Mai Thanh Truyết _EnviroVN
Tuesday, January 7, 2025
Trần Văn Bà 2025
.
Trần Văn Bá (1945 - 1985)
Trần Văn Bá (14 tháng 5 năm 1945 — 8 tháng 1 năm 1985) là người đã cùng Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh tổ chức đưa người xâm nhập vào Việt Nam nhằm lật đổ CSBV. Ông bị lực lượng công an bắt giữ trong Kế hoạch CM-12 khi đang xâm nhập vào Việt Nam bằng đường biển và bị tòa án Việt Nam kết án tử hình năm 1985 vì tội phản quốc. Ông được Sáng hội Tượng đài Nạn nhân Chủ nghĩa Cộng sản tại Mỹ truy tặng huy chương Tự Do Truman - Reagan năm 2007.
Trần Văn Bá, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1945 tại Sa Đéc, Việt Nam, là con trai thứ của dân biểu Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Văn. Ông Văn từng tham gia chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 và là Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch vào năm 1949 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau khi cha bị Việt Cộng xử tử vào ngày 7 tháng 12 năm 1966 tại Sài Gòn, Trần Văn Bá rời quê nhà sang Pháp học. Ông tốt nghiệp Cao học kinh tế, chuyên về Chính trị Kinh doanh năm 1971 và làm trợ giảng tại Đại học Nantes (Nantes), và từng là chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris từ năm 1973 đến 1980.
Năm 1972 ông dẫn đầu một phái đoàn sinh viên Việt Nam tại Châu Âu trở về thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa để tạo sự thông cảm giữa những sinh viên du học và quân cán chính của Việt Nam Cộng hòa trong chương trình "Nối Vòng Tay Lớn".
Sau biến cố 1975, ông vẫn tiếp tục tranh đấu chống cộng sản tại châu Âu.
Hoạt động đấu tranh
Sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 6 tháng 6 năm 1980 ông âm thầm trở về nước để bí mật tranh đấu với mục đích lật đổ chính quyền Việt Nam và tham gia Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam do ông Lê Quốc Túy là chủ tịch, ông Mai Văn Hạnh là chủ tịch quốc ngoại, các ông Huỳnh Vĩnh Sanh và Hồ Tấn Khoa làm đồng chủ tịch quốc nội. Ông Trần Văn Bá được cử làm tham mưu và ông Lê Quốc Quân phụ trách lực lượng vũ trang trong nước.
Theo nguyệt san Nhân Bản số tháng 1/01/85 phát hành tại Paris, Lê Quốc Túy xác nhận một số chiến sĩ của Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam đă bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đă xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán bộ chính phủ.
Tết 1983, lực lượng an ninh Việt Nam đă bắt được Hồ Tấn Khoa, Vő Văn Nhơn, Nguyễn Ngọc Hòa thuộc tổ chức Hòa giải Quốc tế gần với đạo Cao Đài. Những người bị bắt bị nghi là thông đồng với các ông Túy, Hạnh để "cướp chính quyền" ở một số tỉnh miền tây. Con trai ông Khoa là Hồ Thái Bạch sau đó thay thế cha trong chức vụ đồng chủ tịch.
Có 10 toán người phản kháng của Mặt trận xâm nhập vào trong nước tính từ đầu năm 1981 đến tháng 9 năm 1984. Toán thứ nhất về bằng đường bộ từ tỉnh Trat ở Thái Lan qua Campuchia, khi đến Châu Đốc thì bị bắt. Toán này có nhiệm vụ liên lạc với lực lượng của Hòa Hảo để chiếm đóng vùng Bảy Núi. Toán thứ 10 về bằng đường biển vào đầu tháng 9 năm 1984 gồm 21 người trong đó có Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá. Toán này bị bắt ngay khi mới đổ bộ vào bờ biển tại làng Minh Hải, Cà Mau vào đêm 11 tháng 9 năm 1984. Tổng cộng, có tất cả 119 người đă bị bắt giam hoặc giết chết.
Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ 10 nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp để mổ gấp nên đã thoát nạn.
Xét xử
Từ ngày 14 đến 18 tháng 12 năm 1984, Tòa án Nhân dân Việt Nam đã mở phiên tòa xét xử ông và những người bị bắt cùng với ông về tội phản quốc tại Nhà hát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch, Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ, Thạch Sanh, Nguyễn Văn Trạch, Nguyên Bình, Nguyễn Văn Hậu, Nhan Văn Lộc, Lý Vinh, Trần Ngọc Ẩn, Cai Văn Hùng, Đặng Bá Lộc, Thái Văn Dư, Trần Văn Phương, Nguyễn Phi Long, Nguyễn Văn Cầm.
Công tố viên cho biết ngay từ đầu tháng 1 năm 1981, cơ quan an ninh đã phát hiện một "tổ chức gián điệp" xâm nhập vào Việt Nam. Trần Văn Bá đã không ký tên nhận tội và bị tuyên án tử hình cùng với Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Quân, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch; ông cũng không làm đơn xin ân xá.
Trần Văn Bá bị xử tử vào ngày 8 tháng 1 năm 1985.
Tưởng nhớ
Tại Liège, Bỉ, đã có một mộ bia tưởng niệm dành cho ông. Ở Falls Church, Virginia, có một con đường mang tên ông.
Tiến sĩ Lee Edwards, chủ tịch Sáng hội Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản trên thế giới, phát biểu với đài Á Châu Tự Do về trường hợp ông Trần Văn Bá:
"Sau khi tham khảo ý kiến đồng sự, bạn hữu và những người quen trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, Sáng hội nhất trí chọn Trần Văn Bá là trường hợp tiêu biểu của sự tranh đấu đòi tự do để trao tặng huy chương cho ông."
Thân nhân ông Trần Văn Bá đã được thông báo và được mời đến nhận huy chương Tự do Truman-Reagan trong buổi lễ được tổ chức tại đại sứ quán Hungary ở thủ đô Washington, D.C. vào chiều ngày 15 tháng 11. Hai người khác cũng được trao huy chương Tự do Truman-Reagan 2007 vì thành tích và công lao đóng góp vào tiến trình tự do dân chủ là tiến sĩ Janos Horvarth người Hungary, và dân biểu Hoa Kỳ thuộc Đảng Cộng hòa Dana Rohrabacher.
Tháng Chín 2008, Hội đồng thành phố Paris, Pháp, dự định khánh thành bia tưởng niệm Trần Văn Bá tại 47-49 đại lộ Ivry, quận 13 Paris, nhưng vì áp lực của Nhà nước Việt Nam cùng một số tổ chức, việc này bị bác bỏ theo nghị quyết ngày 16/9/2008 của tỉnh trưởng Vùng Iles-de-France và tỉnh trưởng Paris.
Trần Lê Nguyên
Wednesday, January 1, 2025
Cuộc cách mạng bất tuân dân sự có
thể xảy ra cho Việt Nam hay không?
Nếu có thì thực hiện như thế nào?
Cuộc cách mạng bất tuân dân sự là một chiến lược nhằm thay đổi chế độ chính trị, thông qua việc từ chối tuân thủ các luật lệ và chính sách mà người dân cho là bất công, và không xử dụng bạo lực. Câu hỏi về việc liệu một cuộc cách mạng bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam hay không là một vấn đề rất phức tạp và có nhiều yếu tố cần phải xem xét, bao gồm cả tình hình chính trị, sự đàn áp của chế độ và phản ứng của người dân. Tuy nhiên, nếu xét từ một góc độ lý thuyết, thì việc thực hiện một cuộc cách mạng bất tuân dân sự ở Việt Nam là khả thi, mặc dù rất khó khăn.
1- Những yếu tố cần lược duyệt trước khi bắt đầu:
1.1 Sự đàn áp mạnh mẽ của chính quyền
Chế độ Cộng sản Việt Nam hiện nay duy trì sự kiểm soát rất chặt chẽ đối với xã hội, đặc biệt thông qua hệ thống công an và quân đội, cũng như sự kiểm soát nghiêm ngặt đối với truyền thông và thông tin. Chính quyền cũng sử dụng các biện pháp truy cứu, giam giữ và truy tố những người có ý định chống đối hoặc tham gia các cuộc biểu tình. Do đó, bất kỳ hành động nào chống lại chính quyền đều có thể bị đàn áp một cách rất mạnh mẽ.
Tuy nhiên, trong quá khứ, những cuộc đấu tranh bất tuân dân sự vẫn có thể tạo ra sự thay đổi lớn, nếu có đủ sự tham gia và động lực từ một bộ phận lớn người dân.
1.2 Sự phân hóa trong xã hội
Một trong những yếu tố quan trọng để một cuộc cách mạng bất tuân dân sự thành công là sự đoàn kết trong xã hội. Nếu có một sự phân hóa mạnh mẽ về mặt chính trị và xã hội, điều này sẽ gây khó khăn cho việc tạo ra một phong trào lớn mạnh. Tuy nhiên, nếu sự bất mãn đối với chế độ tích tụ đủ lớn và người dân cảm thấy rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đứng lên, thì một phong trào bất tuân dân sự có thể phát sinh.
1.3 Ảnh hưởng của các phong trào quốc tế
Việc hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực nhân quyền và dân chủ, có thể giúp tạo ra một môi trường quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh. Các phong trào đấu tranh không bạo lực ở các quốc gia khác (như ở Myanmar, Belarus, hay các phong trào "Áo Vàng" ở Pháp) cho thấy rằng sự bất tuân dân sự có thể gây ảnh hưởng lớn đến chính quyền, nếu được tổ chức và dẫn dắt một cách có chiến lược.
2. Cách thức thực hiện một cuộc cách mạng bất tuân dân sự ở Việt Nam
2.1 Tạo ra sự đồng thuận trong xã hội
Đoàn kết các lực lượng xã hội: Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự sẽ cần sự tham gia của nhiều nhóm xã hội khác nhau, từ các trí thức, thanh niên, công nhân cho đến các nhóm dân tộc thiểu số. Sự bất mãn về những vấn đề như tham nhũng, thiếu tự do chính trị, và nghèo đói có thể là những yếu tố khơi dậy tinh thần đoàn kết.
Tăng cường các phong trào xã hội dân sự: Xây dựng và phát triển xã hội dân sự có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các cuộc biểu tình và các hành động bất tuân. Các tổ chức phi chính phủ, các nhóm bảo vệ quyền con người, và các phong trào đòi quyền lợi có thể là những nền tảng để huy động sự tham gia của người dân.
2.2 Sử dụng các hình thức bất tuân không bạo lực
Biểu tình, đình công và các cuộc tẩy chay: Một trong những hình thức cơ bản của bất tuân dân sự là tổ chức các cuộc biểu tình ôn hòa, đình công hoặc tẩy chay các hoạt động mà chính quyền tổ chức. Đây có thể là các hành động nhằm vào những vấn đề cụ thể, chẳng hạn như phản đối các chính sách bất công hoặc các vấn đề xã hội như tham nhũng, môi trường, hoặc việc đàn áp quyền tự do ngôn luận.
Chúng ta còn nhớ, ngay gần cuối cuộc chiến ở Việt Nam, Ông David Steinman, một luật sư Hoa Kỳ và cộng sự viên của TNS Daniel Moynihan, đến gặp GS Vũ Quốc Thúc và cho biết rằng Hoa Kỳ không muốn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu công khai tham gia hội thảo mà nên đứng sau hội trường. Ông Steinman cũng khuyến cáo rằng:“Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp bất tuân dân sự (civil disobedience). Phải có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài.”
Xin ghi lại một hành động bất tuân dân sự qua phóng sự về sự việc xảy ra quanh các vụ phản đồi viêc thu tiền BOT ở các tuyến đường về lục tỉnh ở miền Nam năm 2016, để thấy người dân có đầy sáng tạo trong cung cách ứng xử uyển chuyển nầy:”Ngày 3/12/2016, TT CS phải quyết định ngừng thu phí BOT ở Cai Lậy nói lên hiện tượng “bất tuân dân sự” của người dân trong nước. Ông Phạm Chí Dũng nhận định về vấn đề nầy với bài viết:”Cai Lậy và làn sóng bất tuân dân sự” như sau:”Tại BOT Cai Lậy, lộ phí là 25.000 Đồng Việt Nam. Và họ đóng lộ phí qua trạm bằng cách trả giấy bạc 500.000 Đồng và chờ tiền thối lại; hoặc trả 2x10.000 Đồng, 4x1.000 Đồng, 1x500 Đồng và 3x200 Đồng. Tổng cộng 25.100 Đồng và người dân nhứt định chờ Trạm thu lộ phí phải thối lại 100 Đồng …mới chịu chạy qua khỏi trạm với mục đích đình trệ việc lưu thông vì tiền thối 100 Đồng không còn lưu dụng nữa”.
Để tìm hiểu và đánh giá các mô hình xã hội dân sự khác biệt nhau, một nhóm tác giả giới thiệu một khung lý thuyết được gọi là “institutional logics”, tạm dịch là những đặc điểm vận hành trong “dự án” bất tuân dân sự:
Theo đó, có năm phương diện để đánh giá khu vực xã hội dân sự: quan hệ với nhà tài trợ (clientelism), tư tưởng bảo hộ (paternalism), quan hệ với bộ máy hành chính (bureaucracy), tinh thần hành động (activism), và mức độ chuyên nghiệp (professionalism).
Thông qua năm mối quan hệ tương tác, và trong nhiều trường hợp là đối nghịch giữa các đặc điểm này, người ta có thể so sánh, tìm ra điểm chung và khác biệt giữa các mô hình xã hội dân sự tại các quốc gia khác nhau, vốn chịu ảnh hưởng của những yếu tố lịch sử, văn hóa và chính trị riêng biệt.
Những kết luận có được từ sách vở phần nhiều không phải là các đáp số toán học rõ ràng. Chính xác hơn, chúng không phải là những phép tính cộng trừ nhân chia đơn giản, mà giống như những phương trình phức tạp với nhiều ẩn số cần được tiếp tục giải đáp.
Điều đó cũng phản ánh bản chất của xã hội dân sự và thế giới chúng ta đang sống, nơi các kết luận đơn giản và hời hợt trong nhiều trường hợp dễ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, nhứt là trong trường hợp Việt Nam với những mối liên quan chằng chịt trong liên hệ gia đình Quốc – Cộng.
2.3 Từ chối tuân thủ các chính sách hoặc luật lệ bất công:
Những hành động cụ thể như từ chối trả thuế, từ chối tham gia vào các cuộc bầu cử không công bằng, hoặc từ chối tuân thủ các luật lệ mà người dân cảm thấy bất công có thể giúp tạo ra một làn sóng bất tuân dân sự. Các chiến dịch này sẽ cần sự đồng thuận và tham gia rộng rãi từ người dân.
• Thí dụ như, điển hình nhứt, Thủ tướng CS phải quyết định ngừng thu phí BOT ở Cai Lậy nói lên hiện tượng “bất tuân dân sự” của người dân trong nước. Ông Phạm Chí Dũng nhận định về vấn đề nầy với bài viết:”Cai Lậy và làn sóng bất tuân dân sự” như sau:
“Bất chấp chính quyền Tiền Giang và chủ đầu tư BOT Cai Lậy lập “phương án tác chiến” rất chi tiết với mũi chủ công trấn áp là hàng trăm cảnh sát cơ động và công an giao thông, bất chấp việc bị lực lượng “tay sai bảo kê” này răn đe và đàn áp, bắt bớ, cánh lái xe đã không chỉ tiếp tục yêu sách đòi BOT Cai Lậy phải hủy bỏ tình trạng “quy hoạch một nơi, thu phí nơi khác”, duy trì chiến thuật trả tiền lẻ mà còn dũng cảm đối mặt với công an, thậm chí còn tổ chức tập hợp kéo đến đồn công an đòi người khi 2 người lái xe bị công an bắt giữ”.
Ký giả Ngàn Hương cũng có phóng sự như sau:”Sau mấy ngày sôi sục khí thế tổng tấn công của nhân dân Nam Bộ, của người dân Tiền Giang, của các tài xế, và được sự cổ võ hết mình của báo chí lề đảng, nhằm đánh thẳng vào nhóm lợi ích BOT Cai Lậy (Tiền Giang), đã làm cho con quái vật này choáng váng, quằn quại và lăn lóc trong vở kịch “xả-thu xả- thu” liên tục. Nhờ các kiểu tấn công vừa trực tiếp, vừa gián tiếp liên miên và bền bỉ như vậy, đã làm cho trạm BOT này chỉ trong 4 ngày vừa qua (từ 30/11 đến 01, 02 và 03/12), đã “vỡ trận” đến 24 lần. Câu hỏi đặt ra là, ai đứng đằng sau trạm BOT Cai Lậy để ‘hà hơi tiếp sức” cho nhóm lợi ích này ‘ngóc đầu dậy,” và vùng vẫy mạnh hơn trước?”
Hai bài phóng sự tại chỗ về BOT Cai Lậy trên đây chứng minh một cách hùng hồn rằng hành động bất tuân dân sự thực sự đã được người dân Cai Lậy và ở nhiều BOT khác từ Bắc chí Nam đã hiểu và áp dụng một cách hết sức sáng tạo qua việc trả lộ phí, và cũng có nghĩa là hiện tượng trên đã đi vào lòng đại chúng.
Tại BOT Cai Lậy, lộ phí là 25.000 Đồng Việt Nam. Và họ đóng lộ phí qua trạm bằng cách trả giấy bạc 500.000 Đồng và chờ tiền thối lại; hoặc trả 2x10.000 Đồng, 4x1.000 Đồng, 1x500 Đồng và 3x200 Đồng. Tổng cộng 25.100 Đồng và người dân nhứt định chờ Trạm thu lộ phí phải thối lại 100 Đồng …mới chịu chạy qua khỏi trạm với mục đích đình trệ việc lưu thộng vì tiền thối 100 Đồng không còn lưu dụng nữa.
• Đề diệt Việt Cộng và các nhóm lợi ích, cũng cấn nên áp dụng cùng chính sách như trên, phục kích, đốt phá bằng mọi cách các cơ ngơi được xây dựng trên xương máu của dân tộc. Trong giai đoạn “gần như tuyệt vọng” của đất nước như ngày hôm nay, phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” cần áp dụng triệt để. Vì chính cá nhân và gia đình họ cũng đã và đang chuẩn bị “hạ cánh an toàn” ở ngoại quốc.
Về các tập đoàn xã hội dân sự và đại chúng - Những đề nghị dưới đây có thể triệt tiêu và xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản của CSBV trong hỗn loạn. Chúng ta hãy thử hình dung những hoạt cảnh sau đây:
Công nhân sở Rác ở Sài Gòn và Hà Nội ngưng hốt rác trong 2 ngày, thì hai thành phố hơn 10 triệu dân mỗi nơi cũng đủ để biến thái với trên 40.000 tấn rác phủ ngập thành phố.
Công nhân ở các công ty cung cấp nước uống, nhà máy điện, nhà máy khí đốt và xăng dầu v.v… đồng loạt đình công không đi làm việc trong một ngày mà thôi cũng đủ để biến loạn Xã hội.
Người dân buôn thúng bán bưng đình công không nhóm chợ. Chuyện gì sẽ xảy ra?
Nhân viên y tế, bác sĩ, nhà bảo sinh… ngưng không làm việc, thì sẽ ra sao?
Sinh viên và học sinh đồng loạt bãi khóa thì ngòi nổ sau cùng sẽ chấm dứt chế độ độc tài tập thể cộng sản Bắc Việt.
2.4 Xây dựng các mạng lưới hỗ trợ và tạo áp lực quốc tế
Các phong trào bất tuân dân sự không thể thành công nếu thiếu sự tổ chức. Các nhóm có thể tổ chức các cuộc họp, hội thảo, và tạo ra các mạng lưới thông tin để duy trì sự kết nối và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình hành động.
Một chiến lược quan trọng là thu hút sự chú ý và sự ủng hộ từ các tổ chức quốc tế, chính phủ nước ngoài và các tổ chức nhân quyền. Sự lên tiếng và áp lực từ quốc tế có thể tạo ra môi trường thuận lợi cho cuộc cách mạng bất tuân dân sự, khiến chính quyền phải đối mặt với sự chỉ trích và khó khăn về mặt ngoại giao. Việc làm trên đã được Mạng Lưới Nhân Quyền ở Hoa Kỳ đã thực hiện gần 30 năm qua với giải thưởng nhân quyền hàng năm đối với những người đấu tranh trong nước và vận động hành lang qua các buổi điều trần việc vi phạm và đàn áp nhân quyền trước quốc hội Mỹ…
2.5 Chia sẻ thông tin và tạo tiếng nói quốc tế
Thông qua các phương tiện truyền thông quốc tế và các mạng xã hội, người dân có thể làm lan tỏa thông điệp và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế về những vấn đề bất công trong nước. Các nhóm hoạt động nhân quyền quốc tế có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các vấn đề này ra ánh sáng. Có thể nói Liên Minh vì Việt Nam Dân chủ – Alliance for Vietnam’s Democracy đã thành công trong việc nầy khi làm một cuộc trưng cầu dân ý toàn cầu vào năm 2020 với trên 5 triệu người Việt trong nước tham gia việc nói lên tiếng nói dân chủ và LM cho đến nay vẫn tiếp tục vận động quốc tế và đã gây được nhiều tiếng vang toàn cầu.
2.6 Tạo dựng các phương tiện truyền thông độc lập
Phát triển các kênh truyền thông độc lập: Một yếu tố quan trọng để hỗ trợ cuộc cách mạng bất tuân dân sự là việc xây dựng các kênh truyền thông độc lập để thông báo cho công chúng về các hành động và chính sách của chế độ, và cung cấp thông tin về các phong trào đấu tranh. Việc này giúp người dân nắm bắt được các sự kiện và hiểu rõ mục tiêu của các phong trào. Và việc nầy đã được Radio Đáp Lời Sông Núi của Lực lượng Cứu quốc hải ngoại thực hiện hàng tuần, phát thanh về Việt Nam, loan báo những tin tức liên quan đến công cuộc vận đông dân chủ cho Việt Nam hơn 10 năm qua.
Xử dụng mạng xã hội: Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, X (Twitter cũ), và YouTube có thể là công cụ mạnh mẽ để tổ chức và lan tỏa các cuộc đấu tranh không bạo lực. Người dân và cá nhân có thể xử dụng chúng để chia xẻ thông tin, kêu gọi sự tham gia và thu hút sự chú ý của thế giới bên ngoài.
Tạo ra các hình thức phản kháng sáng tạo, biểu tượng và khẩu hiệu là một chiến lược quan trọng trong cuộc đấu tranh bất tuân dân sự. Những hình thức này có thể giúp xây dựng sự đồng thuận, tạo động lực cho phong trào, và thu hút sự chú ý của xã hội cũng như cộng đồng quốc tế. Dưới đây là một số cách để thực hiện các chiến lược này hiệu quả như tổ chức các cuộc biểu tình sáng tạo, ôn hòa
Xử dụng các biểu tượng và khẩu hiệu trong các cuộc biểu tình: Những cuộc biểu tình ôn hòa có thể là nơi để biểu tượng và khẩu hiệu được sử dụng rộng rãi. Những khẩu hiệu này có thể được viết lên băng rôn, bảng hiệu, áo phông, hoặc được hô vang trong các cuộc diễu hành.
Tẩy chay các sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà cầm quyền cs. Tẩy chay các sản phẩm, dịch vụ hoặc các sự kiện do họ tổ chức có thể là một hình thức phản kháng sáng tạo. Ví dụ, một chiến dịch tẩy chay các sản phẩm của các công ty có liên quan đến chế độ có thể là một cách để gây áp lực lên chính quyền mà không cần bạo lực.
Các cuộc đình công: Đình công tại các nơi làm việc, trường học, hoặc các tổ chức xã hội có thể tạo ra sự đình trệ lớn và gây áp lực lên chế độ. Những cuộc đình công này có thể diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau, từ công nhân, giáo viên, cho đến học sinh, để tạo ra sự không hài lòng và yêu cầu thay đổi. Hành động ngồi hoặc không làm gì: Các hành động như ngồi yên tại các địa điểm công cộng, không tham gia vào các hoạt động chính thức của chính phủ, có thể giúp gây sự chú ý mà không cần phải đụng chạm đến quyền lực. Việc nầy đã được thanh niên sinh viên Trung Cộng thực hiện nhiều cuộc phản kháng trang năm 2024 tại Bắc Kinh.
Tóm lại, các biểu tượng hoặc khẩu hiệu có thể trở thành một phần quan trọng trong việc tạo động lực và gây sự chú ý đến phong trào. Những hình thức phản kháng sáng tạo này có thể giúp lan tỏa thông điệp và tạo ra một tinh thần đoàn kết rộng rãi. Các hình thức này không chỉ giúp nâng cao tinh thần đoàn kết, mà còn thu hút sự chú ý của công luận trong và ngoài nước, tạo ra sự ủng hộ và làm gia tăng sức ép đối với chế độ.
Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự ở Việt Nam có thể xảy ra nếu như có đủ sự hỗ trợ từ trong xã hội và từ cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, việc thực hiện nó sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, đặc biệt là sự đàn áp mạnh mẽ từ chính quyền và những thách thức trong việc tạo ra sự đồng thuận trong xã hội. Nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, các chiến lược không bạo lực, và sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, thì đây có thể là một con đường để tiến tới sự thay đổi trong tương lai, mặc dù kết quả sẽ không thể đạt được ngay lập tức và sẽ cần một thời gian dài để xây dựng sức mạnh. Tuy nhiên, để thành công, những chiến lược này cần được triển khai một cách đồng bộ, sáng tạo và kiên trì, đồng thời tạo được sự tham gia rộng rãi từ người dân.
3. Nhận định
Qua các sự kiện kể trên và sự phân tích cuộc tranh đấu bất bạo động qua hình thức bất tuân dân sự của Gene Sharp đã nói lên một thực trạng rõ ràng của xã hội Việt Nam hiện nay:
• Người dân không còn gì để sợ hãi nữa vì đã bị đẩy vào tận chân tường rồi;
• Chủng tử sợ đó đã được chuyển tải qua những cán bộ, đảng viên tư bản đỏ và các nhóm lợi ích cùng tập đoàn “thực dân mới” Trung Cộng đang hiện diện trên 49 địa điểm chiến lược quan trọng từ Bắc chí Nam.
Vì vậy, người con Việt ngày nay không còn gì để mất nữa. Mỗi người trong chúng ta chỉ còn quyết tâm đứng lên áp dụng những chiêu thức trong cuộc cách mạng bất tuân dân sự nêu trên.
Đứng về phương diện cá nhân, mỗi người trong 100 triệu dân, chúng ta có thể làm những việc sau đây:
Để đuổi Tàu (chứ không …thoát Trung) đang ngự trị trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta phá hoại bằng cách ĐỐT những cơ sở làm ăn của chúng, từ tiệm chạp phô, tiệm hủ tiếu, hay một nhà máy sản xuất v.v…Vì bây giờ họ rất sợ. Kinh nghiệm vụ đốt phá Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương và các cuộc biểu tình ở Vũng Áng năm 2016… cho thấy các chủ nhân ông Tàu đã chạy mau về Tàu rồi. Thậm chí TC cho tàu qua rước công nhân của họ ở Vũng Áng, Hà Tĩnh về Tàu nữa;
Để triệt tiêu Việt Cộng và các nhóm lợi ích, áp dụng cùng chính sách như trên, phục kích, đốt phá bằng mọi cách các cơ ngơi được xây dựng trên xương máu của dân tộc. Trong giai đoạn “gần như tuyệt vọng” của đất nước như ngày hôm nay, phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” cần áp dụng triệt để. Vì chính cá nhân và gia đình của các bộ cao cấp cũng đã và đang chuẩn bị “hạ cánh an toàn” ở ngoại quốc.
Nhiều năm qua, trong những cuộc họp liên quan đến tình hình ở Việt Nam, chúng ta thường góp ý về việc dùng cả hai chiến lược: "chiến tranh du kích" và tranh đấu bất bạo động (TĐBBĐ). Thiết nghĩ nếu chỉ có TĐBBĐ trong bối cảnh tình hình chánh trị ở Việt Nam thì không có hiệu quả. Vì sao? TĐBBĐ của thánh Mahatma Gandhi thành công ở Ấn Độ vì đối tượng của họ là một chính phủ dân chủ, xã hội văn minh.
Còn đối với cs như TC, csBV... thì, TĐBBĐ sẽ bị họ đàn áp thẳng tay. Theo như Gene Sharp thì trong TĐBBĐ khi một nhóm người tranh đấu bị bắt, chịu đòn, rồi nhóm khác tiếp tục tiến lên cho đến khi không còn nhà tù để chứa nữa. Một ý kiến rất hay nhưng việc này cần nhiều huấn luyện, kỹ luật, và phối trí rất khó thực hiện ở Việt Nam.
Bất tuân dân sự là một hình thức TĐBBĐ, nếu được bổ túc với đánh du kích như đốt phá các hãng xưởng của Tàu, thiêu hủy các dinh thự của các chóp bu cs, cộng thêm việc đình công bãi thị, bãi khóa thì sẽ có kết quả nhiều hơn. Việc đốt phá cần ít nhân sự, ít tốn kém, mà gây tiếng vang, khuyến khích những hành động tương tự trong số người bất mãn, sẵn sàng hy sinh cho đại cuộc.
Nếu Indonesia "tống cổ" cs ra khỏi xứ họ được vì máu đã được xử dụng đúng thời đúng lúc, thì Việt Nam cũng có thể làm được, nếu được châm ngòi, khuyến khích, hỗ trợ. Chính bạo quyền cộng sản mới là phía kích động bạo lực. Đảng CSBV mới chính là cái nôi, là nguồn cơn, là thủ phạm của mọi bạo động trên đất nước này. Không ai khác, tập đoàn cộng sản là những kẻ đã dùng bạo động làm phương châm và kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong suốt thời gian tồn tại của họ cho đến ngày nay.
Ngay bây giờ là thời điểm để người Việt trong và ngoài nước ra tay, trước khi quá trễ. Một khi TC chiếm Việt Nam thì lúc đó máu Việt sẽ đổ ra nhiều hơn mà vẫn không đi tới đâu hết.
Ngần ấy sự việc và câu hỏi nêu trên có rất nhiều xác suất xảy ra trong giai đọan nầy.
Chắc chắn cường quyền sẽ đàn áp dã man.
Chắc chắn máu con Rồng cháu Tiên sẽ tuôn rơi ngập tràn.
Và chắc chắn cơ chế chuyên chính vô sản sẽ bị triệt tiêu vĩnh viễn.
Sau cùng “Lối thoát cho Việt Nam” chính là Cuộc Cách Mạng Bất Tuân Dân Sự.
Hãy làm theo lời dặn dò của vua Duy Tân:”Nước dơ phải lấy máu mà rửa”.
Vận nước đã đến rồi - Thế nước đã tới nơi!
Hiểm họa mất Nước gần kề trong gang tấc!
4. Thay lời kết
Qua các phân tích trên đây, hy vọng từ đó chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục truy tìm một sinh lộ mới cho Việt Nam.
Về phía Trung Cộng, có những mặt chính trị, quân sự, nhứt là kinh tế và xã hội đang xảy ra trong điều kiện không thuận lợi cho nước nầy, từ đó chúng ta có thể vận dụng để làm suy yếu hay triệt tiêu được sức mạnh “Hán hóa” của Trung Cộng. Đó là:
Về kinh tế: Tiếp tay vận động cuộc tầy chay đi du lịch “ngắm cảnh” TC và tẩy chay hàng hóa do TC sản xuất dưới bất cứ hình thức nào, từ thực phẩm, thuốc men, vật dụng dùng trong nhà, quần áo, sản phẩm làm đẹp cho phụ nữ…Nhóm Chống Tàu Diệt Việt Cộng đã có nhiều cố gắng trong việc chuyển tải những thông tin cho bà con ở hải ngoại và quốc nội. Xin bà con hãy cùng tiếp tay đẩy mạnh chiến dịch nầy.
Về chính trị: Hãy cùng phối hợp và hợp tác với chính phủ lưu vong Tây Tạng do một tiến sĩ trẻ, giáo sư Đại học Harvard, không liên quan gì đến nạn quốc phá gia vong ở Tây Tạng vì năm 1959, khi mất Tây Tạng, ông chưa sinh ra. Đó là Thủ tướng Lobsang Sangay, sinh năm 1968.
Về xã hội: Hiện tại có thể nói, xã hội trong nội địa nước Trung Hoa có nhiều biến chuyển không thuận lợi. Người dân Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương đang đứng lên đòi độc lập tích cực hơn qua cuộc đổ máu làm hàng trăm người chết xảy ra ở nhiều tỉnh ở TC. Nhiều tỉnh và thành phố từ Vân Nam đến Quảng Châu, các cty điện, cộng đoàn taxi, cty vận tải v.v…đồng loạt biểu tình. Và quan trọng hơn cả là phong trào sinh viên, học sinh ở Hong Kong bãi khóa đòi bầu cử công bằng và tự do năm 2015.
Trường hợp Giáo sư Ilham Tohti bị kết án chung thân cũng là một «tiếng nói độc lập duy nhất dám bày tỏ quan điểm chống lại chính sách đồng hóa cưỡng bức – về dân cư, về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo – của đảng Cộng sản Trung Hoa đối với 10 triệu cư dân Duy Ngô Nhĩ và nhiều ‘‘sắc tộc thiểu số’’ sống lâu đời tại vùng Tân Cương. Báo Libération lý giải vấn đề nầy như sau: «cách hành xử mang tính thực dân mới này là mảnh đất tốt cho các bạo lực giữa các sắc tộc ngày càng dữ dội» tại miền viễn tây TC. Để chống lại các cuộc tấn công mang tính khủng bố, Bắc Kinh đã trả đũa «bằng các cuộc đàn áp bằng quân đội, thường kết thúc bằng việc bắn vào đám đông, hay bắt bớ hàng loạt».
Về phía Việt Nam: "Tiêu diệt một dân tộc là một tiến trình, chứ không phải một sự kiện". Do đó, tiến trình trên đã được Trung Cộng lâu nay thực hiện cho dân tộc Việt Nam. Đây là một tiến trình lâu dài và đa dạng, được tăng mạnh mẽ do chế độ chính trị và chính sách đối với người dân của CSBV. Một chế độ khoá tay bịt miệng người dân, không cho đất nước có sức mạnh dân tộc:
Nó biến Việt Nam trước tiên là một bãi rác, kế đến là con đường mòn Nam tiến tiếp nối tham vọng của Đại Hán Trung Cộng.
Nó bào mòn sức sống của dân tộc và tàn phá một đất nước xinh đẹp mà Cha Ông đã bao đời gìn giữ và tô bồi”.
Chúng ta cần phải liên lạc, theo dõi diễn tiến của các phong trào đấu tranh dân chủ và nhân quyền của những người như Lưu Hiểu Ba (Nobel Hòa bình 2010), Hồ Giai, Ngải Vị Vị cùng Hiến Chương 08 qua Bản Tuyên Ngôn đầu tiên gồm 350 chữ ký của các nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng nhằm mục đích thúc đẩy cải cách chánh trị và dân chủ cho Trung Hoa. Người Tây Tạng trực diện tranh đấu cho độc lập Tây Tạng tại tỉnh Tứ Xuyên (có 5% dân số Tây Tạng), cũng như người Hồi Hột tranh đấu cho Tân Cương ở tỉnh Vân Nam (có 10% dân số trên 46 triệu người dân trong tỉnh). Cũng không quên nhắc đến phong trào Pháp Luân Công ở cùng khắp mọi nơi trong nước Tàu tranh đấu cho tự do tôn giáo và bất công xã hội.
Các phong trào trên chính là những ngòi nổ cho việc biến Trung Cộng trở thành “Đông Châu Liệt Quốc”. Và một khi TC bị xé tan thành nhiều mảnh, CS Bắc Việt, thái thú biết nói tiếng Việt của TC sẽ không còn “hậu phương” lớn làm điểm tựa, dĩ nhiên ngày tàn của chế độ sẽ không còn xa sau đó.Tất cả các phối hợp đấu tranh trên nhằm mục đích đẩy mạnh sự xáo trộn xã hội, kinh tế của TC; từ đó tiến trình mang lại tự do, dân chủ và nhân quyền của TC sẽ được rút ngắn, vì sẽ không còn một quốc gia Trung Quốc Vĩ đại nữa.
Người Việt quốc nội và hải ngoại còn có khả năng kết hợp với các NGO trong lãnh vực môi sinh như Oxfam ở Hong Kong và Hà Nội, một cơ quan phi chánh phủ quốc tế tranh đấu cho sự nghèo đói, bất công xã hội, và môi trường để cùng nói lên tiếng nói chung nhằm đánh động dư luận và lương tâm thế giới.
Hiện nay, nạn Hán hóa hay Bắc thuộc lần thứ 5 đã và đang lừng lững hiện diện trên hơn 49 tụ điểm có hơn 1.000 người Trung hoa lục địa, và đang tiếp tục tăng trưởng. Với các “phải chăng” trên đây, 60% tuổi trẻ trong nước cùng sự yểm trợ của những người con Việt hải ngoại cần có thái độ và hành động tích cực hơn nữa để xóa tan mắt xích nô lệ nầy do các Thái thú nói tiếng Việt của nhóm Bắc kỳ đỏ.
Làm con người, tuổi trẻ chúng ta ngày hôm nay cần phải tranh đấu không khoan nhượng cho dân chủ, tự do, nhân quyền cho Đất và Nước. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, giữa lành mạnh và độc hại, giữa dân chủ và độc tài, giữa tự do và cộng sản… không bao giờ dứt. Tuổi trẻ hôm nay, trong và ngoài nước, chính là những người đang làm lịch sử, mang sứ mạng xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản và độc tài của CSBV.
Không còn con đường nào khác cho TUỔi TRẺ Việt Nam!
Tuổi trẻ Việt Nam hãy thực hiện lời nói của Cố Tổng thống Thomas Jefferson là:” Every Generation needs a new REVOLUTION”.
Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận ghi nhận:”Thực dân Pháp ngày xưa đàn áp dân ta vì không phải là đồng bào, đồng chủng. Nhưng họ vẫn còn có tình đồng loại, vẫn có niềm tin tôn giáo nào đó, ý thức danh dự trong lương tâm và nỗi e ngại công luận quốc tế, nên không đến nỗi tàn độc. Nhưng đối với người CS duy vật vô thần và quốc tế vô sản, thì lương tâm, danh dự, ý thức quốc gia, tình tự dân tộc, máu chảy ruột mềm là hoàn toàn vô nghĩa. 50 năm tội ác đã chẳng đủ rồi sao?”
Niềm hy vọng qua trích đoạn trên internet qua nhận định về phim “The Vietnam War”:“ Chính phủ Hoa Kỳ mất 10 năm để tạo dựng (Việt Nam Cộng Hòa), rồi giết đi (ngày 30/4/1975). Ken Burns và Lynn Novick đã mất 10 năm với 30 triệu mỹ kim để hợp pháp hóa cái chết đó. Số phận của miền Nam Việt Nam là sinh ra để chết. Nhưng cái chết đó lại phát sinh ra một Việt Nam diaspora lưu vong có khả năng làm cho Việt Nam phục sinh”. (The US uses 10 years to design the death of South Vietnam. Ken Burns and Lynn Novick use 10 years with 30 million dollars to design the death of her legitimacy. The South Vietnam ’s fate is born to die. But her death created the Vietnam diaspora which will become the resurrection of VietNam.”)
Viễn ảnh một bình minh rực rỡ cho Việt Nam trong những ngày sắp tới chắc chắn sẽ xảy ra trong một tương lai không xa qua cuộc cách mạng Bất tuân Dân sự!
Xin tất cả chúng ta cùng động não…để cùng quyết tâm xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản của CSBV, để từ đó, công cuộc Hán hóa của TC sẽ bị triệt tiêu ngay.
Mai Thanh Truyết
Đầu năm Dương lịch 2025
Monday, December 23, 2024
Về quyển sách Thương nhân của sự Hoài nghi - Merchants of Doubt
của Naomi Oreskes
Lời người viết: Vừa qua, Elon Musk có nêu tên 6 cuốn sách và khuyên mọi người cần đọc để tìm hiểu thêm về thế giới. Người viết lưu ý đến cuốn Merchants of doubt của Naomi Oreskes, Giáo sư Harvard nghiên cứu về sự liên kết khoa học giữa trái đất và môi trường. Xin mạo muội chia xẻ cùng người đọc vài suy nghĩ cá nhân lẫn “góp nhặt cát đá” trên mạng toàn cầu.
1- Về tác giả Naomi Oreskes
Naomi Oreskes, Giáo sư Liên kết Khoa học Trái đất và Hành tinh - Affiliated Professor of Earth and Planetary Sciences tại Đại học Harvard. Các lĩnh vực nghiên cứu chính:
-Agnotology (Thuyết vô thần (?));
- Kinh tế chính trị của Kiến thức khoa học;
- Lịch sử và Triết học của Khoa học Trái đất và Môi trường,
- Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ (STS);
- Lịch sử của Thông tin sai lệch về Biến đổi khí hậu.
Các lĩnh vực quan tâm thứ cấp: Chính sách khoa học, Khoa học và Tôn giáo, Nghiên cứu về Phụ nữ và Giới tinh. Là một nhà khoa học về Trái đất, nhà sử học và diễn giả nổi tiếng thế giới, bà là tác giả của cuốn sách bán chạy nhất, Merchants of Doubt (2010) và là tiếng nói hàng đầu về vai trò của khoa học trong xã hội, thực tế về biến đổi khí hậu do con người gây ra và vai trò của thông tin sai lệch trong việc ngăn chặn hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Oreskes là tác giả hoặc đồng tác giả của 9 cuốn sách và hơn 150 bài báo, tiểu luận và bài bình luận, bao gồm Merchants of Doubt (Bloomsbury, 2010), The Collapse of Western Civilization (Nhà xuất bản Đại học Columbia, 2014), Discerning Experts (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2019), Why Trust Science? (Nhà xuất bản Đại học Princeton, 2019) và Science on a Mission: American Oceanography from the Cold War to Climate Change (Nhà xuất bản Đại học Chicago, 2021). Merchants of Doubt, đồng tác giả với Erik Conway, là chủ đề của một bộ phim tài liệu cùng tên do đơn vị tham gia Media sản xuất và được SONY Pictures Classics phân phối, và đã được dịch sang chín thứ tiếng. Một phiên bản mới của Merchants of Doubt, với lời giới thiệu của Al Gore, đã được xuất bản vào năm 2020.
Oreskes đã viết Lời giới thiệu cho ấn bản Melville House của Thông điệp của Giáo hoàng về Biến đổi khí hậu và Bất bình đẳng, Laudato Si, và các bài tiểu luận và bài bình luận của bà về biến đổi khí hậu đã xuất hiện trên các tờ báo hàng đầu trên toàn cầu, bao gồm The New York Times, The Washington Post, The Los Angeles Times, The Times (London) và Frankfurter Allgemeine. Nhiều giải thưởng và giải thưởng của bà bao gồm Giải thưởng Mary C. Rabbitt của Hiệp hội Địa chất Hoa Kỳ năm 2019, Giải thưởng Stephen Schneider năm 2016 cho Truyền thông Khoa học Khí hậu xuất sắc, Giải thưởng Dịch vụ Công cộng năm 2015 của Hiệp hội Địa chất Hoa Kỳ, Giải thưởng Herbert Feis năm 2015 của Hiệp hội Lịch sử Hoa Kỳ cho những đóng góp của bà cho lịch sử công cộng và Giải thưởng Trích dẫn của Tổng thống Liên minh Địa vật lý Hoa Kỳ năm 2014 cho Khoa học và Xã hội. Bà là thành viên của Liên đoàn Địa vật lý Hoa Kỳ, Hiệp hội Địa chất Hoa Kỳ, Hiệp hội vì sự tiến bộ của Khoa học Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ và Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ. Năm 2018, bà được vinh danh là Học giả Guggenheim và năm 2019, bà được trao tặng Huy chương Viện Hàn lâm Anh.
Cuốn sách mới của bà, cùng với Erik Conway, là The Big Myth: How American Business Taught Us to Loathe Government and Love the Free Market, do Bloomsbury Press xuất bản.
Merchants of Doubt của Naomi Oreskes và Erik M. Conway khám phá cách một nhóm nhỏ các nhà khoa học và chuyên gia, nhiều người trong số họ có liên quan đến ngành công nghiệp thuốc lá, đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự nhầm lẫn và hoài nghi của công chúng xung quanh sự đồng thuận khoa học về một số vấn đề, bao gồm hút thuốc lá, mưa axit, suy giảm tầng ôzôn và biến đổi khí hậu. Cuốn sách nêu bật cách những cá nhân này, thường được các nhóm trong ngành hỗ trợ tài chính, cố tình gieo rắc sự nghi ngờ về các sự kiện khoa học đã được xác lập để bảo vệ lợi ích của công ty.
2- Nội dung cuốn sách:
Cuốn sách "Merchants of Doubt, tạm dịch: "Thương nhân của sự hoài nghi" của tác giả Naomi Oreskes và Erik M. Conway đã vạch trần chiến dịch tuyên truyền và bóp méo thông tin khoa học của các công ty và tổ chức có lợi ích liên quan đến các vấn đề môi trường và sức khỏe công cộng. Nội dung chính của cuốn sách bao gồm:
• Chiến dịch chống lại khoa học về biến đổi khí hậu: Các tác giả chỉ ra cách các công ty như ExxonMobil và các tổ chức như Viện Hoover đã tài trợ cho các nghiên cứu và tuyên truyền nhằm tạo ra sự hoài nghi về khoa học biến đổi khí hậu.
• Chiến dịch chống lại khoa học về tác hại của thuốc lá: Các tác giả chỉ ra cách các công ty thuốc lá đã tài trợ cho các nghiên cứu và tuyên truyền nhằm tạo ra sự hoài nghi về khoa học về tác hại của thuốc lá.
• Chiến dịch chống lại khoa học về ô nhiễm không khí: Các tác giả chỉ ra cách các công ty và tổ chức đã tài trợ cho các nghiên cứu và tuyên truyền nhằm tạo ra sự hoài nghi về khoa học về ô nhiễm không khí.
• Vai trò của các "thương nhân của sự hoài nghi": Các tác giả chỉ ra cách các nhà khoa học và các chuyên gia đã được thuê để tạo ra sự hoài nghi về khoa học và tuyên truyền cho các lợi ích của các công ty và tổ chức. Cuốn sách "Merchants of Doubt" đã nhận được nhiều đánh giá tích cực và đã được coi là một trong những cuốn sách quan trọng nhất về khoa học và chính trị trong những năm gần đây.
Sau đây là những ý chính tác giả muốn trang trải:
2.1- Vai trò của các nhà khoa học trong các chiến dịch phủ nhận
Luận điểm chính của cuốn sách là một nhóm các nhà khoa học có ảnh hưởng, thường được các tập đoàn tài trợ, đã sử dụng các chứng chỉ khoa học (scientific credentials) của họ để gieo rắc sự nghi ngờ về những phát hiện khoa học đã được xác lập. Những cá nhân này có thể tác động đến dư luận và chính sách của công chúng bằng cách đưa ra những tranh cãi khoa học ở những nơi không tồn tại. Họ thực sự hành động như những "thương nhân của sự nghi ngờ" để gây nhầm lẫn cho công chúng và các nhà hoạch định chính sách.
2.2- Ảnh hưởng của ngành công nghiệp thuốc lá đến khoa học sức khỏe cộng đồng
Hai tác giả khám phá cách ngành công nghiệp thuốc lá tiên phong trong các chiến thuật này để làm suy yếu sự đồng thuận khoa học liên kết hút thuốc với ung thư và các vấn đề sức khỏe khác. Bằng cách thuê các nhà khoa học để công khai đặt câu hỏi về bằng chứng, ngành công nghiệp thuốc lá đã trì hoãn thành công việc quản lý trong nhiều thập kỷ, mặc dù có bằng chứng khoa học áp đảo về mối nguy hiểm của việc hút thuốc.
2.3- Lợi dụng lòng tin của công chúng vào khoa học
Những "thương nhân của sự nghi ngờ" đã lợi dụng lòng tin của công chúng vào khoa học, sử dụng các chứng chỉ học thuật và kiến thức về phương pháp khoa học của họ để khiến những nghi ngờ về sự đồng thuận khoa học có vẻ hợp lý. Họ sử dụng các chiến lược như chọn lọc dữ liệu, nhấn mạnh vào sự không chắc chắn và thúc đẩy ý tưởng rằng các vấn đề khoa học "vẫn còn để tranh luận", ngay cả khi phần lớn cộng đồng khoa học đã đạt được sự đồng thuận.
2.4- Mở rộng sự nghi ngờ sang các vấn đề khác
Sau thành công trong vụ thuốc lá, các nhà khoa học này đã mở rộng nỗ lực của mình sang các vấn đề khác về môi trường và sức khỏe cộng đồng, bao gồm:
• Mưa axit: Họ hạ thấp mối liên hệ giữa ô nhiễm không khí và mưa axit, đặt câu hỏi về bằng chứng khoa học và lập luận rằng vấn đề này đã bị cường điệu hóa (overstated).
• Suy giảm tầng ôzôn: Các chiến lược tương tự đã được sử dụng để gieo rắc sự nghi ngờ về tác động của CFC (chlorofluorocarbon) lên tầng ôzôn, mặc dù khoa học ngày càng đồng thuận rằng CFC đang gây ra sự suy giảm tầng ôzôn.
• Biến đổi khí hậu: Cuốn sách cũng nêu bật cách những cá nhân này, hoặc đồng minh của họ, sau đó đã tham gia vào việc gieo rắc sự nghi ngờ về sự đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu. Họ đã sử dụng các chiến thuật tương tự để đặt câu hỏi về bằng chứng về sự nóng lên toàn cầu do con người gây ra, thường coi đó là không chắc chắn hoặc phóng đại.
2.5- Động cơ chính trị và ý thức hệ
Hai tác giả lập luận rằng nhiều "thương nhân nghi ngờ" này được thúc đẩy bởi một ý thức hệ chính trị phản đối quy định của chính phủ và tìm cách bảo vệ các nguyên tắc thị trường tự do. Họ thường liên kết với các nhóm nghiên cứu bảo thủ và các nhóm chính trị phản đối sự can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh doanh. Trong nhiều trường hợp, các chiến dịch phủ nhận của họ không chỉ liên quan đến khoa học mà còn liên quan đến việc bảo vệ một chương trình nghị sự chính trị và kinh tế cụ thể.
2.6- Mối nguy hiểm của thông tin sai lệch
Oreskes và Conway nhấn mạnh rằng việc truyền bá sự nghi ngờ và thông tin sai lệch đã gây ra hậu quả thực tế. Bằng cách làm suy yếu lòng tin của công chúng vào khoa học, các chiến dịch này đã trì hoãn hành động chính sách cần thiết về các vấn đề môi trường, bao gồm quy định về thuốc lá, kiểm soát ô nhiễm và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Điều này đã gây hại cho sức khỏe cộng đồng và môi trường và làm chậm trễ các nỗ lực giải quyết các thách thức toàn cầu cấp bách.
2.7- Hậu quả lâu dài của sự nghi ngờ
Cuốn sách thảo luận về cách những nỗ lực của những thương nhân nghi ngờ này đã gây ra những tác động lâu dài như thế nào đối với chính sách công và truyền thông khoa học. Nó chỉ ra rằng các chiến thuật mà họ sử dụng vẫn tiếp tục được các nhóm công nghiệp và nhóm lợi ích sử dụng ngày nay, đặc biệt là trong cuộc tranh luận về biến đổi khí hậu, nơi các chiến lược tương tự vẫn được sử dụng để ngăn chặn các hành động có ý nghĩa.
Tóm lại, Merchants of Doubt tiết lộ cách một nhóm cá nhân nhỏ nhưng có quyền lực, được hỗ trợ bởi các lợi ích của công ty, đã có hệ thống đánh lừa công chúng về các vấn đề khoa học để bảo vệ lợi ích kinh doanh. Cuốn sách đóng vai trò:
• Như một câu chuyện cảnh báo về những nguy cơ của việc thao túng khoa học và dư luận, thúc giục độc giả chỉ trích các chiến dịch tìm cách gieo rắc sự nghi ngờ về các sự kiện khoa học vì lý do ý thức hệ hoặc tài chính.
• Đồng thời, nó cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tin tưởng vào cộng đồng khoa học và việc ra quyết định dựa trên bằng chứng vì lợi ích của xã hội.
3- Cuốn sách có thể có ý định cảnh báo thế giới không?
Đúng. Merchants of Doubt của Naomi Oreskes và Erik M. Conway có thể nhắm tới mục đích xa là cảnh báo thế giới về mối nguy cơ tiềm ẩn của một số khoa học gia muốn “bẽ lái” dư luận theo chiều hướng khoa học (?) phù hợp với những tập đoàn kỹ nghệ của phe nhóm thích hợp. Cuốn sách là một phân tích phê phán về cách một số cá nhân, nhiều người có quan hệ với các lợi ích của công ty và chính trị, đã cố tình phát tán thông tin sai lệch và gây nghi ngờ về những phát hiện khoa học đã được xác lập để bảo vệ chương trình nghị sự kinh tế hoặc ý thức hệ của họ. Mục đích chính của nó là làm nổi bật các chiến thuật được sử dụng bởi những "thương nhân nghi ngờ" này và tác động tiêu cực của họ đối với sự hiểu biết của công chúng về các vấn đề khoa học quan trọng, chẳng hạn như hút thuốc lá, mưa axit, suy giảm tầng ozon và biến đổi khí hậu.
4- Trọng tâm của cuốn sách:
Cuốn sách không đề xuất một trật tự thế giới mới hoặc một phương pháp kiểm soát các vấn đề toàn cầu. Thay vào đó, nó tập trung vào cách một số cá nhân và nhóm nhất định đã lợi dụng lòng tin của công chúng vào khoa học để trục lợi cho riêng mình hay cho phe nhóm mình, thường sử dụng các động cơ chính trị và kinh tế.
Nó cung cấp một bản tường trình lịch sử về cách những "thương nhân của sự nghi ngờ" này đã nhiều lần làm suy yếu sự đồng thuận khoa học để trì hoãn hoặc ngăn chặn các quy định của các chính phủ có thể gây hại cho lợi ích của các tập đoàn, chẳng hạn như ngành công nghiệp thuốc lá hoặc các công ty nhiên liệu hóa thạch.
Oreskes và Conway sử dụng các ví dụ lịch sử để chỉ ra cách những nỗ lực này tác động đến chính sách công và hành động toàn cầu về các vấn đề quan trọng, chẳng hạn như rủi ro sức khỏe liên quan đến hút thuốc và biến đổi khí hậu.
Merchants of Doubt không phải là về việc kiểm soát thế giới mà là về việc tiết lộ những thế lực hùng mạnh đã tác động đến dư luận và chính sách của công chúng bằng cách gieo rắc sự nghi ngờ về khoa học. Mục đích của nó là giáo dục độc giả về tầm quan trọng của tính toàn vẹn khoa học và những rủi ro khi cho phép các lợi ích về mặt ý thức hệ hoặc doanh nghiệp định hình sự hiểu biết của công chúng về những sự kiện ảnh hưởng đến sức khỏe toàn cầu và môi trường.
5- Tại sao Elon Musk giới thiệu cuốn sách này cho độc giả? Và mục đích của ông là gì?
Việc Elon Musk nhắc đến Merchants of Doubt có thể phục vụ cho mục đích chiến lược phù hợp với sở thích rộng hơn của ông về công nghệ, các vấn đề môi trường và sự hoài nghi về thông tin sai lệch. Musk nổi tiếng với quan điểm thẳng thắn về nhiều chủ đề, bao gồm biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo và vai trò của sự đồng thuận khoa học. Mặc dù không thể suy đoán động cơ chính xác của Musk khi giới thiệu cuốn sách này, nhưng có một số lý do được phác thảo thiết nghĩ hợp lý tại sao ông ta có thể giới thiệu nó cho độc giả. Đó là:
5.1- Làm nổi bật mối nguy hiểm của thông tin sai lệch và thao túng phương tiện truyền thông: Merchants of Doubt vạch trần cách các nhóm lợi ích hùng mạnh (thường có liên quan đến các tập đoàn) đã thao túng diễn ngôn khoa học để trì hoãn hành động đối với các vấn đề quan trọng như sử dụng thuốc lá, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Musk, một người ủng hộ mạnh mẽ cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu thông qua các công nghệ như xe điện (thông qua Tesla) và năng lượng mặt trời (thông qua SolarCity), có thể đang thu hút sự chú ý đến các chiến thuật được sử dụng bởi các nhóm trước đây đã hạ thấp hoặc phủ nhận khoa học về biến đổi khí hậu, cũng như những nhóm truyền thông khuynh tả truyền đạt những tin tức sai sự thật trong những ý định chính trị của phe nhóm.
Bằng cách giới thiệu cuốn sách, Musk có thể muốn nhấn mạnh đến những nguy cơ của thông tin sai lệch và cách các ngành công nghiệp, đặc biệt là các công ty nhiên liệu hóa thạch, đã sử dụng các chiến thuật tương tự để tạo ra sự nghi ngờ về biến đổi khí hậu, giống như các công ty thuốc lá đã làm liên quan đến rủi ro sức khỏe do hút thuốc.
5.2- Ủng hộ việc ra quyết định dựa trên bằng chứng
Musk là người ủng hộ mạnh mẽ việc ra quyết định dựa trên bằng chứng trong cả kinh doanh và chính sách. Bằng cách tham khảo Merchants of Doubt, ông có thể củng cố niềm tin của mình rằng sự đồng thuận khoa học nên hướng dẫn các quyết định chính sách, đặc biệt là về các vấn đề quan trọng như tính bền vững của môi trường và đổi mới công nghệ. Việc khám phá cách các ngành công nghiệp có thể thao túng nhận thức của công chúng có thể đồng điệu với sự nhấn mạnh của Musk về sự đổi mới giải quyết các vấn đề trong thế giới thực, đặc biệt là về năng lượng và khí hậu.
5.3- Khuyến khích tư duy phản biện và hoài nghi
Musk nổi tiếng với việc ủng hộ tư duy phản biện và thách thức hiện trạng, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp như hàng không vũ trụ, ô tô và năng lượng. Bằng cách tham khảo một cuốn sách tiết lộ cách một số nhà khoa học và nhóm ngành cố tình tạo ra sự nhầm lẫn xung quanh các sự kiện khoa học, Musk có thể đang khuyến khích những người theo dõi và độc giả của mình suy nghĩ phản biện về thông tin mà họ tiếp nhận. Điều này phù hợp với cách tiếp cận của Musk trong việc đặt câu hỏi về các chuẩn mực đã được thiết lập và thúc đẩy các cách tiếp cận minh bạch hơn, dựa trên thực tế để giải quyết vấn đề.
5.4- Liên kết lợi ích của doanh nghiệp với các vấn đề môi trường
Musk đã chỉ trích mạnh mẽ các ngành công nghiệp mà theo quan điểm của ông, ưu tiên lợi nhuận hơn tính bền vững lâu dài. Bằng cách đề cập đến Merchants of Doubt, Musk có thể đang vẽ ra sự tương đồng giữa các chiến thuật lịch sử mà các tập đoàn sử dụng để bảo vệ lợi ích tài chính của họ (như các công ty thuốc lá hoặc ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch) và nhu cầu thay đổi các chính sách toàn cầu hướng tới năng lượng sạch hơn và tính bền vững. Ông có thể muốn độc giả nhận ra các lợi ích của doanh nghiệp có thể làm suy yếu các nỗ lực giải quyết các vấn đề cấp bách như biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường.
5.5- Định vị bản thân là Nhà vô địch của Tiến bộ và Đổi mới
Việc Musk tham khảo cuốn sách này cũng có thể là một cách định vị bản thân là người ủng hộ tiến bộ, đổi mới và tính toàn vẹn khoa học. Bằng cách thu hút sự chú ý đến những cách mà thông tin sai lệch và sự nghi ngờ đã được sử dụng để cản trở tiến bộ, ông có thể củng cố ý tưởng rằng các công ty của mình (như Tesla, SpaceX và Neuralink) đang tiến về phía trước với mục tiêu giải quyết những thách thức lớn nhất của nhân loại. Trong bối cảnh này, việc giới thiệu Merchants of Doubt đóng vai trò như một lời kêu gọi hành động để mọi người nhận ra tầm quan trọng của sự đổi mới và lòng tin vào khoa học.
5.6- Giải quyết cuộc tranh luận về biến đổi khí hậu
Với cam kết của Musk trong việc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, việc tham chiếu đến Merchants of Doubt có thể là một nỗ lực nhằm làm nổi bật những cách thức mà sự phủ nhận biến đổi khí hậu đã được những người có ảnh hưởng với các lợi ích cố hữu truyền bá. Nội dung của cuốn sách về sự phủ nhận biến đổi khí hậu phù hợp với những nỗ lực của Musk nhằm chống lại tình trạng nóng lên toàn cầu thông qua việc phát triển các công nghệ bền vững. Bằng cách giới thiệu cuốn sách này, Musk có thể đang cố gắng vạch trần cách thức một số lợi ích nhất định hoạt động để che giấu sự thật về biến đổi khí hậu và tầm quan trọng của việc chuyển đổi sang năng lượng sạch.
6- Kết luận
Từ một cậu bé con trong thời gian học tiểu học, cuộc đời của cậu Musk bắt đầu quan tâm đến máy tính và tự học cách lập trình. Khi 12 tuổi, Musk đã phát triển trò chơi của riêng mình có tên là Blastar và bán được với giá 500 đô la. Anh thường đắm chìm trong mơ mộng về những phát minh đến nỗi cha mẹ và bác sĩ đã yêu cầu kiểm tra thính giác của anh.
Cậu bé thấp bé, hướng nội và ham đọc sách này đã bị bắt nạt cho đến năm 15 tuổi. Vào thời điểm đó, anh đã trải qua một đợt tăng trưởng đột biến và học cách tự vệ bằng karate và đấu vật. Anh vẫn tiếp tục luyện võ khi trưởng thành. Vào năm 17 tuổi, năm 1988, Elon chuyển đến Canada bất chấp mong muốn của cha mẹ để theo học đại học và tránh nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong quân đội Nam Phi. Anh đã có quốc tịch Canada vào năm đó, một phần vì anh cảm thấy sẽ dễ dàng hơn để có được quốc tịch Hoa Kỳ thông qua con đường đó. Elon chuyển đến Hoa Kỳ vài năm sau đó và chính thức trở thành công dân Hoa Kỳ vào năm 2002.
Ngoài công việc và cuộc sống gia đình, Musk còn là một người chơi trò chơi điện tử cuồng nhiệt. Nhà viết tiểu sử Walter Isaacson, người đã công bố một tài khoản được ủy quyền về cuộc đời của Musk vào năm 2023, thậm chí còn phân loại sở thích này là một "cơn nghiện". Ông là một người hâm mộ lớn của Elden Ring, mà trước đây ông gọi là "tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất mà tôi từng thấy".
Quyển sách “Tiểu sử của Isaacson về Musk” từng là cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, hiện đang trong quá trình trở thành phim tiểu sử. Đạo diễn Darren Aronofsky đã tham gia vào bộ phim. "Thật vui vì Darren đang làm điều đó", Musk chia sẻ trên mạng xã hội sau khi tin tức về dự án này nổ ra vào cuối năm 2023. "Anh ấy là một trong những người giỏi nhất".
Thế mà, việc Musk giới thiệu Merchants of Doubt có thể phản ảnh mong muốn của ông trong việc thúc đẩy tầm quan trọng của tính chính trực khoa học, mối nguy hiểm của thông tin sai lệch và nhu cầu ra quyết định dựa trên bằng chứng trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu. Ông cũng có thể đang cố gắng làm nổi bật các chiến thuật mà các tập đoàn sử dụng để thao túng dư luận và trì hoãn hành động cần thiết đối với các vấn đề quan trọng. Cuối cùng, mục đích của ông có thể là khuyến khích người đọc suy nghĩ phản biện, nhận ra tác động của thông tin sai lệch và ủng hộ các chính sách dựa trên bằng chứng khoa học đáng tin cậy.
Alon musk, Ông là ai mà có những viễn kiến như vậy?
Và quyển sách Merchants of Doubt phải chăng sẽ là tiếng chuông cảnh tỉnh những bước chân lạc loài của “các nhà khoa học có định hướng”?
Mai Thanh Truyết
Houston, Ngày Chúa Chào Đời - 12-24-2024
Wednesday, December 18, 2024
Hygge - Sự Bình đẳng và Hạnh phúc của mọi Người
Equality and the Well-being of Everybody
Khái niệm "hygge" của Đan Mạch là một phần sâu sắc trong văn hóa của họ, tượng trưng cho nghệ thuật sống hạnh phúc và sự cân bằng trong cuộc sống. Hygge phản ảnh niềm thoải mái của Đan Mạch mà chúng ta cần hơn bao giờ hết. Đây là một thuật ngữ của người Bắc Âu - Scandinavia bao gồm cảm giác ấm cúng, hài lòng và khỏe mạnh tìm thấy thông qua việc trân trọng những điều nhỏ nhặt.
Hygge không chỉ là về việc tạo ra một không gian ấm cúng, mà còn là trạng thái tâm lý khi con người cảm nhận được niềm vui từ những điều đơn giản chung quanh. Nó phản ánh các giá trị của Đan Mạch về bình đẳng, hạnh phúc và tinh thần đồng thuận. Hygge là một cách sống thể hiện cảm giác ấm cúng, giản dị và hiện diện.
Ví dụ, hygge có thể là:
• Ngồi bên lò sưởi, cuộn tròn trong chiếc chăn ấm với một cuốn sách hay và một tách trà.
• Cùng bạn bè hay gia đình thưởng thức một bữa ăn ngon, với ánh nến lung linh tạo cảm giác gần gũi.
• Đi dạo dưới ánh sáng dịu dàng của buổi chiều tà, cảm nhận sự yên bình của thiên nhiên.
• Áp dụng lối sống đơn giản.
• Dọn dẹp đồ đạc lộn xộn và tạo không gian yên bình.
• Tập trung chỉ giữ lại những thứ quan trọng với bạn.
• Nhận thấy và tận hưởng với con người, môi trường và trải nghiệm tích cực mà bạn đã có chung quanh mình.
Hygge nhấn mạnh vào việc trân trọng khoảnh khắc hiện tại, tìm kiếm hạnh phúc trong những chi tiết nhỏ bé và giảm thiểu căng thẳng. Không phải ngẫu nhiên mà Đan Mạch luôn nằm trong đỉnh những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới; Cách sống hygge chính là một trong những yếu tố góp phần lớn vào điều đó.
Các nhà nghiên cứu Smoyer và Miking định nghĩa hygge là một "thực hành phục hồi" "restorative practice" và nhấn mạnh cam kết mạnh mẽ của người Đan Mạch đối với nó.
Hygge là tạo ra bầu không khí và trải nghiệm để bạn cảm thấy thoải mái. Không phải là tiêu tiền hay lập kế hoạch lớn, mà là nhận ra và tận hưởng những con người, môi trường và trải nghiệm tích cực và tiếp tục nuôi dưỡng mà bạn đã có xung quanh mình.
Không lâu trước đây, khái niệm hygge của Đan Mạch đã trở thành một từ ngữ cố định phổ biến trong tự điển toàn cầu. Chỉ tính riêng từ năm 2016 đến 2017, đã có hơn 30 cuốn sách được xuất bản về chủ đề lối sống "ấm cúng" của Đan Mạch, và các ấn phẩm lớn như New York Times và Guardian đã phát hành các bài viết chuyên sâu về chủ đề này trong khi hầu như mọi công ty sản xuất đèn cầy, chăn mền và đồ mặc trong nhà đều xử dụng thuật ngữ này để tiếp thị sản phẩm của họ. Từ tiếng Đan Mạch thậm chí còn lọt vào danh sách rút gọn năm 2016 cho Từ ngữ của năm của Oxford, danh sách này hàng năm nêu bật những cách diễn đạt được dùng rộng rãi nhất "có tiềm năng lâu dài cho ý nghĩa văn hóa".
Bạn có thấy triết lý này gần gũi hoặc có thể áp dụng trong cuộc sống của mình không?
1. Khái niệm hygge khó nắm bắt
Khái niệm hygge của Đan Mạch đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều bài viết và sách trong vài năm qua, được thúc đẩy bởi sự phổ biến của loạt phim truyền hình Đan Mạch và tiểu thuyết tội phạm đen trắng Bắc Âu, cùng với nhu cầu về ẩm thực Bắc Âu mới. Chưa kể Đan Mạch liên tục được xếp hạng là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Hygge có xứng đáng được ghi nhận một phần công lao cho hạnh phúc đó không?
Khái niệm hygge có thể bắt nguồn từ đầu những năm 1800 ở Đan Mạch, Dane Meik Wiking, người sáng lập Viện nghiên cứu hạnh phúc Copenhagen, giải thích trong cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times The Little Book of Hygge: Danish Secrets to Happy Living (William Morrow, 2017). Trong khi thuật ngữ hygge thực sự bắt nguồn từ một từ tiếng Na Uy, hugga, có nghĩa là "an ủi", và cũng liên quan đến từ tiếng Anh "hug".
Việc khái niệm hygge của Bắc Âu đạt đến mức độ hấp dẫn quốc tế trong thời kỳ Brexit ở Vương quốc Anh và cuộc bầu cử tổng thống của Trump tại Hoa Kỳ là điều phù hợp. Khái niệm này, bắt nguồn từ sự thoải mái, gắn kết và hạnh phúc, vốn có bản chất xoa dịu. Trong thời kỳ biến động, khi cả nhận thức của công chúng và cá nhân về sự an toàn và cộng đồng đều bị đe dọa, người ta thường khao khát một số giác quan mà hygge gợi lên. Bây giờ, trong một giai đoạn bất ổn toàn cầu khác, việc xem lại thuật ngữ này là điều phù hợp. Sau đây là mọi thứ bạn cần biết về khái niệm hygge của Đan Mạch, bao gồm cách bạn có thể nắm bắt các khía cạnh của lối sống này trong thời điểm này, khi nhiều người trong chúng ta có thể cần đến nó.
Rất khó phát âm, hygge ("hooga") cũng khó giải thích. Tóm lại, hygge là dành thời gian thoát khỏi sự vội vã hàng ngày để ở bên những người bạn quan tâm - hoặc thậm chí là một mình - để thư giãn và tận hưởng những thú vui yên tĩnh hơn của cuộc sống.
Đối với đầu bếp người Na Uy Signe Johansen, tác giả của How to Hygge: The Nordic Secrets to a Happy Life (St. Martin’s Griffin, 2017), khái niệm hygge thường có thể liên quan đến các loại thực phẩm và đồ uống cụ thể, chẳng hạn như Rugbrødskage là bánh làm từ bánh mì lúa mạch đen (rugbrød) xay nhỏ, trộn với các nguyên liệu như sô-cô-la, trứng và đường, mang đến một hương vị đậm đà, hơi lạ miệng. hoặc Gløgg, một loại rượu vang nóng của Scandinavia với vỏ bạch đậu khấu và hoa hồi. Trong Hygge: The Danish Art of Happiness (Michael Joseph, 2017), tác giả người Đan Mạch Marie Tourell Søderberg chỉ ra các vật dụng gia đình thường được coi là hyggelig, trong số đó có nến, lò sưởi, chăn đan tay và dép len nỉ.
Không gian và thời gian Hygge thường là khoảng thời gian không chính thức cùng với gia đình hoặc bạn bè thân thiết. Thông thường, bối cảnh là ở nhà hoặc một địa điểm yên tĩnh khác, hoặc có thể là một buổi dã ngoại trong những tháng mùa hè. Nó thường bao gồm việc chia sẻ một bữa ăn và rượu vang hoặc bia, hoặc sô cô la nóng và một bát kẹo nếu có trẻ em. Không có chương trình nghị sự. Bạn ăn mừng những niềm vui nhỏ bé của cuộc sống, hoặc có thể thảo luận về những chủ đề sâu sắc hơn. Đây là cơ hội để thư giãn và làm mọi thứ chậm lại.
1.1. Hygge trong sản phẩm và văn hóa đại chúng
Các nhà thiết kế và nhà kinh doanh nhanh chóng tận dụng hiện tượng hygge. Có những cuốn sách về hygge - chánh yếu được người nước ngoài đọc - và đồ gia dụng hygge, đặc biệt là chăn ấm và nến thơm. Ngoài ra còn có quần áo hygge, chẳng hạn như chiếc áo len mềm mại tự nhiên mà nữ diễn viên Sofie Gråbøl mặc trong loạt phim truyền hình Đan Mạch The Killing. Sự ấm áp và mềm mại của chiếc áo len được chọn để tạo sự tương phản với sự bạo lực đen tối trong cốt truyện của bộ phim.
1.2. Du lịch và hygge
Khách du lịch đến thăm Đan Mạch ngày càng muốn nếm thử hương vị hygge.
Mặc dù hygge khó đạt được khi bạn không được bao quanh bởi những người bạn cũ và môi trường quen thuộc, nhưng một bữa tối thịnh soạn trong một nhà hàng lịch sử được bao quanh bởi những ngọn nến (như Duus Wine Cellar ở Aalborg, tọa lạc trong một tòa nhà từ năm 1624) là một cách tốt nhứt để bắt đầu.
Cũng giống như một ngày nắng đẹp tại công viên giải trí Tivoli Gardens tuyệt đẹp ở Copenhagen, hoặc đi dạo cùng một người bạn dọc theo những bãi biển đầy gió ở bờ biển phía tây của Jutland.
Hygge được coi là cuộc gặp gỡ của những người bình đẳng, ngay cả khi thực tế có sự mất cân bằng về quyền lực.
2. Văn hóa và Người Đan Mạch như thế nào?
Đan Mạch là một xã hội bình đẳng, nghĩa là coi trọng sự bình đẳng, an toàn và tự do. ...
• Bình đẳng giới tính là một giá trị cốt lõi.
• Thực hành Hygge trong cuộc sống hàng ngày của Đan Mạch.
• Cần giao tiếp với người Đan Mạch và tìm hiểu về văn hóa Hygge của họ.
• Sự hài hước và trung thực của Đan Mạch cũng là một phần của văn hóa Đan Mạch.
Đan Mạch nổi tiếng với sự hạnh phúc, những hòn đảo tuyệt đẹp, gạch Lego, bánh ngọt Đan Mạch, văn hóa xe đạp và các công viên giải trí lâu đời nhất. Đơn vị tiền tệ chính thức của Đan Mạch là Krone Đan Mạch hoặc DKK. Đồng Euro cũng được chấp nhận ở các thành phố lớn.
Người Đan Mạch thường lịch sự và tử tế, mặc dù họ hiếm khi bắt chuyện với người lạ. Tuy nhiên, khi bạn tiếp cận một người Đan Mạch với một câu hỏi cụ thể (chẳng hạn như hỏi đường), họ thường sẽ phản hồi tích cực và giúp bạn giải đáp mọi thắc mắc.
Ở Đan Mạch, đặc điểm là tin tưởng lẫn nhau khi nói đến kinh doanh, chính phủ hoặc các mối quan hệ cá nhân. Sự trung thực được mong đợi và tham nhũng trong kinh doanh hoặc giữa các công chức là rất hiếm.
Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất ở Đan Mạch. Tính đến năm 2024, 71,2% dân số Đan Mạch là thành viên đã đăng ký của Giáo hội Đan Mạch (Den Danske Folkekirke), nhà thờ được thành lập chính thức, có phân loại là Tin lành và định hướng là Luther.
3. Vài gợi ý trong cuộc sống
Hygge là một khái niệm tuyệt đẹp và sâu sắc trong văn hóa Đan Mạch, mang ý nghĩa về sự thoải mái, ấm áp và tận hưởng những khoảnh khắc giản dị trong cuộc sống. Đây không chỉ là một từ ngữ, mà còn là một triết lý sống giúp con người tìm thấy hạnh phúc từ những điều nhỏ bé và gần gũi.
Hygge có thể là việc ngồi bên ánh nến với một cuốn sách yêu thích, nhâm nhi một tách cà phê trong ngày mưa, hay quây quần cùng gia đình và bạn bè trong không gian thân mật. Những khoảnh khắc ấy giúp ta cảm nhận được sự kết nối và sự bình yên trong tâm hồn. Điểm đặc biệt của Hygge là nó không đòi hỏi sự xa hoa hay cầu kỳ, mà chỉ cần chú trọng vào việc tạo nên cảm giác thoải mái và hạnh phúc từ những điều đơn giản.
Với người Đan Mạch, Hygge cũng là cách để họ đối mặt với những tháng mùa đông lạnh giá và tối tăm. Thay vì chống lại thiên nhiên khắc nghiệt, họ chọn cách sống hòa hợp với nó, tạo nên sự ấm áp từ bên trong, cả về vật chất lẫn tinh thần. Điều này có thể giải thích tại sao Đan Mạch thường nằm trong danh sách các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.
Học hỏi từ Hygge, chúng ta có thể nhìn nhận cuộc sống theo cách chậm lại, yêu thương hơn và biết trân trọng từng khoảnh khắc hiện tại.
• Trong nhịp sống hiện đại bận rộn, đôi khi chúng ta quên mất giá trị của sự tĩnh lặng và những điều nhỏ bé.
• Hygge nhắc nhở rằng hạnh phúc không nằm ở những gì lớn lao, mà nằm trong sự hài lòng với cuộc sống hàng ngày, với những điều thân thuộc quanh ta.
Bạn cảm thấy triết lý Hygge có phù hợp với cách sống của bạn không?
Cón sách sống Hygge như thế nào trong hiện tại?
Cách sống Hygge thực sự có thể đem lại hạnh phúc cho con người, và điều này đã được chứng minh qua thực tế cuộc sống tại Đan Mạch – một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Điều cốt lõi của Hygge không chỉ nằm ở việc tận hưởng những khoảnh khắc thoải mái, mà còn ở việc nuôi dưỡng cảm giác bình yên, sự kết nối và trân trọng hiện tại.
Dưới đây là những lý do tại sao Hygge có thể mang lại hạnh phúc:
Trân trọng những điều giản dị: Hygge giúp con người tập trung vào những niềm vui nhỏ bé trong cuộc sống, từ một tách trà nóng, ánh nến dịu dàng, đến khoảnh khắc bên người thân. Khi chúng ta học cách yêu những điều đơn giản, hạnh phúc trở nên dễ dàng đạt được hơn, thay vì phụ thuộc vào vật chất xa hoa hay những mục tiêu lớn lao.
Tạo ra cảm giác ấm áp và an toàn: Hygge khuyến khích tạo dựng không gian ấm cúng và thoải mái, nơi con người cảm thấy được bảo bọc và thư giãn. Trong một thế giới đầy căng thẳng và áp lực, cảm giác này giúp giảm bớt lo âu và mang lại trạng thái tinh thần cân bằng.
Xây dựng kết nối xã hội: Một khía cạnh quan trọng của Hygge là dành thời gian với gia đình và bạn bè. Những buổi tối trò chuyện, ăn uống hay chơi trò chơi cùng nhau trong không gian thân mật giúp tăng cường sự gắn kết và hỗ trợ tinh thần, từ đó mang lại hạnh phúc bền vững.
Khuyến khích sống chậm và tận hưởng hiện tại: Trong thời đại mà con người thường bị cuốn vào nhịp sống nhanh và mục tiêu tương lai, Hygge là lời nhắc nhở quan trọng về giá trị của việc sống chậm lại, tận hưởng hiện tại và không để cuộc sống trôi qua vô nghĩa. Sự chánh niệm này giúp ta cảm nhận rõ hơn niềm vui và ý nghĩa của từng khoảnh khắc.
Giảm áp lực về thành công hay cạnh tranh: Hygge không dựa trên sự so sánh hay thành tựu cá nhân. Thay vào đó, nó tập trung vào cảm giác hài lòng với cuộc sống mình đang có. Điều này giúp giảm căng thẳng và áp lực, tạo ra hạnh phúc từ sự bình yên trong tâm hồn.
Thích nghi với khó khăn và biến chúng thành cơ hội: Người Đan Mạch dùng Hygge như một cách để vượt qua mùa đông dài, lạnh lẽo và thiếu ánh sáng, vốn dễ gây ra cảm giác cô đơn và trầm cảm. Thay vì chống đối, họ biến thời gian này thành cơ hội để chăm sóc bản thân, tìm sự ấm áp trong gia đình và cộng đồng.
Và sau cùng có phải Hygge sẽ phù hợp với mọi người?
Mặc dù Hygge có thể mang lại hạnh phúc cho nhiều người, nhưng cách tiếp cận này cũng cần phù hợp với bối cảnh văn hóa và lối sống cá nhân. Đối với những người quen với lối sống nhanh hoặc thích sự náo nhiệt, việc sống chậm và chú trọng vào sự bình yên có thể cần thời gian để thích nghi. Tuy nhiên, bất kỳ ai cũng có thể áp dụng những yếu tố nhỏ của Hygge, chẳng hạn như tạo không gian thoải mái trong nhà hoặc tận hưởng một buổi tối tĩnh lặng để cảm nhận hạnh phúc.
Bạn có muốn thử một chút "Hygge" trong cuộc sống hàng ngày không?
Chẳng hạn như dành thời gian thư giãn vào buổi tối hay tạo không gian ấm áp trong ngôi nhà của mình?
Mai Thanh Truyết
Houston- Đông chí 21/12/2024
Friday, December 13, 2024
Đám giỗ thứ hai củ BẠN pHAM gIA cỔ 30/11/2024
Thể dục Khí công Hoàng Hạc
Vài Suy Nghĩ Về Thể dục Khí Công Hoàng Hạc
Nói về Hoàng Hạc Khí Công mà không nói về Bs Phạm Gia Cổn, quả thật là một điều thiếu sót. Người viết có hân hạnh cùng học cùng trường Petrus Trương Vĩnh Ký với bạn Cổn từ những năm 50 của thế kỷ trước. Một nửa thế kỷ có thể đã là dài cho một đời người, nhưng chưa hẳn là dài cho một tình bạn, vừa là bạn học chung trường mà cũng vừa là một người bạn "chiến đấu" khi ra hải ngoại.
Hôm qua chủ nhựt 17-4-2011 là ngày lễ Lá của đạo công giáo (Palm Sunday), bạn Cổn và tôi gặp nhau ở một cà phê restaurant quen thuộc chúng tôi thường hẹn nhau sau khi đi làm việc về hàng mười mấy năm nay.
Chúng tôi bàn về cách trình bày powerpoint cho chuyến đi nói chuyện ở Houston sắp tới đây. Trong câu chuyện chúng tôi tình cờ nói đến Hoàng Hạc và những suy nghĩ ngộ nghĩnh chia xẻ cùng nhau sẽ được lần lượt trình bày trong bài viết nầy.
Sau khi chia tay, trên đường về, tôi suy nghĩ miên man, nghĩ về một quảng thời gian dài dưới mái trường xưa và những ngày cùng nhau ….nhìn về Việt Nam ở hải ngoại.
Trở về quá khứ, không hiểu vì lý do gì mà ông bạn của tôi, một Bắc kỳ "rặt" Thái Bình mà lại đi vào học một trường Nam kỳ cũng "rặt" là Petrus Ký thay vì học bên Chu Văn An. Vào những năm đầu tiên sau cuộc di cư năm 1954, giữa Bắc kỳ và Nam kỳ vẫn còn là một hàng rào ngăn cách không nhỏ, nhưng đối với cái tuổi học sinh của chúng tôi lúc ấy, sự hiện diện của bạn Cổn trong lớp học là một niềm vui, một sự nghịch ngợm thú vị chứ không là một kỳ thị!
Chúng tôi, thường chọc phá bạn Cổn là Bắc kỳ "dzốn", chọc phá, gọi tên như vậy cũng như tất cả các tên của mỗi bạn cùng lớp đặt cho nhau, như Lộc tục, Chó Quang, Mai khỉ già, Trí đinh, Trí già, Trí hút, Tuấn Phan Nghệ (vì bạn nầy ở Nghệ An)…Các bạn kể trên sau nầy người làm bác sĩ, người sĩ quan quân đội VNCH, người làm thầy giáo…Còn tên tôi, được các bạn gán cho tên rất yểu điệu là "Truyết con gái", vì tôi nhỏ nhít (so với các bạn), và quá trắng trẻo, nhứt là khi đến giờ tập thể thao khoe bộ ngực cách trí ra…
Bẳng đi một thời gian bạn Cổn vào Y khoa, rồi Nhảy dù, rồi di tản năm 1975. Qua bao thăng trầm của vận nước, tôi cũng không khác gì bạn, đi Pháp, về Việt Nam, sau cùng cũng vượt biên qua Hoa Kỳ..
Chúng tôi gặp lại nhau vào khoảng năm 1995 nhân một buổi hợp mặt cựu học sinh Petrus Kỳ tại Orange sau khi tôi đổi về làm việc ở vùng nầy. Như vậy là anh em tụi tôi tay bắt mặt mừng và tiếp tục sau đó con đường song hành chung với nhau.
Bạn làm ở Los Angeles, còn tôi West Covina. Hầu như ít nhứt là mỗi tuần một lần chúng tôi ngồi chia xẻ những buồn vui trong cuộc sống ở quán cà phê kể trên với thức ăn nhẹ của buổi xế trưa. Trong nhiều buổi tiệc đám cưới của con bè bạn chung, rất nhiều lần bạn và tôi cùng chụp chung với cô dâu và chú rể, vì "quý phu nhân" của chúng tôi ít khi đi cùng.
Bạn có ban nhạc Star Band đi hát từ thiện cho các hội đoàn cựu học sinh và đồng hương trong vùng; còn tôi sinh hoạt trong khía cạnh khoa học môi trường. Trong hơn 15 năm gặp lại, có lẽ bạn Cổn và tôi trao đổi nhau rất nhiều về nhân sinh quan của con người, về cuộc sống gia đình và nhứt những suy nghĩ về vấn đề Việt Nam. Đóng góp như thế nào? Hành xử như thế nào trong một cộng đồng quá phức tạp, nhập nhằng giữa hai lằn ranh quốc cộng?
Ngoài ra, bạn Cổn của tôi còn là một võ sư và bạn dùng võ đường của mình để, ngoài việc luyện tập võ nghệ, bạn còn tổ chức lớp tập luyện Khí công Hoàng hạc…cho những người có tuổi. Trong lúc đó, tôi dong ruổi trên con đường tranh đấu cho một môi trường tốt đẹp cho Việt Nam…
Chúng tôi cùng vác thánh giá và cùng rao giảng những ý thức, khái niệm cho cuộc sống lành mạnh của một con người trong một thế giới văn minh. Một thế giới mở với một tinh thần minh mẫn trong một thể xác tráng kiện và với một tâm lành hướng về tha nhân. Tôi rất tâm đắc với bạn về lớp Thể dục Khí công Hoàng Hạc nầy.
Trở lại lớp Khí công Hoàng Hạc, mặc dù tôi chỉ tham dự vài buổi học ban đầu, nhưng tôi cũng tự trải nghiệm được một số bài học trong việc luyện tập Hoàng Hạc khí công nầy. Bài học đầu tiên phải nói đến là bài học thư giãn (tôi tạm dịch từ chữ relaxation) và bài học kế tiếp là tĩnh tâm (tôi dịch từ chữ peacefulness chứ không dùng danh từ meditation (thiền định) trong trường hợp nầy).
Sở dĩ tôi hấp thụ được hai điều căn bản trên đây vì theo kinh nghiệm của tôi, mấy động tác tay chân nhè nhẹ, lâu lâu bấm ngón chân và rướn mình lên cao cùng một lúc với việc nhón gót chân theo tiếng nhạc cổ điển êm dịu…làm cho tôi buông xả trong giây phút. Trong suốt thời gian tập luyện, dường như tôi không còn để ý đến hơi thở, để hai buồng phổi tự nhiên điều chỉnh nhu cầu hít vào và thở ra của cơ thể. Tôi không cần cố gắng để "vươn cao" tay chân, hay ráng làm một động tác nào có khả năng làm co giãn các bắp thịt.
Phải chăng đó là một trạng thái thư giãn hoàn toàn, một trạng thái "vô ngã" và "vô trụ" trong buổi tập. Và phải chăng thân-tâm-ý đã hòa nhập thành một trong chủ thể của tôi, để rồi điều hướng một cách tự nhiên con người của tôi vào một trạng thái mà tôi tạm gọi là tĩnh tâm.
Bước qua lãnh vực khác như thiền định chẳng hạn, suy nghĩ chủ quan của tôi cho thấy rằng động tác bất động trong giai đoạn ngồi thiền có nguy cơ tác hại đến sức khỏe nhiều hơn là hướng tìm đến một sự an nhiên tự tại và một sự buông xả cho thân-tâm-ý.
Vì sao? Đứng về phương diện y học, một khi cơ thể bất động trong một thời gian dài, một giờ, hai giờ hay hơn nữa, hệ thống tuần hoàn sẽ di chuyển chậm lại và lượng hồng huyết cầu mang oxy lên óc sẽ giảm thiểu…từ đó có thể đưa ta đến trạng thái bán hôn mê (semicomma). Tình trạng trên có thể làm cho trí não của chúng ta soi rọi lại được những hình ảnh đến từ vô thức (inconscience) hay tiềm thức (subconscience) từ trong quá khứ. Và như thế chúng ta tưởng là "thấy", là đã lên được "nhiều từng tu tập" đồng biến theo thời gian hành thiền…Nhưng rốt cuộc, trong nhiều trường hợp, họ có biết đâu là đã bị "tầu hỏa nhập ma". Thêm nữa, ngồi bất động lâu có thể bị embolism tức hiện tượng những hạt máu đông (blood clot) chạy lên phổi làm tắt nghẽn các mạch máu. Chúng ta đã kinh nghiệm qua các vụ chết người trên các chuyến máy bay đường dài rồi.
Trong Phật giáo, có bài Chú Đại bi và Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh là hai bài kinh nhựt tụng trong các buổi lễ. Nguyên gốc là bài viết bằng tiếng Phạn. Hiện nay, có nhiều chùa dịch ra thành tiếng Việt nhằm mục đích cho Phật tử dễ tụng và cũng dễ thuộc bài Kinh và Chú. Cá nhân tôi thấy việc làm nầy nảy sinh ra nhiều rủi ro trong việc tu tập vì nhiều lý do sau:
• Thứ nhứt, Phật tử một khi đã thuộc làu bài Kinh và Chú sẽ không còn tập trung tư tưởng để trì tụng nữa.
• Việc trì tụng trong trường hợp nầy chỉ là phản xạ của trí óc, một hành động "trả bài" trong vô thức, do đó, tư tưởng (tâm-ý) được tự do vì không cần phải tập trung cho nên thoải mái rong chơi trong những sinh hoạt/suy nghĩ hàng ngày của thân. Tâm-ý có thể nghĩ về một chiếc áo đẹp, một món ăn ngon…do đó, khó mà đạt được trạng thái vô trụ - vô ngã được.
Vì vậy, người viết thiết nghĩ trong khi trì tụng hai bài Chú và Kinh nầy không cần phải học thuộc lòng, không cần phải chuyển đổi qua tiếng Việt, mà phải đọc bằng tiếng Phạn. Vì sao?
• Đọc kinh bằng tiếng Phạn sẽ khiến cho ta tập trung nhiều vào từng chữ, vì không hiểu nghĩa cho nên sẽ phải cố gắng nhiều hơn để khỏi đọc trật.
• Ta xử dụng miệng để đọc, tai chú ý tiếng mõ, mắt dán vào tờ kinh. Từng ấy cơ quan của thân thể đều chú trọng vào việc trì tụng, còn thì giờ đâu nữa mà thân-tâm-ý "đi lang thang". Ta quên "mình" trong lúc nầy cũng như không còn chấp kiến thế giới chung quanh nữa trong trạng thái trên.
Thưa Quý bạn,
Tôi có lạc đề không?
Xin thưa là không. Tất cả do suy diễn từ hai bài học về Khí công Hoàng hạc mà tôi đã "ngộ" được (theo nhãn quan của tôi).
Đọc đến đây chắc có nhiều bạn không đồng ý với những suy nghĩ trên. Nhưng mà, dù bạn đồng ý hay không đồng ý, bạn đã trụ vào và đã có một biên kiến cho vấn đề trên, bạn đã chấp nê một sự việc, một suy nghĩ mà chỉ chính bạn mới tự điều hướng thân-tâm-ý của bạn trong con đường luyện tập, nhứt là những bạn bước vào tuổi "hạc".
Có được suy nghĩ như thế, có thể nói Hoàng hạc khí công là một pháp môn tu tập trong 84 ngàn pháp môn do đức Phật đề ra. Nếu bạn không đồng ý sẽ còn 39.999 pháp một còn lại cho bạn mặc sức mà trì tụng.
Nói cho cùng có gì là trụ, có gì là vô trụ!
Có gì là ngã, có gì là vô ngã!
Có chăng là khi bạn xuôi tay, tim ngừng đập, phổi ngừng thở….lúc đó bạn mới thực sự là Vô Trụ và Vô Ngã.
Thân chúc bạn vẫn là bạn sau khi đọc bài viết về Thể dục Khí công Hoàng hạc nầy.
Mai Thanh Truyết
Một ngày sau ngay lễ Lá 2011
Thursday, December 12, 2024
Nhân nagy2 Nhân quyền 10/12/2024, thân chuyển bài viết dưới đây:
Trật Tự Thế Giới Sẽ Đi Về Đâu?
Suốt hơn một thế kỷ qua, thế giới đã thay đổi bắt đầu từ một trật tự lưỡng cực giữa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (United States of America, USA) và Xã Hội Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết (Union of Soviet Socialist Republics, USSR).
Tuy nhiên từ ngày Liên Bang Sô Viết tan rã vào năm 1991 để trở thành Liên Sô (Russia, The Russian Federation), thế giới đã bước qua một trật tự mới. Một thế giới đa cực gồm có Hoa Kỳ, Trung Cộng, và Thế Giới Thứ Ba tập trung bao gồm các quốc gia đang phát triển. Một cột mốc vào năm 1972, Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương bắt đầu mở cửa cho TC được tiếp cận và hội nhập vào cộng đồng thế giới, và hơn nữa đã dễ dãi chấp nhận cho TC gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization, WTO) năm 2001. Thế giới đã dần trở về một trật tự “lưỡng cực” mới do sự “hấp thụ” khối các quốc gia thứ ba của TC nhằm xâm thực toàn cầu qua chính sách Một Vành Đai Một Con Đường (One Belt One Road, OBOR).
Cho dù dưới bất cứ một trật tự nào cho đến nay, thế giới vẫn còn những bất trật tự do từ những xáo trộn, xung đột xảy ra giữa các quốc gia, xuyên qua các cuộc chiến đối đầu với nhau vì: kinh tế, sắc tộc, hoặc giữa các khối quốc gia dưới danh nghĩa tôn giáo cực đoan v.v…
Mặc khác, các chính sách đề ra do Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức quốc tế nhằm tao dựng một thế giới hòa bình trong sự phát triến chung trong môi trường hài hòa, đều không đưa đến một giải pháp tốt đẹp, nhưng trái lại, càng làm cho trật tự thế giới ngày càng phức tạp thêm hơn.
Vì vậy,
Cần phải động não hầu truy tìm một trật tự mới cho thế giới hiện tại ngõ hầu nảy ra một sinh lộ mới cho thế giới sự ổn định và an bình hơn trong những ngày sắp tới…
Có thể kết luận:
Hai chính sách và các định chế của Liên HIệp Quốc cho thế giới nhằm tái lập cuộc sống chung trật tự cho thế giới trong 30 năm qua đã có thể cho là đã thất bại. Đó là:
• Hướng giải quyết hiện tượng hâm nóng toàn cầu (the global warming) và gần đây được thay tên là sự thay đổi khí hậu (the climate change) đã bị thất bại hoàn toàn.
Kể từ khi 172 nguyên thủ quốc gia trên thế giới ký kết tại Thượng đỉnh Rio de Janerio, Brasil năm 1992. Mọi người đã cùng nhau ký kết một minh ước cam kết sẽ phát triển kinh tế trong điều kiện bảo vệ môi trường và các tài nguyên không tái tạo trên trái đất tại thành phố Rio de Janeiro, quốc gia Brazil. Hội nghị này đã được diễn ra trong những ngày từ mùng 3 đến ngày 14 năm 1992.
Tuy nhiên đến nay, sự biến đổi khí hậu trên địa cầu đang diễn ra ở khắp nơi và được ghi nhận không mang lại hiệu quả tốt mà đang tạo ra thêm các phản ứng ngược, làm ảnh hưởng đến các hiện tượng thay đổi trên trái đất khá bận tâm như:
• Nhiệt độ trung bình trên trái đất gia tăng (khoảng 1°C cho mỗi 10 năm, hay khoảng 2°F kể từ năm 1980 theo GISS),
• Băng đá tan chảy nhanh hơn,
• Bão tố mạnh mẽ hơn, và xảy ra thường xuyên hơn,
• Cháy dữ dội hơn,
• Hạn hán nhiều hơn và khắc nghiệt hơn,
• Các động vật thuộc loại hiếm sẽ bị tuyệt chủng, và biến đi mất nhiều hơn.
Một khi các hiệu ứng tích lũy trở thành bất kiểm soát, việc chỉnh sửa trái đất sẽ không còn ý nghĩa gì khác!
Một khi các hiện tượng dự phần vào việc thay đổi khí hậu tăng trưởng theo theo thời gian, điều đó có nghĩa là những biện pháp đề ra của Liên hiệp quốc đã thất bại.
Nhưng nếu để mọi người nhận ra khả năng những điều trên xảy ra trong một khoảng thời gian sắp tới, hoặc hơn nữa, những điều tệ hại hơn nữa sẽ xảy ra trong 20 hoặc 30 năm tới cho trái đất, có lẽ lúc đó đã muộn rồi.
Vì vậy, ngày hôm nay, và bắt đầu ngay từ bây giờ, kinh nghiệm qua trường hợp đại dịch Coronavirus, cần phải:
a- Tiên liệu cuộc khủng hoảng khí hậu;
b- Hành động nhanh chóng và quyết liệt để giảm thiểu thiệt hại hơn nữa trước khi “các đại nạn” trong tương lai sẽ áp đảo chúng ta.
• Hiện tượng toàn cầu hóa xuất hiện từ sự phát triển của các quốc gia thứ ba và nhứt là Trung Cộng đã làm cho thế giới trở nên phức tạp hơn qua những tranh chấp về kinh tế. Vào đầu tháng 2,2004, Ông Kofi Annan, Tổng Thư Ký LHQ đã chủ tọa một buổi tường trình của Hội đồng Hàn Lâm Viện Liên Quốc (HLVLQ) sau gần 4 năm thành lập.
Chủ đề của báo cáo là:” Chiến lược toàn cầu xây dựng kỹ năng khoa học và công nghệ”. Trong đó, báo cáo kêu gọi cần phải có một sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các khả năng khoa học liên quốc và chia xẻ các thành quả thu lượm được đến tất cả cộng đồng khoa học trên thế giới. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang phát triển, ngân sách dự trù cho việc nghiên cứu khoa học và công nghệ ít nhất phải từ 1,0 đến 1,5% tổng sản lượng quốc gia để hy vọng các nước này có thể theo kịp sức cạnh tranh và phát triển giữa các quốc gia toàn cầu. Với mục tiêu trên, Hội đồng khoa học hy vọng sẽ thu ngắn được khoảng cách Giàu và nghèo giữa các quốc gia. Đây cũng chính là một vòng lẫn quẩn đối với các quốc gia đang phát triển. Lý do khách quan chính là các quốc gia nầy không có đủ ngân sách để nghiên cứu và đào tạo, cho nên khoảng cách ngày càng xa hơn so với các quốc gia đã phát triển.
Kết luận của báo cáo nhấn mạnh:” Các quốc gia đang phát triển phải tận dụng mọi cố gắng của toàn dân cùng với sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Đối với sự thay đổi về tiến bộ nhanh chóng trong hiện tại, sẽ không còn đủ thời gian cho các nước nầy phí phạm thêm nữa nếu muốn hội nhập và thu hẹp khoảng cách giàu-nghèo.”
Rõ ràng, đây là khái niệm rất cao thượng của LHQ. Nhưng đứng về mặt thực tế,
các quốc gia trên thế giới đã tiếp nhận và thẩm thấu khái niệm trên trong 20 năm
qua như thế nào? Câu trả lời cho thấy có rất nhiều chỉ dấu đậm nét nói lên tính cách tiêu cực hết sức tách bạch của vấn đề là:
a- Trong hiện tại, khoảng cách “giàu-nghèo” giữa các quốc gia Bắc Bán cầu và Nam Bán cầu (giàu - nghèo) dường như đang dài thêm ra. Các nước kỹ nghệ hóa tiếp tục làm chủ thế giới, nắm bắt hầu hết tất cả phát minh, sáng kiến ngay cả những sáng kiến đến từ các quốc gia đã/đang phát triển;
b- Về nhân sự, vẫn còn tình trạng xuất cảng chất xám của các quốc gia nghèo đến những quốc gia đã phát triển;
c- Về tài nguyên và nhân công, các quốc gia nghèo vẫn còn là nơi sản xuất rẻ tiền để phục vụ cho những nước giàu;
d- Chính sách “bế quan tỏa cảng” trong lãnh vực khoa học vẫn được một số quốc gia giàu áp dụng thay vì chia xẻ kiến thức với cộng đồng thế giới;
e- Hiện tại, về phương diện khảo cứu khoa học, Hoa Kỳ vẫn hành xử giống như thời chiến tranh lạnh Mỹ - Nga trước kia. Văn phòng Kiểm soát Tài sản Ngoại quốc vẫn cấm cản việc in ấn các báo cáo khoa học của các quốc gia như Iran, Sudan, và Cuba vào các tạp chí khoa học Hoa Kỳ;
f- Và quan trọng hơn cả là các quốc gia giàu vẫn tiếp tục vi phạm quy định về xuất cảng phế thải độc hại trong đó có phế thải hạt nhân qua các quốc gia nghèo, trái với những điều mà họ đã ký kết trong Thượng Đỉnh toàn cầu hóa tại Rio de Janeiro năm 1992 ở Brasil.
• Luật Bảo vệ Nhân quyền của LHQ
Xin trích hai lời mở đầu của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 nêu bật lên một yếu tố rất cao thượng là nêu lên nhân phẩm của tất cả mọi người trên thế gian nầy như:
a- “Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.
b- Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản.”
Từ đó, LHQ qua Bản Tuyên ngôn khuyến cáo các quốc gia…”bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thổ bị giám hộ”. Xin trích:
“Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.
Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ tình trạng cá nhân nào khác.”
Nhưng vì LHQ không có biện pháp chế tài cho nên dù đã ra đời trên 70 năm qua, vẫn còn rất nhiều quốc gia tiếp tục vi phạm quyền con người nêu trên, và người dân trong các quốc gia đó vẫn còn chịu sự áp bức đôi khi còn khắc nghiệt hơn so với thời phong kiến và quân chủ nữa, nhứt là các quốc gia nằm trong chế độ độc tài toàn trị.
• Tuyên ngôn về Quyền của các Dân tộc Bản địa năm 2007
Lời nói đầu tiên trong bản tuyên ngôn dưới đây nói lên quyền của người bản địa (thiểu số) được ghi rõ là:
a- “Khẳng quyết rằng các dân tộc bản địa bình đẳng với tất cả các dân tộc khác, đồng thời công nhận quyền của tất cả các dân tộc được khác biệt, được xem dân tộc mình là khác biệt, và được tôn trọng với sự khác biệt đó.
b- Khẳng quyết rằng tất cả các dân tộc đóng góp vào sự đa dạng và giàu có của những nền văn minh và văn hóa, tạo nên di sản chung của loài người.
c- Khẳng quyết hơn nữa rằng mọi định chế, chính sách và các hoạt động dựa trên hay cổ vũ cho sự phân biệt giữa các dân tộc hoặc cá nhân trên cơ sở những khác biệt về nguồn gốc quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, sắc tộc hay văn hóa là phân biệt chủng tộc, sai lầm về khoa học, không được chấp nhận về pháp lý, sai trái về đạo đức và bất công về xã hội.
d- Khẳng quyết lại rằng các dân tộc bản địa, khi thực hành các quyền của họ, phải được tự do vượt trên sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào.”
Để rồi đi đến kết luận:” Ghi nhớ rằng không một điều nào trong Tuyên ngôn này được xử dụng để từ chối quyền tự quyết của bất cứ dân tộc nào, tuân thủ theo công pháp quốc tế”.
Nhưng sau hơn 13 năm thực thi, các dân tộc bản địa vẫn bị liên tục tước đi các phương thức tồn tại đề ra của LHQ và bị phủ nhận quyền được đền bù một cách công bằng và xứng đáng của họ một khi bị di dời hay bị chiếm đất!
Tất cả lề luật trên của LHQ đều không được các quốc gia tuân thủ cho đến hôm nay vì một nguyên do duy nhứt là LHQ không có biện pháp chế tài thích đáng đối với những quốc gia vi phạm các quyền trên…
• Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ
Ngày 4/7/1776, bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ được quốc hội công bố. Đây là văn bản chính trị tuyên bố 13 thuộc địa Bắc Mỹ chính thức ly khai khỏi Anh Quốc, hình thành quốc gia độc lập.
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ do TT Thomas Jefferson soạn thảo, ghi dấu ảnh hưởng của triết học Khai sáng và cả kết quả của Cách mạng Anh năm 1688. Nội dung chính của bản tuyên ngôn được dựa trên tư tưởng của một triết gia người Anh ở thế kỷ 16, John Locke.
Bản tuyên ngôn bắt đầu bằng:” Trong tiến trình phát triển của nhân loại, khi một dân tộc nào đó cần thiết phải xóa bỏ những mối liên kết chính trị giữa họ với một dân tộc khác và khẳng định trước các lực lượng trên toàn trái đất vị thế độc lập và bình đẳng mà các quy luật của tự nhiên và thượng đế đã ban cho họ, thì sự tôn trọng đầy đủ đối với các quan điểm của nhân loại đòi hỏi họ phải tuyên bố những nguyên do dẫn họ đến sự ly khai đó.
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong dân chúng và có được quyền lực chính đáng trên cơ sở sự đồng ý của dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì người dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an toàn và hạnh phúc của họ”.
Để rồi chấm dứt Bản tuyên ngôn bằng… “Vững tin vào sự bảo hộ thiêng liêng của thượng đế, chúng ta nguyện cùng hiến dâng tính mạng, tài sản và danh dự thiêng liêng của mình để bảo đảm cho bản tuyên ngôn này”.
Thật rõ ràng và dứt khoát. Vì vậy, Hoa Kỳ với ba quyền phân lập hành pháp - lập pháp - tư pháp và đã đứng vững từ sau ngày 4 tháng 7 năm 1776 cho đến nay với nguyên tắc hành động “check and balance”.
***
Trở về hiện tại, qua suốt hơn một thế kỷ và nhứt là sau 20 năm điều chỉnh những kế hoạch để tái lập một trật tự điều chỉnh cho toàn đầu của LHQ bất thành, vì vậy cần phải động não để truy tìm một trật tự mới nhằm giải quyết những khuyết điểm thế giới đã vấp phải trong thế kỷ qua.
Tóm lại có ba vấn đề cốt lõi cần được giải quyết nhằm tái lập một trật tự mới cho thế giới sống chung trong sự hài hòa là kinh tế, tôn giáo và văn hóa:
• Thực tế cho thấy Kinh tế thị trường của Tư bàn chủ nghĩa và kinh tế chỉ huy XHCN đã thất bại trầm trọng, chỉ làm cho thế giới xáo trộn thêm ra và làm tăng khoảng cách giàu-nghèo giữa Bắc bán cầu và Nam bán cầu. Nền kinh tế thị trường không còn là một mô hình phát triển hoàn hảo như dự kiến trong buổi bình minh của chính sách kinh tế và di hại là tạo ra nạn di dân kinh tế, xã hội bất bình đẳng, dân chúng phản kháng khắp nơi làm đảo lộn nền dân chủ tự do. Còn nền kinh tế chỉ huy bùng nổ ở Trung Cộng đang uy hiếp toàn thế giới qua các kế hoạch Một Vành đai - Một Con đường.
• Hiện nay, vấn đề dị biệt tôn giáo đã dấy lên các cuộc nổi loạn của các nhóm tôn giáo cực đoan đang dần tiến đến điểm tới hạn (threshold limit) ở một số quốc gia Âu Châu, Á Rập và Á Châu có thể đưa đến khủng hoảng kinh tế vùng. Trong tình thế bất ổn nầy mọi chính sách đối đầu và tiêu diệt có thể giải quyết được tình trạng trên trong ngắn hạn; nhưng trong dài hạn cuộc chiến tranh tôn giáo sẽ kéo dài vô tận. Kinh nghiệm giữa xung đột Muslim - Thiên Chúa giáo Tây phương hoàn toàn đi đến bế tắc! Cũng như Trung Cộng dùng Khổng giáo để chinh phục thế giới đã bị tẩy chay và bị cô lập.
• Về sự khác biệt văn hóa, đây có thể xem như là một vấn nạn chung giữa các chủng tộc. Chính sự khác biệt nầy đã từng tạo ra những cuộc chiến tranh đẩm máu, không khác gì chiến tranh tôn giáo. Nếu mỗi công dân của thế giới nắm bắt được trách nhiệm trong xã hội, biết khoan dung, và có một nền tảng vững chắc cho đức tính hiếu hoà, biết tiết chế lòng ham muốn, áp dụng tinh thần bất bạo động trong mọi tình huống và biết tôn trọng tha nhân. Tất cả những điều trên là nhắm tới một lý tưởng hoà bình, và bảo vệ môi sinh trong môt thế giới an lành.
Qua các phân tích trên, có thể kết luận như sau:
• Giải pháp Kinh tế: Giải pháp cho các chính sách kinh tế quốc gia tùy thuộc vào việc cải cách các định chế chính trị của từng nước và tạo ra một cung cách uyển chuyển thích hợp cho từng quốc gia và từng chủng tộc. Tôn trọng mỗi định hướng phát triển quốc gia nhằm ứng hợp với việc bảo vệ môi trường chung thế giới trong điều kiện cá biệt của từng nước một chính là giải pháp tối ưu cho toàn cầu, tránh được việc gây ảnh hưởng hay xâm nhập vào nội bộ của nước khác. Điều nầy là một điều kiện tiên quyết trong việc tôn trọng hỗ tương với nhau dù có là nước lớn hay nước nhỏ. Sống chung bình đẳng và an bình là một trật tự cần thiết cho toàn cầu.
• Giải pháp Chính trị: Sau khi TC đàn áp bạo lực các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ trên Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, TT Bush (cha) vừa mới nhậm chức (20/1/1989) đã ban hành ngay một số biện pháp chống lại sự vi phạm nhân quyền của TC. Mỹ đình chỉ trao đổi chính thức cấp quốc gia với CHND Trung Hoa, và áp đặt một số biện pháp trừng phạt kinh tế. Tuy nhiên, Bush đã phản ứng một cách ôn hòa khi cố gắng tránh một sự đổ vỡ lớn vì có ý định dùng TC làm nhân tố chủ chốt để chống lại Liên Sô. Do đó, một số trừng phạt kinh tế đã được hủy bỏ nhưng TC vẫn nằm trong chính sách cấm vận của Hoa kỳ. Sau đó Liên Sô sụp đổ năm 1991.
Nhưng khi sang đến thời TT Clinton, mọi sự đổi khác, và đã chấm dứt lịnh cấm vận vào tháng 1, 2001. Chỉ vài tháng sau đó chấp nhận cho TC gia nhập vào WTO với suy nghĩ là:”một khi TC tiếp cận kinh tế thị trường sẽ lần lần chuyển hóa và xóa bỏ kinh tế chỉ huy”. Đây chính là một sai lầm lớn của Hoa Kỳ và Tây phương, để rồi vô hình chung khi vừa thay thế một thế giới lưỡng cực với Liên Sô năm 1992, trở thành một thế giới lưỡng cực mới với TC, và người anh em thù hận (enemy brother) Nga!
Và chính sai lầm chính trị nầy làm cho thế giới đang đứng trước cơn xáo trộn trật tự toàn cầu tệ hại hơn, và đại dịch covid Wuhan hiện nay đã làm tăng sự xáo trộn lên đến cực điểm. Trách nhiệm của TT Clinton cùng với sự tiếp tay của TT Obama làm cho tình thế ngày càng trầm trọng thêm và có thể nói, TC đã áp đặt ảnh hưởng chính trị lên hầu hết các quốc gia đang phát triển qua sức mạnh kinh tế của họ là do chính sách ngoại giao-chính trị sai lầm của cả hai đời Tổng thống Hoa Kỳ, tức 16 năm dài, biến TC thành cường quốc kinh tế thứ hai sau Mỹ mà thôi.
Vì vậy, việc đánh gục kinh tế của TC, xé tan “lục địa Trung Hoa” để trở về các quốc gia ban đầu như Mông – Hồi – Mãn – Tạng – Hán sẽ là một việc tối cần thiết cho Hoa Kỳ và Tây phương vực dậy trật tự mới cho thế giới. Không còn giải pháp nào khác cả!
• Giải pháp Tôn giáo – Văn hóa: Muốn ổn định thế giới, vấn đề tôn giáo và văn hóa cần phải được cảm thông một cách thoáng đạt hơn:
a- Tôn trọng đức tin của từng chủng tộc nhằm tránh xung đột do tính cực đoan của tôn giáo; từ đó, thế giới mới thực sự ổn định. Trên thực tế, mỗi quốc gia cần nên tự chế, không đem sự dị biệt về tôn giáo, không mang tính cực đoan trong tôn giáo vào trong các tranh chấp quốc gia như kinh tế-chính trị-quân sự để cuối cùng giải quyết với nhau bằng sức mạnh. Nên nhớ, trong chiều dài lịch sử, một cuộc chiến tranh tôn giáo có thể kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm mà vẫn tiếp tục âm ỉ khó có thể hàn gắn được! Chủ nghĩa dân tộc cực đoan có thể nảy sinh từ quan niệm chỉ có tôn giáo “mình” là “hoàn mỹ” còn tất cả mọi tôn giáo khác đều là…ngoại đaọ! Chính suy nghĩ sau cùng nầy làm cho thế giới luôn xáo trộn hàng thế kỷ qua!
b- Nói đến văn hóa, cần phải có một chính sách giáo dục nhằm hướng dẫn mọi công dân trong một quốc gia có tinh thần yêu quê hương, bảo vệ môi trường, và nhứt là biết yêu thương với nhau dù có những dị biệt về chủng tộc, tôn giáo, hay quan điểm chính trị. Vì chính chính sách văn hóa nầy làm cho con người toàn cầu không còn cực đoan nữa và trở về với bản lai diện mục của chính mình, vì vậy sẽ trờ nên nhân bản hơn trong mọi giao tiếp hỗ tương trong đại gia đình chủng tộc trên thế giới. Nhờ vậy, mọi tranh chấp sẽ dưa trên căn bản đối thoại và đưa đến “win-win situation” cho cả đôi bên hay cho nhiều phía với nhau. Bình đẳng trong đối thoại, tôn trọng trong tranh chấp trong văn hóa chính là kim chỉ nam cho một trật tự thế giới mới ngõ hầu xóa được hình ảnh phân cực giữa các quốc gia chỉ biết đối đầu nhưng không đối thoại trong hiện tại, và kết quả chỉ đưa đến sự hủy diệt lẫn nhau mà thôi.
Có được như vậy, hy vọng trong tương lai không xa, thế giới sẽ có một trật tự mới trong đó tất cả người dân khắp nơi đều sống trong …AN LẠC, BÌNH ĐẲNG, và HẠNH PHÚC.
Đây không hẳn là một ước mơ của người viết, mà là những suy nghĩ và trăn trở được ghi ra sau những năm tháng miệt mài qua những biến chuyển lịch sử ở các quốc gia trên thế giới trong một thời gian dài…
Mong rằng những lời trên đây sẽ là một phác thảo cho Bản Tuyên ngôn Thế giới Mới hay một “Manifesto”, hoặc một “Tuyên ngôn cho Toàn cầu”. Mong được ghi nhận sự góp ý tích cực nhằm xây dựng một trật tự mới cho tương lai của toàn cầu.
Phổ Lập Mai Thanh Truyết
Monday, November 25, 2024
Bạn có biết chữ “P” trong “P.M.” có nghĩa là gì không?
Cuộc sống của chúng ta được đo bằng chu kỳ luân phiên của a.m. và p.m., nhưng bạn có biết những chữ viết tắt này thực sự có nghĩa là gì không?
Có hai cách ghi/tinh giờ: - Cách ghi đồng hồ 24 giờ như ở Âu Châu: 0:01:00 nghĩa là 0 giờ, 1 phút, 0 giây và phút cuối cùng của ngày là 23:59:00. Và nửa đêm là 00:00:00.
Còn ở Mỹ, cách ghi Đồng hồ theo chu kỳ 12 giờ
Theo đồng hồ 12 giờ, ngày dương lịch bắt đầu từ 12 giờ nửa đêm, sau đó tích tắc đến 1 giờ sáng 01:00:00. Đồng hồ sau đó xoay vào lúc 12 giờ trưa, vào khoảng thời gian mặt trời ở điểm cao nhất trên bầu trời. Mọi thứ trong ngày đều trước buổi trưa (buổi sáng) hoặc sau buổi trưa (được gọi một cách khéo léo là buổi chiều, cũng như buổi tối và đêm).
Chia đôi đồng hồ 24 giờ sẽ tạo ra hai phép tính: đã trôi qua bao nhiêu giờ kể từ nửa đêm và đã trôi qua bao nhiêu giờ kể từ buổi trưa.
Các chữ viết tắt “a.m.” và “p.m.” phân biệt giữa các phép tính này. Vì những khoảng thời gian này xoay quanh buổi trưa, chúng ta có thể mong đợi thấy chữ “n” (noon) trong các chữ viết tắt, nhưng người Anh thế kỷ 17 đã chọn sử dụng tiếng Latin thay thế.
Trong tiếng Latin, “a.m.” có nghĩa là ante meridiem. Dịch ra, điều này có nghĩa là “trước buổi trưa”. Từ tương ứng, “p.m.” có nghĩa là post meridiem, tất nhiên, dịch ra là “sau buổi trưa”. Khi thiết lập các tiêu chuẩn về thời gian, buổi trưa được đặt là 12 giờ trưa.
Để làm rõ hơn, người ta đã quyết định rằng 00:00:00, thời điểm bắt đầu ngày mới, sẽ được gọi là 12 giờ đêm. Và 12 giờ trưa, sẽ là thời điểm chuyển sang giờ chiều. (Về mặt kỹ thuật, không có 12 giờ trưa vì nó không phải là “sau”, nhưng có 12:01 chiều.) Để tránh nhầm lẫn, nhiều người chỉ nói “nửa đêm” hoặc “buổi trưa” thay vì giờ 12 giờ.
Trong khi ngữ cảnh (đặt lịch hẹn với bác sĩ, yêu cầu họp công việc) thường làm rõ liệu ai đó đang đề cập đến 3 giờ sáng hay 3 giờ chiều, thì việc thêm một từ "vào buổi sáng" nhanh chóng luôn hữu ích nếu thời gian hơi mơ hồ. Ví dụ, một cú đêm có thể không gặp vấn đề gì khi đến dự định lúc 10 giờ tối, nhưng bạn bè của họ sẽ ngồi ăn sáng lúc 10 giờ sáng và tự hỏi tại sao họ lại bị cho leo cây.
Sunday, November 24, 2024
COP29 kết thúc với thỏa thuận về tài chính khí hậu
sau cuộc tranh cãi gay gắt
Hội nghị lần thứ 29 của các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP29) tại Baku (Azerbaijan) đã đánh dấu một cột mốc quan trọng với việc thông qua Khuôn khổ thị trường carbon toàn cầu. Đây được coi là một thành tựu đáng kể, mở ra cơ hội cho việc giảm phát thải khí nhà kính hiệu quả hơn về mặt chi phí. Tuy nhiên, bên cạnh những hứa hẹn, thị trường carbon toàn cầu cũng đối mặt với nhiều thách thức cần được giải quyết để bảo đảm tính hiệu quả và công bằng.
Gần 200 quốc gia đã đồng ý tăng gấp ba số tiền có sẵn để giúp các nước đang phát triển đối phó với nhiệt độ nóng lên nhanh chóng.
Nhưng thỏa thuận đạt được khi kết thúc hội nghị thượng đỉnh COP29 kéo dài hai tuần tại Azerbaijan là kết quả của các cuộc đàm phán căng thẳng và đôi khi công khai thù địch, tạo ra một thỏa thuận mà ngay cả những người ủng hộ cũng có thể thấy là không đủ và đáng thất vọng. Quá trình hợp tác khí hậu toàn cầu sẽ tiến triển chậm chạp từ đây dưới sức nặng của những câu hỏi hiện hữu nặng nề hơn.
Nhiệt độ toàn cầu đang trên bờ vực 1,5 độ C, một điểm then chốt để tránh những hậu quả thảm khốc nhất của biến đổi khí hậu.
"Chúng tôi cần rời Baku với một thỏa thuận để duy trì hệ thống đa phương", Juan Carlos Monterrey-Gomez, đại diện đặc biệt của Panama về biến đổi khí hậu cho biết. "Chúng tôi đã duy trì hệ thống. Nhưng tôi nghĩ 1,5 độ đã chết".
Các nước giàu đã cam kết cung cấp ít nhất 300 tỷ đô la mỗi năm vào năm 2035, thông qua nhiều nguồn khác nhau, bao gồm tài chính công cũng như các thỏa thuận song phương và đa phương. Thỏa thuận này cũng kêu gọi các bên nỗ lực giải ngân tổng cộng 1,3 nghìn tỷ đô la mỗi năm, phần lớn dự kiến sẽ thông qua tài chính tư nhân.
Các nước phát triển và đang phát triển tham gia đàm phán ở khoảng cách xa nhau. Vào một thời điểm nào đó vào thứ Bảy, các cuộc đàm phán dường như đã bên bờ vực sụp đổ, trước khi nhiều cuộc họp kín đưa thỏa thuận đến gần hơn.
Các quốc gia giàu đang vật lộn với hàng loạt hạn chế về tài chính và chính trị, bao gồm lạm phát, ngân sách hạn hẹp và chủ nghĩa dân túy gia tăng. Việc Donald Trump đắc cử và lời đe dọa rút Hoa Kỳ khỏi thỏa thuận khí hậu Paris mang tính bước ngoặt của ông cũng phủ bóng đen lên hội nghị thượng đỉnh.
Theo một thỏa hiệp, các quốc gia giàu cuối cùng đã đồng ý cam kết thêm 50 tỷ đô la so với số tiền được yêu cầu trong dự thảo thỏa thuận vào thứ Sáu (11/22/2024). Họ cũng đã đưa ra bất kỳ thỏa thuận nào tùy thuộc vào việc tái khẳng định kết quả COP28 năm ngoái tại Dubai, bao gồm lời cam kết chuyển đổi khỏi nhiên liệu hóa thạch.
Nhưng Ả Rập Xê Út, dẫn đầu một khối các quốc gia Ả Rập, phản đối động thái chỉ trích bất kỳ lĩnh vực nào.
"Chắc chắn là có một thách thức trong việc đạt được tham vọng lớn hơn khi bạn đang đàm phán với người Saudi", John Podesta, nhà đàm phán khí hậu hàng đầu của Hoa Kỳ, nói với các phóng viên. "Vào thời điểm thế giới đang phải đối mặt với những tác động thảm khốc như vậy từ biến đổi khí hậu, thì từng chút một là không đủ" – “At a time when the world is facing such catastrophic effects from climate change an inch at a time is not enough.”
Cuối cùng, các nước phát triển đã phải chấp nhận chỉ đơn giản là tái khẳng định thỏa thuận đã đạt được vào năm ngoái tại COP28 ở Dubai, mà không đề cập rõ ràng đến "nhiên liệu hóa thạch" bằng tên.
'Quá ít'
Số tiền tài trợ đã hứa không đủ để đáp ứng hàng nghìn tỷ đô la mà các quốc gia nghèo và dễ bị tổn thương cho biết họ cần để chống biến đổi khí hậu cho nền kinh tế của mình. Họ cũng muốn có thêm số tiền đó dưới hình thức tài trợ và hỗ trợ tài chính giá cả phải chăng khác, vì các khoản vay dựa trên thị trường có nguy cơ làm tăng thêm gánh nặng nợ nần của họ.
Việc thông qua thỏa thuận diễn ra bất chấp sự phản đối của Ấn Độ, các đại biểu của nước này đã giơ tay để cố gắng can thiệp, và khi tiếng búa gõ xuống, họ đã bước lên sân khấu trong một nỗ lực không thành công để thu hút sự chú ý.
Đại diện của Ấn Độ Chandni Raina gọi thỏa thuận này là không đủ. gọi là không đủ. "Mục tiêu quá nhỏ, quá xa vời", bà nói, bài phát biểu của bà thường xuyên được ngắt quãng bởi tiếng vỗ tay và reo hò.
Tuy nhiên, đối với một số người, kết quả này có thể sẽ là bằng chứng cho thấy quy trình COP vẫn là cách tiếp cận tốt nhất để phối hợp hành động toàn cầu nhằm ứng phó với những thách thức ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu.
"COP29 diễn ra trong hoàn cảnh khó khăn nhưng chủ nghĩa đa phương vẫn tồn tại và cần thiết hơn bao giờ hết", Laurence Tubiana, giám đốc điều hành của Quỹ Khí hậu Châu Âu, một kiến trúc sư của Thỏa thuận Paris mang tính bước ngoặt.
Thỏa thuận mới sẽ giúp cung cấp thông tin cho các cam kết của từng quốc gia về việc cắt giảm khí thải nhà kính vào năm 2035 cũng như vòng đàm phán tiếp theo về khí hậu của Liên hợp quốc tại Brazil. Nhiều quốc gia đang phát triển nhấn mạnh rằng cam kết tài chính nhỏ hơn mong đợi (the smaller-than-hoped finance commitment) sẽ làm chậm quá trình chuyển đổi sang năng lượng không phát thải CO2 của họ và hạn chế tham vọng của họ trong việc đặt ra các mục tiêu giảm carbon vào tháng 2/2025.
Mục tiêu của Thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu COP 29 năm 2024
COP29, như các hội nghị thượng đỉnh trước đây của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu, dự kiến sẽ có nhiều quyết định quan trọng liên quan đến các cam kết quốc tế để đối phó với biến đổi khí hậu. Dưới đây là một số ý kiến chung mà nhiều nhà quan sát và chuyên gia đưa ra khi thảo luận về các hội nghị COP trong quá khứ, cũng như kỳ vọng cho các hội nghị COP trong tương lai:
1. Tăng cường hành động toàn cầu: Một trong những điểm quan trọng trong các hội nghị COP là việc các quốc gia đưa ra các cam kết giảm khí thải carbon và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng các cam kết chưa đủ mạnh để ngăn chặn tác động tồi tệ của biến đổi khí hậu. Các nhà lãnh đạo cần có hành động cụ thể và mạnh mẽ hơn.
2. Đảm bảo công bằng khí hậu: Thách thức lớn trong các cuộc đàm phán khí hậu là sự không công bằng giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Các quốc gia phát triển cần hỗ trợ tài chính và công nghệ cho các quốc gia đang phát triển để giúp họ ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời giảm thiểu khí thải.
3. Tạo ra động lực mới: Các hội nghị COP trước đây đã tạo ra những thỏa thuận quan trọng như Thỏa thuận Paris (COP 21). Tuy nhiên, cần có thêm động lực để thúc đẩy các quốc gia thực hiện các cam kết của mình. COP 29 có thể là cơ hội để củng cố những thỏa thuận này và thiết lập các cơ chế mới nhằm đạt được mục tiêu giữ nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 1,5°C so với mức tiền công nghiệp.
4. Ứng phó với các sự kiện cực đoan: Biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan như sóng nhiệt, lũ lụt, bão mạnh, ảnh hưởng đến hàng triệu người. COP29 cần có các chiến lược cụ thể để hỗ trợ các cộng đồng bị ảnh hưởng và giảm thiểu tác động của những sự kiện này.
5. Vai trò của doanh nghiệp và các tổ chức phi nhà nước: Một xu hướng đáng chú ý trong các hội nghị COP gần đây là sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và các nhóm xã hội dân sự. Họ có thể đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các sáng kiến đổi mới và hành động về khí hậu.
Kết ước sau COP29
Một thỏa thuận vừa được thông qua tại COP29, cam kết hỗ trợ 300 tỷ USD mỗi năm cho các nước nghèo và dễ bị tổn thương ứng phó biến đổi khí hậu.
Sau hai tuần đàm phán hỗn loạn và căng thẳng, đại diện gần 200 quốc gia đã thông qua hiệp ước tài chính gây tranh cãi vào sáng sớm nay tại hội nghị thượng đỉnh về khí hậu thường niên lần thứ 29 (COP29) tại Baku, Azerbaijan.
Theo đó, các nước giàu cam kết cung cấp 300 tỷ USD mỗi năm cho các nước nghèo đến năm 2035 để giúp họ đối phó với những tác động ngày càng thảm khốc của cuộc khủng hoảng khí hậu. Số tiền này sẽ được chuyển đến các quốc gia nghèo đói và dễ bị tổn thương để giúp họ đối phó với thời tiết cực đoan ngày càng khắc nghiệt và chuyển đổi nền kinh tế sang năng lượng sạch. Con số này tăng so với mức 100 tỷ USD hiện do các quốc gia giàu có cung cấp theo một cam kết sắp hết hạn, cũng như cao hơn so với mức 250 tỷ USD được đề xuất trong dự thảo thỏa thuận hôm 22/11.
Tuy nhiên, số tiền cam kết vẫn kém xa so với con số 1,3 nghìn tỷ USD mà các nước đang phát triển lâu nay khẳng định là cần thiết để giúp họ đối phó với cuộc khủng hoảng khí hậu.
"Chúng tôi sẽ chỉ nhận được một phần nhỏ trong số tiền tài trợ mà các quốc gia dễ bị tổn thương do khí hậu đang rất cần. Số tiền này không đủ, nhưng đây là một khởi đầu", Tina Stege, phái viên về khí hậu của Quần đảo Marshall, nói.
Nhưng bà chỉ trích nặng nề các cuộc đàm phán vì cho thấy "bản chất tồi tệ nhất của chủ nghĩa cơ hội chính trị". Stege cho biết trong một tuyên bố rằng những nhóm lợi ích liên quan đến nhiên liệu hóa thạch "đã quyết tâm ngăn chặn tiến trình và làm suy yếu các mục tiêu đa phương mà chúng tôi đang nỗ lực xây dựng".
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres bày tỏ lo ngại rằng thỏa thuận tài chính khí hậu được nhất trí tại Azerbaijan chưa tiến đủ xa, song kêu gọi các quốc gia coi đây là "nền tảng" để tiếp tục xây dựng.
"Tôi đã hy vọng có một kết quả tham vọng hơn, về cả tài chính và mục tiêu giảm thiểu khí thải, nhằm đáp ứng thách thức to lớn mà chúng ta đang phải đối mặt", ông cho biết, nhưng thêm rằng thỏa thuận "phải được tôn trọng đầy đủ và đúng hạn".
"Các cam kết phải nhanh chóng trở thành tiền mặt. Tất cả các quốc gia phải cùng nhau đảm bảo đạt được mục tiêu mới này ở mức cao nhất". Ông kêu gọi các quốc gia đưa ra những kế hoạch hành động khí hậu mới đối với toàn bộ nền kinh tế "trước COP30 như đã hứa".
"Kết thúc của kỷ nguyên nhiên liệu hóa thạch là điều tất yếu về mặt kinh tế. Các kế hoạch quốc gia mới phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi và giúp đảm bảo rằng nó đi kèm với sự công bằng", ông nói, kết thúc bằng thông điệp thúc giục các nhà hoạt động làm nhiều hơn nữa để duy trì nỗ lực chống biến đổi khí hậu.
"Liên Hợp Quốc luôn sát cánh cùng các bạn. Cuộc chiến của chúng ta vẫn tiếp diễn. Và chúng ta sẽ không bao giờ bỏ cuộc", ông Guterres nói.
Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) muốn các nền kinh tế mới nổi giàu có như Trung Cộng, quốc gia phát thải lớn nhất thế giới, cùng tham gia. Tuy nhiên, dự thảo cuối cùng của thỏa thuận chỉ "khuyến khích" các nước đang phát triển như Trung Cộng, Arab Saudi đóng góp tự nguyện cho nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu.
Tổng thống đắc cử Mỹ Donald Trump sẽ trở lại Nhà Trắng vào tháng 1/2025 và ông là người hoài nghi về cả biến đổi khí hậu lẫn viện trợ nước ngoài. Trong khi đó, một số nước châu Âu đã chứng kiến phản ứng dữ dội của phe cánh hữu chống lại chương trình nghị sự xanh.
Lời sau cùng
Câu hỏi của người góp nhặt về COP29 năm nay là, thế giới cần phải chấm dứt việc khai thác và sản xuất năng lượng bằng nhiên liệu hóa thạch vào năm 2050, nghĩa là phải ngưng tất cả nhà máy than nhiệt điện hiện có và “cấm” xây dựng thêm từ đây (2024) cho đến năm 2025. Thế mà, Trung cộng, Ấn Độ, Brazil, Việt Nam hiện nay đang có kế hoạch xây thêm hàng 50 nhà máy than nhiệt điện mới cho đến năm 2040. LHQ có biện pháp chế tài nào không?
Và câu hỏi thứ hai là, nếu ngưng tất cả nhà máy than nhiệt điện trên toàn thế giới, chúng ta cần phải có nguồn năng lượng tương đương để thay thế.
Năng lượng gió ư?
Năng lượng mặt trời ư?
Năng lượng thủy triều ư?
Năng lượng nguyên tử ư?
Hay là thủy điện?
Tất cả các loại năng lượng (nếu co đủ kinh phí xây dựng và thực hiện đúng thời hạn) trên có khả năng thay thế chỉ một phần năng lượng hóa thạch hiện tại mà thôi.
Như vậy từ hai câu nhận định và câu hỏi trên đủ để chứng minh rằng, tất cả những biện pháp đề nghị, kết ước của các quốc gia đang phát triển hay đã phát triển trong suốt 29 Thương định vừa qua, trong đó Thương đỉnh COP21 tại Paris năm 2015 là một bước ngoặt cho quyết định tới năm 2100… chỉ là trên GIẤY mà thôi.
Sự việc trên dưới 200 nguyên thủ quốc gia tụ họp nhau 10 ngày hàng năm tại một quốc gia chỉ định, thiết nghĩ có cần thiết không khi bàn thảo một sự kiện, một giải pháp hoàn toàn không thực tế?
Kinh phí cho việc tổ chức hàng năm chắc chắn sẽ cao hơn kinh phí cho việc cứu hàng tỷ trẻ em trên thế giới bị thiếu ăn và suy dinh dưỡng!
Xin dừng lại hành động “thời thượng” trên!
Mong lắm thay,
Mai Thanh Truyết
Mùa Tạ ơn 2024
Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen phát biểu tại cuộc họp báo ở Brussels, Bỉ. (Ảnh: THX/TTXVN)
Ngày 24/11, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen khẳng định thỏa thuận tài chính mà các nước đạt được trước đó cùng ngày tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 29 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (COP29) tại Baku (Azerbaijan), đánh dấu "kỷ nguyên mới về hợp tác và tài chính khí hậu."
Theo bà von der Leyen, việc các quốc gia phát triển cam kết chi ít nhất 300 tỷ USD/năm, từ nay đến năm 2035, sau các cuộc đàm phán căng thẳng kéo dài "sẽ thúc đẩy đầu tư vào quá trình chuyển đổi sạch, giảm phát thải và xây dựng khả năng thích ứng trước Biến đổi Khí hậu."
Chủ tịch Ủy ban châu Âu khẳng định Liên minh châu Âu (EU) “sẽ tiếp tục dẫn đầu, tập trung hỗ trợ cho những người dễ bị tổn thương nhất".
Tuy nhiên, các nước nghèo nhất - vốn chịu nhiều tác động của Biến đổi Khí hậu, cho rằng cam kết đóng góp ít nhất 300 tỷ USD/năm của các nước phát triển - cũng là những nước gây ô nhiễm nhất, là quá thấp. Đại biểu Ấn Độ Chandni Raina cho rằng đây chỉ là “một số tiền nhỏ”, không thể “giải quyết được thách thức to lớn mà tất cả chúng ta đang phải đối mặt."
Bộ trưởng Khí hậu Sierra Leone Jiwoh Abdulai nhấn mạnh thỏa thuận cho thấy "sự thiếu thiện chí" của các nước giàu khi hỗ trợ những nước nghèo nhất thế giới - vốn phải đối mặt với tình trạng nước biển dâng và hạn hán khắc nghiệt hơn.
Trước đó, khi đến Baku, các nước đang phát triển hy vọng sẽ nhận được khoản hỗ trợ tài chính của các nước giàu cao gấp nhiều lần so với cam kết hiện tại là 100 tỷ USD/năm.
Trong một tuyên bố, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cũng cho rằng thỏa thuận tài chính khí hậu vừa đạt được tại COP29 là "chưa đủ tham vọng." Ông kêu gọi các quốc gia coi đây là nền tảng để xây dựng các cam kết khí hậu tiếp theo, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải "tuân thủ đầy đủ và đúng hạn" thỏa thuận này.
Cũng theo người đứng đầu Liên hợp quốc, các quốc gia cần đưa ra các kế hoạch hành động khí hậu quốc gia mới trước khi diễn ra COP30 như đã cam kết./.
Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen phát biểu tại cuộc họp báo ở Brussels, Bỉ. (Ảnh: THX/TTXVN)
Ngày 24/11, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen khẳng định thỏa thuận tài chính mà các nước đạt được trước đó cùng ngày tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 29 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (COP29) tại Baku (Azerbaijan), đánh dấu "kỷ nguyên mới về hợp tác và tài chính khí hậu."
Theo bà von der Leyen, việc các quốc gia phát triển cam kết chi ít nhất 300 tỷ USD/năm, từ nay đến năm 2035, sau các cuộc đàm phán căng thẳng kéo dài "sẽ thúc đẩy đầu tư vào quá trình chuyển đổi sạch, giảm phát thải và xây dựng khả năng thích ứng trước Biến đổi Khí hậu."
Chủ tịch Ủy ban châu Âu khẳng định Liên minh châu Âu (EU) “sẽ tiếp tục dẫn đầu, tập trung hỗ trợ cho những người dễ bị tổn thương nhất".
Tuy nhiên, các nước nghèo nhất - vốn chịu nhiều tác động của Biến đổi Khí hậu, cho rằng cam kết đóng góp ít nhất 300 tỷ USD/năm của các nước phát triển - cũng là những nước gây ô nhiễm nhất, là quá thấp. Đại biểu Ấn Độ Chandni Raina cho rằng đây chỉ là “một số tiền nhỏ”, không thể “giải quyết được thách thức to lớn mà tất cả chúng ta đang phải đối mặt."
Bộ trưởng Khí hậu Sierra Leone Jiwoh Abdulai nhấn mạnh thỏa thuận cho thấy "sự thiếu thiện chí" của các nước giàu khi hỗ trợ những nước nghèo nhất thế giới - vốn phải đối mặt với tình trạng nước biển dâng và hạn hán khắc nghiệt hơn.
Trước đó, khi đến Baku, các nước đang phát triển hy vọng sẽ nhận được khoản hỗ trợ tài chính của các nước giàu cao gấp nhiều lần so với cam kết hiện tại là 100 tỷ USD/năm.
Trong một tuyên bố, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cũng cho rằng thỏa thuận tài chính khí hậu vừa đạt được tại COP29 là "chưa đủ tham vọng." Ông kêu gọi các quốc gia coi đây là nền tảng để xây dựng các cam kết khí hậu tiếp theo, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải "tuân thủ đầy đủ và đúng hạn" thỏa thuận này.
Cũng theo người đứng đầu Liên hợp quốc, các quốc gia cần đưa ra các kế hoạch hành động khí hậu quốc gia mới trước khi diễn ra COP30 như đã cam kết./.
Subscribe to:
Posts (Atom)