơn. Rễ cây rừng ăn sâu vào lòng đất sẽ như những sợi dây thừng giữ đất không bị trôi. Lớp cây rừng tầng thấp, cây bụi, dây leo, thảm lá sẽ giúp giữ nước tốt hơn, giảm tốc độ chảy của nước. Việc này phần nào kéo giảm được tốc độ lũ tràn về. Tình trạng vét cát ở sông Hồng và sông Cửu Long đang đặt ra nhiều thách thức về môi trường và yêu cầu sự can thiệp quyết liệt từ chính phủ và cộng đồng để giải quyết vấn đề một cách bền vững. Khuyến khích việc khai thác bền vững: Phát triển và áp dụng các công nghệ khai thác cát bền vững, giảm thiểu tác động đến môi trường. Cần nhứt là nâng cao nhận thức cộng đồng và các doanh nghiệp về tác động của việc khai thác cát và tầm quan trọng của bảo vệ môi trường. Việc “Xả đập" ở thượng nguồn sông Mekong và sông Hồng liên quan đến việc xả nước từ các hồ chứa, đập hoặc các cơ sở lưu trữ nước khác ở khu vực thượng nguồn của sông Mekong và sông Hồng, hai con sông huyết mạch của Việt Nam. Đây là một vấn đề quan trọng, vì sự quản lý nước ở thượng nguồn có thể có tác động lớn đến dòng chảy của sông Mekong và ảnh hưởng đến các quốc gia nằm ở hạ nguồn như Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, và Lào. Cũng xin nhắc thêm là sự hiện diện của 362 nhà máy thuỷ điện được mọc lên ở Việt Nam, trong đó có 41 nhà máy có công suất trên 1000 MW như Nhà máy Hòa Bình (1920 MW), Sơn La (2400 MW), Lai Châu (1200MW), và 321 nhà máy cỡ trung và nhỏ rải rác khắp nơi từ Bắc chí Nam. Đây cũng là những trái bom nổ chậm, một cơn bão lớn như Yagi cũng có khà năng làm bể đập hay bị bắt buộc phải xả đập một khi mực nước đã tràn đầy và nhấn chìm các thành phố hay làng mạc ở vùng trũng thấp. Chuyện nầy đã xảy ra nhiều lần ở Việt Nam rồi. Trên đây là vài yếu tố chủ quan do người tạo ra gây ra hậu quả trầm trọng thêm qua các thiên tai như cơn bão Yagi vừa qua thưa Cô Trà My. 5-Xin phân tích chi tiết từng yếu tố một vừa liệt kê, chẳng hạn hút cát gây hậu quả gì, đốt rẫy gây hậu quả gì, phá rừng gây hậu quả gì….) MTT: Như vậy tôi xin đi vào chi tiết và nhận định mức tác hại của các tác động trên. Về lợi ích của việc đốt rẫy, việc làm trên giúp tiêu hủy các phế thải, rác rưởi thực vật từ vụ mùa trước, làm sạch đất và tiêu diệt nhiều loại sâu bệnh và cỏ dại. Tro từ việc đốt rẫy có thể được xem như là một loại phân bón cung cấp một số chất dinh dưỡng cho đất, như kalium, calcium và magnesium có thể thay thế các loại phân bón hóa học tổng hợp, loại phân bón dùng lâu ngày sẽ làm chai đất. Tuy nhiên, việc đốt rẫy gây ra khói và bụi, làm ô nhiễm không khí và ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và động vật sống chung quanh vùng. Về việc phá Rừng: Rừng là một thảm thực vật mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Đối với Việt Nam, rừng thượng nguồn ở miền Bắc Sông Hồng và sông Cửu Long giữ một vai trò hết sức quan trọng: giữ nước trong mùa mưa và điều tiết nước cho vùng hạ lưu trong mùa khô qua lớp đất thịt do rễ cây chằng chịt bám phải. Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc giữ đất và giảm sự xói mòn. Theo các chuyên gia, cây rừng tự nhiên lâu năm cao 40-50m sẽ có thảm thực vật và các tầng cây khác. Khi mưa lớn, nước mưa sẽ thấm vào các cành cây khô và thảm lá mục bên dưới. Sau đó, nước sẽ thấm vào đất tạo thành mạch nước ngầm, 80-90% lượng nước mưa sẽ được giữ lại trong quá trình này, 10-20% sẽ trôi đi và ít có khả năng gây sạt lở, lũ ống, lũ quét. Các loại rừng khác chỉ giữ được 20 – 50% lượng nước và chỉ có tác dụng cản lũ. Nếu không có rừng già, lượng nước mưa đổ về các sông, suối tạo lũ nhanh gấp 10 lần và bỗng chốc biến thành những cơn lũ quét, sạt lở nghiêm trọng Thống kê năm 2024, Việt Nam có tỷ lệ che phủ rừng đạt 42% bao gồm cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Thế nhưng, rừng già, rừng nguyên sinh còn vô cùng ít. Theo công bố của các chuyên gia về môi trường và biến đổi khí hậu thì Việt Nam chỉ còn 0,25% rừng nguyên sinh, tức là cứ 800 hecta rừng mới có 2 hecta rừng già. Trong 80 năm qua, Việt Nam đã mất khoảng 2 triệu hecta rừng (20.000 Km2). Trước đây, từng có nhiều số liệu cho thấy, Việt Nam có tỷ lệ phá rừng nguyên sinh đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Nigeria. Xin trích một đoạn vàn của tác giả Quyết Hồ về việc phá rừng và trồng rừng:” Đó là sự sốt ruột trước việc mất rừng. Có nhiều người dẫn con số "mật độ che phủ rừng" của Việt Nam tăng liên tục trong nhiều năm qua để biện minh cho ý kiến, nói mưa lũ là do mất rừng là không đúng, hoặc đại khái là do "thế lực thù địch" dựng chuyện mà thôi, chứ làm gì có chuyện đó? Nhưng mật độ che phủ rừng có lớn tới bao nhiêu, có tăng bao nhiêu mà chất lượng rừng không đa dạng, không tăng thì cũng như không. Bởi nếu một trận mưa diễn ra trong rừng tự nhiên nó sẽ khác, đó là cảm giác của tuổi thơ khi đi tìm trâu cả ngày trong rừng những hôm mưa gió. Còn một trận mưa ở rừng keo, rừng cây công nghiệp nó khác hoàn toàn. Nước tuôn xuống xối xả và ộc thẳng ra suối, rồi ra sông và tống về xuôi. Rừng một tán lá, một giống cây thì làm sao mà đủ sức cản trở nước mưa, giữ nước mưa trong nó bằng rừng đa tán, đa tầng? Những bức ảnh bên dưới, tôi chụp ở gần điểm giao giữa Ql6 và QL37, chỗ gần tượng đài Cò Nòi. Kể từ đây, nếu chạy QL37 sang tới Đèo Chẹn, đứng từ đây, nhìn xuống sâu lòng vực thẳm thì thấy hùng vĩ thật đấy. Nhưng bên cạnh cái hùng vĩ đó là sự sợ hãi, bởi vì làm gì còn rừng? Lúc đứng ở đây là vào Tháng Ba, mới sau tết, tôi mơ hồ đặt câu hỏi trong lòng là: nếu mưa to thì ở đây sạt lở chết kinh hoàng tới thế nào? Và cuối cùng là sạt lở ở mạn Yên Bái, Lào Cai nhiều hơn. Nhưng như thế không có nghĩa là điều tôi lo lắng đã không đến. Nó đến,..” Và bây giờ, “Nó” của tác giả Quyết Hồ đã đến qua cơn bão Yagi! Chính nạn phá rừng làm mất đi khả năng giữ nước cho nên, mỗi khi đến mùa khô, nước song chuyển về hạ lưu càng cạn kiệt.. Việc phá rừng làm giảm khả năng của các hệ sinh thái rừng trong việc giữ nước và ổn định đất đai, dẫn đến gia tăng lũ lụt và xói mòn đất. Hậu quả của việc phá rừng còn đưa đến nguyên nhân chính yếu, chính là sự xâm nhập nước biện mặn và sâu trong lục địa vì dòng chảy yếu không thể đuổi mặn đi được.. Về tình trạng nạo vét lòng sông: Tình trạng vét cát ở sông Hồng và Sông Cửu Long ở Việt Nam đang gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Dưới đây là các điểm chính liên quan đến tình trạng này: * Sông Hồng: Vét cát ở sông Hồng nhằm mục đích cung cấp nguyên liệu cho ngành xây dựng. Tuy nhiên, hoạt động khai thác cát ở đây diễn ra rất mạnh mẽ, dẫn đến những tác động tiêu cực lớn đến môi trường: - Xói mòn bờ sông làm suy giảm độ ổn định của bờ sông, dẫn đến xói mòn và mất đất; - Việc hút cát quá mức làm giảm mức nước ngầm và có thể gây sụt lún đất ở các khu vực ven song; - Khai thác cát gây hủy hoại môi trường sống của nhiều loài động thực vật trong sông và các khu vực lân cận. * Sông Cửu Long: Sông Cửu Long, với mạng lưới sông ngòi phức tạp, cũng đang đối mặt với vấn đề khai thác cát không kiểm soát. Hoạt động này nhằm cung cấp cát cho ngành xây dựng và các nhu cầu khác. Tác động môi trường: - Khai thác cát làm giảm khả năng giữ nước của các con sông, dẫn đến nguy cơ ngập úng trong mùa mưa; - Sự thay đổi trong cấu trúc lòng sông và sự lắng đọng cát có thể gây ra biến đổi địa hình, ảnh hưởng đến hệ sinh thái và nông nghiệp; - Khai thác cát làm giảm lượng phù sa mà các con sông mang đến cho vùng đồng bằng, ảnh hưởng đến màu mỡ của đất đai nông nghiệp. Về việc hút cát từ bờ biển: Hút cát từ các khu vực ven biển làm giảm khả năng bảo vệ của các bãi cát và hệ sinh thái ven biển, dẫn đến mực nước biển dâng cao và gia tăng sự tấn công của sóng biển làm tăng nguy cơ xói mòn bờ biển và làm giảm khả năng bảo vệ bờ biển khỏi các hiện tượng thời tiết cực đoan. Thêm nữa, ở nhiều vùng có rặng san hô như Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Vịnh Hạ Long, Mong Cái, việc hút cát sẽ tiêu diệt san hô, một vùng sinh thái cho sinh vật biển sinh sản và trú ngụ. Tóm lại, tất cả những yếu tố chủ quan do con người tạo ra kể trên không chỉ làm tăng cường sự tàn phá của các thảm họa mà còn làm giảm khả năng phục hồi của các cộng đồng và hệ sinh thái, dẫn đến thiệt hại nặng nề hơn trong các tình huống như bão Yagi và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt khác. Thưa Cô Trà My. Về việc xả đập: Thưa Cô TM, cá nhân chúng tôi đã viết rất nhiều bài viết về việc xả đập hay ngăn chận dòng nước ở dòng chính sông Mekong qua đạp Jinghong – Cẩm Hồng ở tỉnh Vân Nam nằm ngay trên phía Bắc biên giới giáp với Lào, ở tỉnh Vân Nam của TC. Trong suốt 5 năm liền từ năm 2019 cho đến 2024, TC đã chặn dòng nước ở con đập trên, làm cho mực nước ở hai trạm quan trắc Tân Châu và Châu Đốc ở sông Tiền và sông Hậu xuống thấp dưới 200 m3/giây vào tháng 3 và tháng tư gây thiệt hại đến 200.000 hecta lúa và hoa màu trong vụ mùa Đông Xuân (trước 1975, mực nước trung bình của hai tháng nầy ở hai địa điểm trên giao động từ 5.000 đến 9.000 m3.giây). Nhưng hiện tại, miền Nam đang vào mùa nước nổi – nước lớn. Cơn bão Yagi sẽ làm tràn đầy các hồ chứa và các đâp ở thượng nguồn ở TC. Vì vậy, bắt buộc họ phải xả đâp. Chúng ta đã kinh qua việc ngập lụt quá mau so với trữ lượng rất lớn của nước mưa do bão gây ra. Đó chính là kết quả của việc xả đập đó. Và Đồng bằng sông Cữu Long “CÓ LẼ” cũng đang bị ngập lụt (20/9) vì cần phải 8, 9 ngày nước từ thượng nguồn mới xuống tận Cửu Long. Không biết nhà cầm quyền có cảnh bào cho người dân hay biết hay không để chuẩn bị di tản? Tóm lại, việc xả đập không hợp lý và tùy tiện là một việc làm phạm pháp, các quốc gia nằm trong lưu vực sông Mekong (Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái Lan, Myanmar, và Trung Cộng) và sông Hồng (Việt Nam và Trung Cộng) cần hợp tác chặt chẽ để quản lý nước và điều phối các hoạt động xả dập nhằm đảm bảo lợi ích chung và giảm thiểu tác động tiêu cực của thời tiết. Cùng trao đổi tin tức qua công nghệ dự đoán dòng chảy và hệ thống cảnh báo sớm có thể giúp các quốc gia hạ nguồn chuẩn bị và ứng phó kịp thời với các thay đổi đột ngột trong dòng chảy. Nên nhớ Trung Cộng và Miến Điện đã rút ra khỏi MRC – Mekong River Committee- Uỷ ban ban Sông Mekong để toàn quyền hành động xây dựng đập trên dòng chính ở thượng người từ Trung Công, qua Lào, và Cambodia…Việt Nam cần lưu ý điều nầy! thưa Cô Trà My. 6. Lũ lụt ngoài nguyên nhân do mưa nhiều khiến sông dâng cao ‘tức nước vỡ bờ’, còn những nguyên nhân nào khác? MTT: Lũ lụt có thể xảy ra vì nhiều nguyên nhân khác ngoài việc mưa nhiều làm mực nước sông dâng lên cao. Dưới đây là một số nguyên nhân chính khác gây ra lũ lụt: Về Nguyên nhân chủ quan do con người: • Quản lý nguồn nước không hợp lý do phân bổ không đồng đều, một vùng có dư thừa nước, ngược lại ở một vùng khác không có đủ nước cho nhu cầu sinh hoạt và khai thác nông nghiệp…Tứ đến là việc xả nước từ các đập hoặc hồ chứa không kiểm soát có thể làm gia tăng lưu lượng nước trong các con sông và suối, dẫn đến lũ lụt vùng hạ lưu. • Đô thị hóa không kế hoạch và thiếu nghiên cứu tác động môi trường: Thí dụ vùng Thủ Thiêm, Cát Lái, Tân Thuận là một vùng ngập nước thiên nhiên để điều tiết lượng nước dư thừa trong mùa mưa hay thủy triều lên. Nhưng nay vì nhu cầu xây dựng khu Phú Mỹ Hưng và xa lộ vòng đai cho nên ngập lụt triền miên. Còn trong nội thành Saigon, việc xây cất cao ốc làm tăng bề mặt không thấm nước và làm giảm diện tích đất có khả năng hấp thụ nước, do các bề mặt cứng như bê tông và nhựa đường không cho nước thấm vào. Điều này dẫn đến việc nước mưa chảy ra nhanh chóng vào hệ thống thoát nước và các con sông tạo ra ngập lụt cho dù một cơn mưa nhỏ hay nhằm trăng rằm cho thủy triều cao hơn bình thường. • Phá Rừng và Xói mòn đất như đã nói ở phần trên. Về nguyên nhân do thiên nhiên: Mưa xối xả trong thời gian ngắn hay mưa dai dẳng trong một thời gian dài có thể làm các con sông, kênh thoát nước, và các cống chính dẫn nước ra sông rạch bị tràn ngập nhanh chóng đưa đến lũ lụt. Một nguyên nhân khác nữa là vì miền Nam Việt Nam nằm ở vùng hạ lưu cho nên một khi có lũ lụt ở miền thượng lưu, là ngay sau đó miền Nam cũng bị ảnh hường. Đối với miền Trung và miền Bắc, cấu tạo địa chất có dốc thẳng, cho nên, mỗi khi có mưa rào, một lượng nước rất lớn chảy xiết ra biển làm ngập lụt các vùng chung quanh ven biển. Và sau cùng do biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng lên cao cũng có thể làm gia tăng nguy cơ lũ lụt ven biển, đặc biệt khi kết hợp với với áp thấp trên mặt biển tạo ra gió mạnh hay bão. Biến đổi khí hậu còn tạo ra hai hiện tượng El Nino và La Nina gây ra tình trạng mưa gió bất thường không năm trong các chu kỳ thời tiết như trong quá khứ nữa Tất cả những yếu tố trên có thể tác động đơn lẻ hoặc kết hợp với nhau để làm gia tăng nguy cơ và mức độ nghiêm trọng của lũ lụt. Do đó, việc quản lý và ứng phó với lũ lụt cần phải xem xét toàn diện các nguyên nhân và tác động khác nhau tùy theo từng vùng hay khu vực trên thế giới. Không thể suy diễn sự việc xảy ra ở vùng nầy để ứng dụng cho một vùng cách xa nào khác. Mỗi kinh nghiệm về thời tiết phản ảnh qua hiện tượng biến đổi khí hậu là một đặc thù cho chính vùng đó mà thôi. 7. Đất chuồi ngoài nguyên nhân mưa nhiều khiến đất ẩm ướt sụt lở, còn những nguyên nhân nào khác? MTT: Đất chuồi, hay còn gọi là trượt đất, xảy ra khi đất hoặc đá trên sườn núi hoặc dốc bị lở hoặc di chuyển xuống dưới do lực kéo của trọng lực hay do thời tiết ẩm ướt. Mưa nhiều khiến đất ẩm ướt và dễ sạt lở. Ngoài ra cũng cần nhắc đến một vài nguyên nhân đã trang trải ở phần trên. Cây rừng và hệ thống rễ của chúng giúp giữ đất lại. Khi rừng bị phá, hệ thống rễ bị mất đi, làm giảm khả năng giữ đất, dẫn đến sự xói mòn và đất chuồi do lớp đất thịt di chuyển về vùng có địa hình thấp hơn. Các hoạt động khai thác mỏ, đào hố hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng có thể làm suy yếu kết cấu của đất, làm cho đất không còn kết dính như trước nữa, do đó, hiện tượng lở đất hay đất chuồi xảy ra. Mất lớp thực vật bảo vệ đất làm tăng khả năng xói mòn, khi đó đất dễ bị cuốn trôi và gây ra hiện tượng đất chuồi. Còn đối với các tầng lợp đất “không có chân đứng”, nghĩa là phần dưới của lớp đất thịt thông thường dày khoảng từ 5 đến 10 m, không dược cấu tạo vững chắc như đất sét ở vùng Houston, hay đất đất bồi ở Đồng bằng sông Cửu Long, do lực nén của những xây dựng trên mặt đất, sẽ làm đất lún hay di chuyển ra một địa điểm khác. Nước ngầm cũng là một yếu tố khá qua trọng trong hiện tượng đất lún hay chuồi. Một thí dụ điển hình ở tỉnh Sóc Trăng, người dân ở đây đã đào hơn 45.000 giếng đóng nhằm mục đích lấy nước để nuôi tôm từ thập niên 90 ở thế kỷ trước. Hậu quả là có thể nói tỉnh Sóc Trăng bị lún trên 50 cm. Còn Thành phố Saigon do xây dựng quá tải, và có rất nhiều nhà trong nội thảnh đào giếng lấy nước từ nước ngầm. Và hiện tượng lún ước tính cũng trên dưới 50 cm. Tóm lại, tất cả những yếu tố kể trên có thể tác động đơn lẻ hoặc kết hợp với nhau để làm tăng nguy cơ đất chuồi, đất lún gây ra thiệt hại lớn đối với môi trường và cơ sở hạ tầng. 8. Thường lũ lụt xảy ra ở vùng trũng hay duyên hải gần biển, nay các vùng cao-vùng núi phía Bắc Việt Nam lại bị lũ lụt khủng khiếp trong bão Yagi, các chuyên gia môi trường lý giải ra sao? MTT: Lũ lụt ở các vùng cao và vùng núi, như xảy ra trong trường hợp bão Yagi ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, có thể được lý giải bởi một số yếu tố môi trường và khí hậu đặc thù. Dưới đây là các lý do chính mà các chuyên gia môi trường thường đưa ra để giải thích hiện tượng này: Mưa lớn và có cường độ cao: Trong trường hợp bão Yagi, lượng mưa lớn có thể rơi trong một khoảng thời gian ngắn, tạo ra khối lượng nước khổng lồ trên các sườn núi và vùng cao. Đặc biệt là mưa rất mạnh, xối xả trong một thời gian ngắn làm cho lớp đất thịt bị bảo hòa nhanh chóng dẫn đến lũ lụt. Miền cực Bắc Việt Nam có địa hình dốc với núi cao, nước mưa chảy nhanh xuống triền dốc và các khe núi làm cho nước tích tụ nhanh chóng gây ra lũ lụt. Thêm nữa, lớp đất thịt ở miền núi cao không dầy, nhiều nơi chưa đến 1m đất, vì vậy, mỗi khi có mưa lớn lớp đất nầy dễ bị chuồi tạo ra hiện tượng sạt lở. Và nguyên nhân chánh yếu cần phải kể ra ở những vùng nầy cũng là do việc phá rừng làm giảm khả năng lưu giữ nước của đất. Hiện tượng biến đổi khí hậu có thể làm gia tăng cường độ mưa và làm thay đổi mô hình thời tiết. Sự gia tăng nhiệt độ có thể dẫn đến nhiều mưa hơn và mưa dai dẳng hơn. Vì ở một vị trí cao, cho nên nhiều đám mây tích tụ hơi nước nhưng đọng lại và tạo ra mưa rào do áp suất và nhiệt độ không khí thấp so với các vùng thấp ở bên dưới Lũ lụt ở các vùng núi, như trong trường hợp bão Yagi, cho thấy rằng các hiện tượng khí hậu khắc nghiệt, bất thường và tác động của con người có thể làm gia tăng nguy cơ lũ lụt ngoài vùng núi cao, mà cũng có thể xảy ra ngay cả ở những khu vực khác nữa, nghĩa là sự biến đổi khí hậu là một hiện tượng có thể phát sinh ra nhiều hậu quả không thể nào tiên liệu trước được thưa Cô Trà My. 9. Nhiều người VN lo ngại về các con đập ở Trung Quốc. Xin cho biết các rủi ro cho các vùng miền của VN từ các con đập ở Trung Quốc? Một khi họ xả đập, xả lũ thì các vùng nào của VN sẽ bị nguy hiểm? MTT: Lo ngại về các con đập ở thượng nguồn sông Hồng và sông Mekong của TC là một vấn đề quan trọng đối với Việt Nam. Dưới đây là các rủi ro và ảnh hưởng có thể xảy ra đối với các vùng miền của Việt Nam nếu TC xả nước từ các đập trên hoặc lấy nước ở dòng chính của song đầu nguồn: • Nguy cơ lũ lụt vì các con đập trên thượng nguồn của TC: Khi TC xả đập đột ngột, một lượng nước lớn có thể được phóng thích vào sông chính, như sông Mekong và sông Hồng, gây ra lũ lụt nghiêm trọng ở các khu vực hạ lưu. Sự gia tăng lưu lượng nước có thể làm vượt quá khả năng của các hệ thống thoát nước và gây ra lũ lụt ở các khu vực hạ lưu. • Trong trường hợp ngược lại, việc tích trữ nước trong đập trong mùa khô cạn cũng là một rủi ro lớn cho Việt Nam. Vì sao? Trong trường hợp nầy, TC tích trữ nước trong các con đập làm cho lưu lượng nước ở các sông chảy vào Việt Nam có thể giảm, dẫn đến tình trạng khô hạn và thiếu nước cho nông nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt trong mùa khô. Sông Hồng và sông Cửu Long chính là hai nạn nhân chính của TC. Có thể nói đây là một cuộc chiến xâm lăng của TC không tiếng súng qua việc kiểm soát nguồn nước của hai sông trên. • Từ hai sự kiện trên, Sông Hồng và Sông Cửu Long phải hứng chịu tất cả hệ quả của việc xả nước hay rút nước. Tất cả làm thay đổi hệ sinh thái của con sông, làm xói mòn, sạt lở hai bên bờ sông, làm ô nhiễm nguồn nước sông vì nước trong hồ bị ứ dọng, không phải là nước luân lưu do đó, kết tụ rất nhiều phế thải cho nên bị ô nhiễm. Qua hai trường hợp điển hình trên, những nguy cơ và tác động từ các con đập ở TC đối với Việt Nam là rất nghiêm trọng, do đó, xin đề nghị trong trường hợp sông Mekong, cần phải có sự tham gia quốc tế nhằm giải quyết những tranh chấp trong việc quản lý nguồn nước là:”Đề nghị các cơ quan liên quan đến nguồn nước sông Mekong và quốc tế, các nhà hoạch định chính sách và cư dân của lưu vực sông Mekong và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuân thủ và duy trì các nguyên tắc dưới đây để phát triển và khai thác lưu vực sông Mekong một cách nghiêm chỉnh và có trách nhiệm. Và lệnh cấm được áp dụng ngay lập tức đối với các dự án chuyển dòng nước, đập, và thủy điện trên sông Mekong, ưu tiên hàng đầu của các cơ quan quốc gia và quốc tế là phát triển dữ liệu cơ sở khoa học về sông Mekong, thủy văn và hệ sinh thái của sông.” 10. VN có cách nào tránh? Phải làm gì? MTT: Để giảm thiểu và ứng phó với rủi ro từ các con đập ở TC và các vấn đề liên quan đến lũ lụt, Việt Nam có thể thực hiện một số biện pháp chiến lược và cụ thể. Dưới đây là các phương pháp và biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu những tác động của bão. Trước hết cần phải thực hiện hệ thống dự báo bão lũ, mưa lớn, động đất (đất run chuyển) hữu hiệu để theo dõi tình hình và kịp thời thông báo cho dân chúng ở các khu vực bị ảnh hưởng. Việc quản lý đập cần phải do những nhà chuyên môn về đê điều - đập thủy điện – thủy văn điều hành và phối hợp chặt chẽ với dự đoán thời tiết và thực hiện xả lũ theo kế hoạch để giảm thiểu tác động tiêu cực. Đây là những việc làm thuần túy chuyên môn không phải là một công tác chính trị. Đảng cần đứng ngoài trong vấn đề nầy. Tóm lại, việc xả lũ của các đập ở thượng nguồn có thể làm trầm trọng thêm thiệt hại từ bão và mưa lũ, và quản lý hợp lý việc xả lũ cùng với các biện pháp phòng ngừa là rất quan trọng để giảm thiểu tác động tiêu cực. VN cần học bài học: Qua kinh nghiệm từ cơn bão Yagi, Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học quan trọng để cải thiện khả năng ứng phó và giảm thiểu thiệt hại từ các cơn bão trong tương lai. Dưới đây là một số bài học quan trọng: Việt Nam cần nâng cao hệ thống dự báo và cảnh báo sớm đến dân chúng, đầu tư cà cải thiện các hệ thoát thoát và rút nước, không xây dựng hay đô thị hóa những vùng ngập nước thiên nhiên nhằm điều tiết ngập lụt. Hạn chế khai thác các rừng ngập mặn chung quanh mũi Cà Mau (khoàng 200.000 hecta) vì đây là một vùng đệm thiên nhiên để hạn chế nước mặn tràn vào nội địa, vùng trú ẩn và sinh sản cho tôm cá, cây tràm, cây đước của rừng ngăn chặn xói mòn và hấp thụ phèn trong nước, và nhứt là rừng ngập mặn nầy có khả năng hạn chế phần nào sức tàn phá của bão nhiệt đới trong vùng. Những bài học này sẽ giúp Việt Nam nâng cao khả năng ứng phó với các cơn bão trong tương lai, giảm thiểu thiệt hại và bảo vệ tốt hơn cho người dân thưa C6 Trà My. 11- Sông Hồng, hệ thống đê điều, ảnh hưởng của Yagi như thế nào? MTT: Đối với Sông Hồng và châu thổ, các tỉnh phía Bắc Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh như Lào Cai, Yên Bái, Hà Nội, và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, một khi TC xả đập ở các con sông nguồn như sông Hồng, lưu lượng nước đổ về khu vực đồng bằng sông Hồng có thể gia tăng nhanh chóng, cộng thêm một lượng lớn nước mưa do bão Yagi cung cấp… sẽ gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Điều này có thể làm ngập các khu vực thấp và gây thiệt hại lớn cho cơ sở hạ tầng và sản xuất nông nghiệp. Sông Hồng, với hệ thống đê điều phát triển, đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lũ lụt và bảo vệ đất đai nông nghiệp ở miền Bắc Việt Nam. Hệ thống đê điều giúp ngăn chặn nước lũ, duy trì dòng chảy ổn định và bảo vệ các khu vực dân cư có thể bị vỡ sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng sạt lở và ngập lụt. Bão Yagi có thể ảnh hưởng đáng kể đến các con đê của Sông Hồng, đặc biệt là đoạn chảy qua thủ đô Hà Nội. Nếu mực nước sông dâng cao, áp lực lên các công trình đê có thể tăng, dẫn đến nguy cơ tràn bờ hay vở đê hoặc sạt lở. Gió bão có thể làm hư hại trực tiếp đến cấu trúc đê, gây ra hiện tượng xói mòn hoặc làm suy yếu nền đất. Và nếu các đoạn đê bị hư hại hoặc không kịp thời nâng cấp, vùng đất ven sông sẽ đối mặt với nguy cơ ngập úng, ảnh hưởng đến đời sống của người dân và sản xuất nông nghiệp mỗi khi có bão. Còn hệ thống đê điều của các sông phụ lưu Sông Hồng, như sông Đuống, sông Thái Bình, và sông Lô, cũng rất quan trọng trong việc quản lý lũ lụt và bảo vệ nông nghiệp. Tuy nhiên, đê điều ở các sông phụ lưu này có thể bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố có thể xảy ra trong khi cơn bão Yagi hoành hành. Khi lượng nước mưa lớn hoặc nước từ các sông chính dâng cao, đê điều có thể bị áp lực lớn, dẫn đến nguy cơ tràn hoặc sạt lở. Các đoạn đê gần khu vực cửa sông hoặc nơi dòng chảy mạnh có thể bị xói mòn, làm giảm khả năng ngăn chắn một khi bão Yagi quét ngang. Việc theo dõi, đánh giá và nâng cấp thường xuyên các công trình đê điều là rất quan trọng để bảo đảm an toàn cho khu vực Hà Nội, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và gia tăng tần suất các hiện tượng thời tiết khắc nghiệp trong mùa bão nhiệt đới hàng năm.. 12- Cảnh báo của giới môi trường sau hậu quả từ Yagi? MTT: Sau các hậu quả thảm khốc từ bão Yagi, các nhà chuyên môn về môi trường có thể đưa ra một số nhận định và cảnh báo quan trọng về tương lai khi dựa trên kinh nghiệm từ các cơn bão như bão Yagi. Dưới đây là một số điểm chính mà họ có thể đề cập: 1. Bão có khuynh hướng ngày càng mạnh hơn và tàn phá khốc liệt hơn: Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng sự thay đổi khí hậu có thể làm gia tăng cường độ của các cơn bão. Bão Yagi có thể là một ví dụ của xu hướng này, với các cơn bão trở nên mạnh mẽ hơn và có sức tàn phá lớn hơn do nhiệt độ biển cao hơn do sự biến đổi khí hậu. 2. Thật khó để dự đoán bão trong những ngày sắp tới vì bão sẽ thay đổi cường độ, hướng di chuyển, và tốc độ bão vì những sự thay đổi đột ngột của áp suất của bầu khí quyển.. 3. Trong trường hợp bão Yagi vừa qua, chúng ta có thể kết luận rằng không nơi nào, vùng nào được ghi nhận là “vùng không có bão” như các vùng cực Bắc của VN nằm sâu trong lục địa với núi cao chắn…nghĩa là không còn khu vực nào gọi là an toàn cả đối với “thiên nhiên” ngày hôm nay. Tóm lại, bão Yagi đã cho chúng ta một bài học đích đáng là hiện tại, xin đừng xem thường bão. Não trạng “thay trời làm mưa” chỉ là một câu thiệu cho những người huyễn tưởng mà thôi! 13- Khuyến nghị giúp khắc phục và phòng tránh từ bài học Yagi? Nhà nước phải làm gì, người dân phải làm gì? MTT: Bài học từ Yagi liên quan đến các vấn đề về nhận định, cảnh giác, quản lý, phát triển cộng đồng, hoặc ứng phó với những tình huống khẩn cấp do thiên nhiên mang đến. Tuy nhiên, một số khuyến nghị chung dựa trên các bài học phổ biến từ các tình huống tương tự mà Yagi có thể đại diện. Đây có thể là các bài học từ quản lý thiên tai, hạn chế thảm họa, phát triển cộng đồng, hay canh tân chính sách. Đứng về phương diện chính quyền: Cần phải đầu tư vào công nghệ và hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện và thông báo về các nguy cơ sớm hơn để bảo đảm tin tức kịp thời và chính xác đến người dân. Trong những khu vục nhạy cảm với bão, mưa lớn, đất chuồi, cần phải lắp đặt những hệ thống quan trắc để nắm vững các biến động của thời tiết như vũ lượng, mặt đất chuyển động v.v…Sau cùng cần phải đào tạo một lớp chuyên viên có khả năng chuyên môn cao hầu đảm trách những công việc trên. Cũng cần phải nói thêm, là, nhà cầm quyền cũng cần phải, qua truyền thông, hội thảo… hướng dẫn cho người dân biết và hiểu tầm quan trong của nguy cơ của những thiên tai sẽ ngày càng khốc liệt hơn nhằm hạn chế thiệt hại nhân mạng và tài sản một khi cơn bão tiến về.. Về phía người dân, qua sự hướng dẫn của nhà cầm quyền, đã được hiểu biết cung cách ứng phó bới bão để từ đó có chuẩn bị kịp thời và chu đáo hơn, hầu hạn chế được thiệt hại. Có được sự hợp tác giữa người dân và nhà cầm quyền, thiết nghĩ những cơn bão trong tương lai sẽ không còn gây tác hại khủng khiếp vầ nhân mạng và tài sản ước tính lên đến 40.000 tỷ Đồng VN tương đương với 0,15% ngân sách quốc gia như cơn bão Yagi vừ qua. Cảm ơn Cô Trà My đã điều hướng chương trình và cảm ơn tất cả Quý vị đã lắng nghe… Mai Thanh Truyết Houston 20/9/2024