Mai Thanh Truyết _EnviroVN
Friday, January 17, 2025
Trận chiến Hoàng Sa 19/1/1974 - Bài viết của Hà Sĩ Ngạc
Hải chiến Hoàng Sa
Bốn trong số các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã tham gia hải chiến Hoàng Sa 1974 (DR)
Đôi lời trước khi viết: Đã 25 năm kể từ ngày tôi tham dự trận hải chiến Hoàng Sa, tôi chưa từng trình bầy hay viết mô tả lại về trận đánh này, ngay cả có nhiều lần tôi đã thất hứa với các bậc tiên sinh yêu cầu tôi thuật lại chi tiết của cuộc đụng độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy-nhứt không thể chối cãi được là các chiến hữu các cấp của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến đã anh dũng chiến đấu bằng phương tiện và kinh nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm lăng truyền kiếp của dân tộc hầu bảo vệ lãnh thổ của Tổ quốc. Trước một thù địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc chiến có hạn chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường tập của đối phương để tìm kiếm một cơ hội thuận tiện khác hầu khôi phục lại phần đất đã bị cưỡng chiếm.
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ Mão, tôi viết những giòng này để tưởng niệm anh linh các liệt sĩ đã hy sinh khi cùng tôi chiến đấu chống kẻ xâm lăng trên các mảnh đất xa vời của Quốc Tổ, một số đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển Hoàng Sa như để thêm một chứng tích lịch sử của chủ quyền quốc gia, một số khác đã bỏ mình trên biển cả khi tìm đường thoát khỏi sự tàn bạo của người phương bắc.
Có nhiều chiến hữu Hải quân đã từng hăng say viết lại một trang sử oai hùng của Hải quân và toàn Quân lực Việt Nam của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, nhưng đã thiếu xót nhiều chi tiết chính xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ biến, và cũng vì phải lưu lạc khắp thế giới tự do nên các chiến hữu đó đã không thể liên lạc để tham khảo cùng tôi.
Nhiều chi tiết về giờ giấc và về vị trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên hệ tới biến cố, vì không có tài liệu truy lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường thuật trung thực những chi tiết theo khía cạnh của một người chỉ huy chiến thuật được biết và cũng mong mỏi các chiến hữu nào còn có thể nhớ chắc chắn các chi tiết quan trọng khác, tôi sẽ sẵn sàng tiếp nhận qua tòa soạn này, để sửa lại tài liệu này cho đúng.
Hà Văn Ngạc
* * *
“Tân xuân Giáp Dần Hoàng Sa chiến
Nam ngư hải ngoại huyết lưu hồng”
Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo sấm Trạng Trình đã được truyền khẩu rất nhanh khi Hải đội Đặc nhiệm Hoàng Sa trở về tới Đà Nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải quân đại tá Nguyễn Viết Tân (thủ khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Sở Phòng vệ Duyên hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đã đúng 25 năm, và do sự khuyến khích của các bậc thượng trưởng của Hải quân Việt Nam, những chi tiết về diễn tiến chưa tùng tiết lộ của trận hải chiến cần được ghi lại để làm chứng liệu lịch sử.
Sau trận hải chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến thuật và chiến lược của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (HQVNCH) đến nay nếu nêu ra thì sẽ không còn một giá trị thực tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến cố kế tiếp. Vì vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây thì chỉ để ghi lại tình trạng và khả năng khi Hải quân VNCH khi đã phải đương đầu với Trung cộng, là một quốc gia vào thời-điểm đó, đã sẵn có một lực lượng hùng hậu về Hải-Lục-Không-quân gấp bội của VNCH.
Một điểm hãnh diện cho Hải quân VNCH lúc bấy giờ là đã không những phải sát cánh với lực lượng bạn chống lại kẻ nội thù là cộng sản (CS) miền bắc trong nội địa, lại vừa phải bảo vệ những hải đảo xa xôi, mà lại còn phải chiến đấu chống kẻ xâm lăng, đã từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch sử lập quốc và dành quyền độc lập của xứ sở.
So-sánh với các cuộc hành quân ngoại biên vào các năm 1970-71 của Quân lực VNCH sang đất Kampuchia và Hạ Lào, thì quân lực ta chỉ chiến đấu ngang ngửa vơi CSVN ẩn náu trên đất nước láng giềng mà thôi. Phải thành khẩn mà nhận rằng Hải quân VNCH ngoài nội thù còn phải chống ngoại xâm mà đã rất khó tiên liệu để chuẩn bị một cuộc chiến chống lại một lực lượng Hải quân Trung cộng tương đối dồi dào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. HQVN ta đã có những gánh nặng về hành quân để yểm trợ lực lượng bạn và hành quân ngăn chận các vụ chuyển quân lén lút của Việt cộng qua biên giới Miên Việt trong vùng sông ngòi cũng như các vụ tiếp tế quân dụng của chúng vào vùng duyên hải.
Trước khi đi vào chi tiết của trận hải chiến lịch sử này, chúng ta thử nhắc sơ lược lại cấu-trúc nhân sự của thượng tầng chỉ huy và của các đơn vị tham chiến của Hải quân vào lúc biến cố:
- Tư lệnh Hải quân: Đề đốc Trần Văn Chơn
- Tư lệnh phó Hải quân: Phó Đề đốc Lâm Ngươn Tánh
- Tham mưu trưởng Hải quân: Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy
- Tư lệnh Hạm đội: Hải quân đại tá Nguyễn Xuân Sơn
- Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải: Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
- Chỉ huy trưởng Hải đội tuần dương: Hải quân đại tá Hà Văn Ngạc, (Hải-đội 3) và là sĩ quan chỉ huy chiến thuật trận hải chiến.
- Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4: Hải quân trung tá Vũ Hữu San
- Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ5: Hải quân trung tá Phạm Trọng Quỳnh
- Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16: Hải quân trung tá Lê Văn Thự
- Hạm trưởng Hộ tống hạm HQ10: Hải quân thiếu tá Ngụy Văn Thà (truy thăng Hải quân trung tá)
- Trưởng toán Hải kích đổ bộ: Hải quân đại úy Nguyễn Minh Cảnh.
LÝ DO TÔI ĐÃ CÓ MẶT TẠI HOÀNG SA
Rất nhiều chiến hữu trong Hải quân đã không rõ nguyên cớ nào mà tôi đã có mặt để đích thân chỉ huy tại chỗ trận hải chiến Hoàng Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội đồng Đô đốc chỉ định tôi tăng phái cho Vùng I duyên hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lý do tăng phái của tôi đến Vùng I duyên hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân Khu 1, tôi mới được biết nhiệm vụ chính của tôi là chuẩn bị một trận thư-hùng giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải quân Bắc-Việt mà lúc đó, tin tình báo xác nhận là Cộng sản đã được viện-trợ các cao tốc đỉnh loại Komar của Nga-sô trang bị hỏa tiễn hải hải (surface to surface).
Vào thời gian đó Hải quân VNCH chỉ có khả năng chống đỡ thụ động loại vũ khí này. Cuộc hải chiến tiên liệu có thể xẩy ra khi lực lượng Hải quân Cộng sản tràn xuống để hỗ trợ cho quân bộ của chúng khi chúng muốn tái diễn cuộc cường tập xuất phát từ phía bắc sông Bến Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn công suốt mùa hè đỏ lửa 1972.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên cứu để thiết kế. Kế hoạch chính của cuộc hải chiến này là xử dụng nhiều chiến hạm và chiến đỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt hại bằng cách trải nhiều mục tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song song với việc này là các chiến hạm và chiến đĩnh phải xử dụng đạn chiếu sáng và hỏa pháo cầm tay như là một cách chống hỏa tiễn thụ-động. Ngoài ra Hải quân cũng cần đặt ra sự yểm-trợ của pháo binh của Quân đoàn I để tác xạ ngăn chặn và tiêu diệt lực lượng Hải quân CS tại phía bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía nam để đủ tầm phóng hỏa tiễn. Sau khi đã thuyết trình tại BTL HQ Vùng I duyên hải cùng các Chỉ huy trưởng các đơn-vị duyên-phòng và duyên-đoàn, Tư lệnh HQ Vùng I duyên hải chấp thuận kế hoạch và đưa kế hoạch lên thuyết trình tai BTL Quân-đoànI và Quân-Khu I.Buổi thuyết-trình tại BTL/Quân-đoàn I do đích thân trung tướng Ngô Quang Trưởng chủ tọa, ngoài Tư lệnh HQ Vùng I duyên hải còn có đại tá Hà Mai Việt trưởng phòng 3 Quân đoàn, đại tá Khiêu Hữu Diêu, đại tá Nguyễn Văn Chung chỉ huy trưởng pháo binh Quân đoàn và một số rất ít các sĩ quan phụ tá. Nhu cầu yểm trợ pháo binh cho cuộc hải chiến được chấp thuận ngay và chỉ huy trưởng pháo binh Quân đoàn hứa sẽ phối trí pháo binh, đặc biệt là pháo binh 175 ly để thỏa mãn kế hoạch của Hải quân, khi được yêu cầu. Kể từ khi được chỉ định tăng phái, tôi thường có mặt tai Vùng I duyên hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công việc của tôi tại Hải đội, nhưng chưa lần nào BTL HQ, BTL Hạm đội hoặc Vùng I Duyên hải chỉ thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường tìm hiểu tình hình tổng quát tại Quân khu I cũng như đi hoặc tháp-tùng Tư lệnh HQ vùng I duyên hải thăm viếng các đơn vị lục quân bạn cấp sư đoàn, lữ đoàn hay trung đoàn.
Trở lại trận hải chiến Hoàng Sa, vào khoảng ngày 11 tháng Giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger rời Trung cộng, thì đột nhiên Ngoại trưởng Trung cộng lại một lần nữa tuyên bố về chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng và Trường Sa. Tôi rất lưu-ý tin này vì tôi đã chỉ huy công-cuộc đặt quân trú-phòng đầu tiên trên đảo Nam Yết vùng Trường Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau, vì Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc còn bận công cán ngoại quốc, thì phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH bác bỏ luận cứ của Trung cộng và tái xác nhận một lần nữa chủ quyền của VNCH trên các quần đảo đó.
Ngày 16 tháng 1 năm 1974, tôi từ Sài Gòn đi Vũng Tàu để chủ tọa lễ trao quyền chỉ huy Tuần dương hạm HQ5 Trần Bình Trọng đang neo tại chỗ, cho tân hạm trưởng là HQ trung tá Phạm Trọng Quỳnh (tôi không còn nhớ tên cựu hạm trưởng). Khi trở về Sài Gòn, lúc theo dõi bản tin tức hàng ngày của đài truyền-hình thì thấy Ngoại trưởng Vương Văn Bắc hùng hồn và nghiêm trọng khi tuyên bố chủ quyền của VNCH trên 2 quần đảo Hoàng và Trường Sa. Tôi thấy có chuyện bất ổn có thể xẩy ra tại Vùng I duyên hải nhất là Việt cộng có lẽ được Trung cộng hỗ trợ tạo ra tình thế rắc rối ngoài hải đảo để thu hút lực lượng của HQVN, và đương nhiên CS sẽ lợi dụng để tràn xuống dưới vĩ tuyến 17 như đã dự liệu.
Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông báo đến Tư lệnh Hạm đội; tôi lên phi trường Tân Sơn Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng không quân sự. Tôi gặp ngay một vị thượng sĩ Không quân trưởng trạm và nói là tôi cần đi gắp ra Đà Nẵng. Vị thượng sĩ trình với tôi là danh sách hành khách đã đầy đủ cho chuyến bay và giới thiệu tôi gặp vị trung úy phi công trưởng phi cơ C130. Sau khi trình bày lý do khẩn cấp đi Đà Nẵng của tôi, vị phi công trưởng trang trọng mời tôi lên phi cơ ngồi vào ghế phụ trong phòng phi công.
Đến Đà Nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện thoại cho HQ đại tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư lệnh phó Vùng cho xe đón tôi tại phi trường. Đến BTL/HQ Vùng I duyên hải tôi mới được biết chi tiết những gì đang xảy ra tại Hoàng Sa, và được biết thêm là chiếc tuần dương hạm HQ5, mà tôi vừa chủ tọa trao quyền chỉ huy ngày hôm qua tại VũngTàu sẽ có mặt tại quân cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt đội hải kích.
Tư lệnh HQ vùng I duyên hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ bút của Tổng thống vừa tới thăm bản doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi tiết cũng như xin xem thủ bút vì tôi nghĩ đó là chỉ thị riêng tư giữa Tổng thống và một vị Tướng lãnh. Vị Tư lệnh này còn cho tôi hai chọn lựa: một là chỉ huy các chiến hạm ngay tại BTL Vùng, hai là đích thân trên chiến hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn vị của tôi. Từ ngày được thuyên chuyển về Hạm đội, không như các vị tiền nhiệm, tôi thường xa Bộ chỉ huy để đi theo các chiến hạm trong công tác tuần dương. Mỗi chuyến công tác, sự hiện diện của tôi đã mang lại cho nhân viên chiến hạm niềm phấn khởi sau nhiều ngày phải xa căn cứ. Tôi thường lưu ý các vị hạm trưởng đến việc huấn huyện nội bộ hoặc thao dượt chiến thuật với chiến hạm khác khi được phép.
Đến khoảng buổi chiều thì Tư lệnh vùng I duyên hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một chiến hạm nữa vì cần hai chiếc khi di chuyển trong trường hợp bị tấn công trên hải trình, chứ không phải vì số lượng chiến hạm Trung cộng đang có mặt tại Hoàng Sa. Chiếc Hộ tống hạm (PCE) HQ10 Nhựt Tảo được chỉ định xung vào Hải đoàn đặc nhiệm, với lý do chính là chiếc Hộ tống hạm này đang tuần dương ngay khu vực cửa khẩu Đà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển, chiến hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi. Ngoài ra vị Tư lệnh HQ vùng còn tăng phái cho tôi HQ thiếu tá Toàn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ thiếu tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi chưa biết khả năng nên trong suốt thời gian tăng phái tôi chỉ trao nhiệm vụ giữ liên lạc với các BTL cho vị sĩ quan này. Tôi dùng cơm chiều gia đình cùng Tư lệnh HQ Vùng tại tư thất trong khi chờ đợi Tuần dương hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư lệnh HQ Vùng đích thân đi bộ tiễn chân tôi ra cầu quân cảng. Sau trận chiến, vị Đô đốc này có thổ lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải chiến đã dự liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Đô đốc đã mật trình về Tư lệnh Hải quân thường có mặt tại BTL.
Tuần dương hạm HQ5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm vụ đi tới Hoàng Sa cho Hạm trưởng HQ5 là vị hạm trưởng thâm niên hơn. (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm trưởng HQ5 là trung tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm niên hơn Hạm trưởng HQ5 là thiếu tá Thà thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện diện của tôi trên chiến hạm này đã làm tân hạm trưởng, vừa nhậm chức 2 ngày trước, được vững tâm hơn vì chắc tân hạm trưởng chưa nắm vững được tình trạng chiến hạm cũng như nhân viên thuộc hạ. Các chiến hạm đều giữ im lặng vô tuyến ngoại trừ các báo cáo định kỳ về vị trí.
NHỮNG DIỄN TIẾN NGÀY HÔM TRƯỚC TRẬN HẢI CHIẾN
Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến hạm HQ5 và HQ10 đã đến gần Hoàng Sa, và trong tầm âm thoại bằng máy VRC46 (hậu thân của máy PRC25 nhưng với công xuất mạnh hơn) để liên lạc bằng bạch văn, vì tầm hữu hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm trưởng HQ4 HQ trung tá Vũ hữu San, lúc đó đang là sĩ quan thâm niên hiện diện, để được am tường thêm tình hình cũng như thông báo về sự hiện diện của tôi, vừa là Chỉ huy trưởng Hải đội vừa là để thay thế quyền chỉ huy mọi hoạt động, theo đúng thủ tục ghi trong Hải quy.
Sau khi được trình bầy chi tiết các diễn tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm trưởng này và chia sẻ những khó khăn mà vị này đã trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng.
Vào khoảng xế trưa, thì cả 4 chiến hạm (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập trung trong vùng lòng chảo của quần đảo Hoàng Sa và Hải đoàn đặc nhiệm được thành hình. Nhóm chiến binh thuộc Tuần dương hạm HQ16 và Khu trục hạm HQ4 đã đổ bộ và trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money) và Duy Mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vị trí phòng thủ để giữ đảo. Sau khi quan sát các chiến hạm Trung cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang Hòa (Duncan), tôi quyết định ngay là hải đoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật tập đội để tiến về phía đảo Quang Hòa với hy vọng là có thể đổ bộ hải kích như các chiến hạm ta đã làm trước đây. Lúc này trời quang đãng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả chiến hạm đều phải vào nhiệm sở tác chiến, nhưng các dàn hải pháo và vũ khí đại liên phải ở trong thế thao diễn. Khởi hành từ nam đảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hòa, 4 chiến hạm vào đội hình hàng dọc, dẫn đầu là Khu trục hạm HQ4, theo sau là tuần dương hạm HQ5 làm chuẩn hạm đã có trương hiệu kỳ hải đội, thứ ba là tuần dương hạm HQ16 và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn (tức1000 yard), phương tiện truyền tin là kỳ hiệu và quang hiệu, và âm thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử dụng để tránh hiểu lầm ám-hiệu vận chuyển chiến thuật mà thôi.
Chừng nửa giờ sau khi hải đoàn vận-chuyển vào đội-hình hướng về phía đảo Quang Hòa thì hai chiến hạm Trung cộng loại Kronstad mang số hiệu 271 và 274 bắt đầu phản-ứng bằng cách vận chuyển chặn trước hướng đi của hải đoàn, nhưng hải đoàn vẫn giữ nguyên tốc độ, trong khi đó thì hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt mìn loại T43 cùng 2 chiếc ngư thuyền ngụy trang 402 và 407, ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị trí sát bờ bắc đảo Quang Hòa. Tôi đã không chú tâm đến 2 chiếc chiến hạm nhỏ của địch vì cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa, HQ thiếu tá Trần Đỗ Cẩm truy ra theo số hiệu là loại trục lôi hạm và chắc trang bị vũ khí nhẹ hơn) còn hai chiếc tầu tiếp tế ngụy trang như ngư thuyền thì không đáng kể.
Hành động chận đường tiến của chiến hạm ta đã từng được họ xử dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến hạm ta đổ quân lên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng để xua quân của Trung cộng rời đảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên lạc bằng quang hiệu để xin liên lạc, Tuần dương hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công điện bằng Anh ngữ: "These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny" (Phần này tôi nhớ rất kỹ vì tôi có phụ nhận quang hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện khái-quát như sau: "Please leave our territorial water immediately"
Công điện của chiến hạm Trung cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công điện của Hải đoàn đặc nhiệm VNCH, và chiến hạm ta cũng tiếp tục chuyển lại công điện yêu cầu họ rời khỏi lãnh hải của VNCH.
Vì 2 chiến hạm Kronstad Trung cộng cố tình chặn đường tiến của Hải đoàn đặc nhiệm với tốc độ khá cao, nếu Hải đoàn tiếp tục tiến thêm thì rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi đưa Hải đoàn trở về phía nam đảo Hoàng Sa và vẫn giữ tình trạng ứng trực cũng như theo dõi các chiến hạm Trung cộng, họ cũng lại tiếp tục giữ vị trí như cũ tại phía bắc và tây bắc đảo Quang Hòa. Sự xuất hiện thêm 2 chiến hạm của HQVN vào trong vùng chắc chắn đã được chiếc Kronstad 271 của Trung cộng, được coi như chiến hạm chỉ huy, báo cáo về Tổng hành dinh của họ, và việc tăng viện có thể được coi như đã được chuẩn bị.
Với hành động quyết liệt ngăn chặn ta không tiến được đến đảo Quang Hòa, tôi cho rằng họ muốn cố thủ đảo này. Việc đổ bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi hy vọng, chỉ có thể phải thực hiện bất thần để tránh hành động ngăn chặn của họ và có lực lượng hải kích với trang phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng bộ, như Tuần dương hạm HQ16 và Khu trục hạm HQ4 đã thành công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn công thay vì nhượng bộ, Hải đoàn đặc nhiệm buộc phải sẵn sàng chống trả.
Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu cầu Tuần dương hạm HQ16 chuyển phái đoàn công binh của Quân đoàn I sang Tuần dương hạm HQ 5 bằng xuồng. Phái đoàn công binh Quân đoàn I do thiếu tá Hồng hướng dẫn đã vào gặp tôi tại phòng ăn sĩ quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng. Tôi cho cả hai hay là tình hình sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng độ nên tôi không muốn các nhân viên không Hải quân có mặt trên chiến hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu Tuần dương hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lương khô. Riêng ông Kosh thì tôi yêu cầu Hạm trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả phái đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về đảo Hoàng Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu cầu ông cho trả lại Tuần dương hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan vì thuốc lá này thuộc quân tiếp-vụ của chiến hạm xuất ra ứng trước. Riêng thiếu tá Hồng thì tôi đã có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông thì ông đã viết xong vào trước năm 1975, một cuốn ký sự về thời gian bị bắt làm tù binh trong lục địa Trung Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho xuất bản vì chưa phải lúc thuận tiện. Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực tiếp nói chuyện bằng vô tuyến với tất cả hạm trưởng để cho hay là tình hình sẽ khó tránh được một cuộc đụng độ, và yêu cầu các vị này chuẩn bị các chiến hạm và huy động tinh thần nhân viên để sẵn sàng chiến đấu. Tôi biết rõ cuộc chiến nếu xẩy ra thì tất cả nhân viên đều không đủ kinh nghiệm cho các cuộc hải chiến, vì từ lâu các chiến hạm chỉ chú tâm và đã thuần thuộc trong công tác tuần dương ngăn chặn hoặc yểm trợ hải pháo mà thôi, nếu có những nhân viên đã phục-vụ trong các giang đoàn tại các vùng sông ngòi thì họ chỉ có những kinh nghiệm về chiến đấu chống các mục tiêu trên bờ và với vũ khí tương đối nhẹ hơn và dễ dàng trấn áp đối phương bằng hỏa lực hùng hậu.
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành quân, tôi không còn nhớ được xuất xứ, có thể là của Vùng I duyên hải, được chuyển mã hóa trên băng tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1). Lệnh hành quân vừa được nhận vừa mã dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rõ quan niệm hành quân như sau: tái chiếm một cách hòa bình đảo Quang Hòa. Lệnh hành quân cũng không ghi tình hình địch và lực lượng trừ bị nhưng những kinh nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm nhận trách vụ Tham mưu phó hành quân tại BTL/HQ, tôi dự đoán Trung cộng, vì đã thiết lập một căn cứ tiền phưong tại đảo Phú Lâm thuộc nhóm Tuyên Đức nằm về phía đông bắc đảo Hoàng Sa sát vĩ tuyến 17, nên họ đã có thể đã phối trí tại đây lực lượng trừ bị, và hơn nữa trên đảo Hải Nam còn có một căn cứ Hải quân rất lớn và một không lực hùng hậu với các phi cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Đà Nẵng ra. Việc Trung cộng lấn chiếm những đảo không có quân trú phòng của ta trong vùng Hoàng Sa, đã phải được họ chuẩn bị và thiết kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên bố chủ quyền. Trong khi đó việc HQVNCH phát hiện sự hiện diện của họ chỉ có từ khi Tuần dương hạm HQ16 được lệnh đến thăm viếng định kỳ và chở theo phái đoàn Công binh Quân đoàn I ra thám sát đảo để dự kiến việc thiết lập một phi đạo ngắn.
Ngay sau khi hoàn tất nhận lệnh hành quân, tôi chia Hải đoàn thành hai phân đoàn đặc nhiệm: Phân đoàn I là nỗ lực chính gồm Khu trục hạm HQ4 và Tuần dương hạm HQ5 do Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4 chỉ huy; Phân đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần dương hạm HQ16 và Hộ tống hạm HQ10 do Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16 chỉ huy. Nhiệm vụ là phân đoàn II giữ nguyên vị trí trong lòng chảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hòa vào buổi sáng. Phân-đoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang Hòa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ bộ biệt đội hải kích. Phân đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần đảo thay vì đi thẳng từ đảo Hoàng Sa xuống đảo Quang Hòa là để tránh việc các chiến hạm Trung cộng có thể lại vận chuyển ngăn chặn đường tiến của chiến hạm như họ đã làm vào buổi chiều, vả lại việc hải hành tập đội về đêm trong vùng có bãi cạn và đá ngầm có thể gây trở ngại cho các chiến hạm, nhất là Khu trục hạm còn có bồn SONAR (máy dò tiềm thủy đĩnh), hy vọng hải trình như vậy sẽ tạo được yếu tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông bắc, việc đổ bộ vào phía tây nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng bè. Nên ghi nhận tại điểm này là kể từ năm 1973, toán cố vấn HQ Hoa Kỳ tại Hạm đội mà trưởng toán là HQ đại tá Hamn (tên họ) đã nhiều lần yêu cầu tháo gỡ máy Sonar trên các khu trục hạm. Phó đề đốc Nguyễn Thành Châu (lúc đó còn mang cấp HQ đại tá) Tư lệnh Hạm đội đã trao nhiệm vụ cho tôi thuyết phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn luyện. Mãi đến khi HQ đại tá Nguyễn Xuân Sơn nhận chức Tư lệnh Hạm đội một thời gian, tôi vẫn tiếp tục liên lạc với toán cố vấn, và sau cùng họ mới bằng lòng giữ máy lại với tính cách để huấn luyện. Thực ra một khu trục hạm mà thiếu máy thám xuất tiềm thủy đĩnh thì khả năng tuần thám và tấn công sẽ giảm đi nhiều.
DIỄN TIẾN TRẬN HẢI CHIẾN NGÀY 19 THÁNG 1 NĂM 1974
Đúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân đoàn I đã có mặt tại tây nam đảo Quang Hòa, thủy triều lớn, tầm quan sát trong vòng 1.50 đến non 2.00 hải lý, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió đông bắc thổi nhẹ, biển tương đối êm tuy có sóng ngầm. Phân đoàn I tiến sát đảo khoảng hơn 1 hải lý, Tuần dương hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận tiện đổ bộ hải kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rõ rệt nên thấy họ đã vận chuyển lúng túng và không thực hiện được hành động ngăn cản như họ đã từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất ngờ là hai chiếc chủ lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵn sàng đối đầu mà tôi không phải tìm kiếm họ, như tôi đã coi họ như là muc tiêu chính. Họ đã phải luồn ra khỏi khu lòng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dõi được đuờng tiến quân của Phân đoàn I hay không. Vào giờ này thì họ đã phải biết rõ là Tuần dương hạm HQ5 là chiến hạm chỉ huy của ta và cũng đã phải biết được hỏa lực của chiếc khu trục hạm.
Biệt đội hải kích do HQ đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy đã được tôi chỉ thị là không được nổ súng và lên bờ yêu cầu toán quân của họ rời đảo. Trong biệt đội này có một chiến sĩ hải kích Đỗ Văn Long và luôn cả HQ đại úy Nguyễn Minh Cảnh là những chiến sĩ đã tham dự cuộc hành quân đầu tiên Trần Hưng Đạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ huy để xây cất doanh trại và đặt quân trú phòng đầu-tiên trên đảo Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa vào cuối mùa hè năm 1973.
Một lần nữa, khi biệt đội hải kích xuồng xuồng cao su, tôi đích thân ra cầu thang căn dặn và nhấn mạnh về việc đổ bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên lạc được với họ thì yêu cầu họ rời khỏi đảo.
Tôi không chắc là cuộc đổ bộ sẽ thành công vì quân Trung cộng trên đảo đã phải tổ chức bố phòng cẩn mật tiếp theo sự thất bại của họ trên các đảo khác đã nói ở trên, trong khi đó biệt đội hải kích lại không có được hỏa lực chuẩn bị bãi đổ-bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ thị cho các hạm trưởng chuẩn bị để chiến đấu. Nếu cuộc đổ bộ thất bại thì với hỏa lực của 2 khẩu 76 ly tự động trên Khu trục hạm HQ4, một chiến hạm chủ lực của Hải đoàn đặc nhiệm, sẽ có đủ khả năng loại ít nhất là hai chiến hạm chủ lực Trung cộng ra khỏi vòng chiến không mấy khó khăn, còn quân bộ của Trung cộng trên đảo thì tôi tin chỉ là một mục tiêu thanh toán sau cùng. Tôi còn có ý định là sẽ điều động chiếc khu trục hạm vượt vùng hơi cạn trực chỉ hướng bắc vào thẳng vùng lòng chảo để tăng cường cho Phân đoàn II nếu cần sau khi đã loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn luôn cho là mục tiêu chính. Tôi rất vững lòng vào hỏa lực của chiến hạm chủ lực vì tôi đã được tường trình đầy đủ về khả năng của hải pháo 76 ly tự động khi Khu trục hạm này yểm trợ hải pháo tại vùng Sa Huỳnh trong nhiệm kỳ hạm trưởng của HQ trung tá Nguyễn Quang Tộ.
Biệt đội hải kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao su, từ chiến hạm ta, việc quan sát sự bố phòng của Trung cộng trên đảo không được rõ ràng. Các chiến hạm Trung cộng cũng không có phản ứng gì đối với xuồng của hải kích. Theo báo cáo của Biệt đội trưởng hải kích thì chiến sĩ hải kích Đỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa-lực trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển. HQ trung úy Lê Văn Đơn (xuất thân từ bộ binh) tiến vào để thâu hồi tử thi của liệt sĩ Long cũng lại bị tử thương ngay gần xuồng nên tử thi vị sĩ-quan này được thâuhồi ngay. Việc thất bại đổ bộ được báo cáo ngay về BTL HQ vùng I duyên hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư lệnh HQ VNCH hay Tư lệnh Vùng I duyên hải ra lệnh vắn tắt có hai chữ: "khia hỏa" bằng bạch văn cho Hải đoàn đặc nhiệm và không có chi tiết gì khác hơn.
Tôi nhận biết được khẩu lệnh trên băng siêu tần số SSB (single side band) không phải là của nhân viên vô tuyến mà phải là của cấp Đô đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư lệnh Hải quân mà tôi đã quen thuộc giọng nói, nên tôi đã không kiểm chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên tâm hơn vì khẩu lệnh khai hỏa đã giải tỏa trách nhiệm của tôi ghi trong phần quan niệm của lệnh hành quân là tái chiếm một cách hòa bình. Tôi đích thân vào máy siêu tần số trình ngay là chưa có thể khai hỏa được vì phải chờ triệt thối Biệt đội hải kích về chiến hạm, họ còn trên mặt biển và ở vào vị thế rất nguy hiểm. Riêng tử thi của liệt sĩ hải kích Đỗ Văn Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương vong. Tôi tin rằng tử thi của liệt sĩ Long sẽ không khó khăn để thâu hồi khi toán quân bộ Trung cộng được tiêu diệt sau đợt các chiến hạm của họ bị loại hoàn toàn khỏi vòng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt đội hải kích được hoàn tất thu hồi về Tuần dương hạm HQ5 với HQ trung úy Lê Văn Đơn tử thương. Trong khi đó thì tôi chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn công, mỗi chiến hạm tấn công một chiến hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), vì loại hải pháo này có nhịp tác xạ cao, dễ điều chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin tưởng nhiều vào hải pháo 127 ly và khả năng điều khiển chính xác của nhân viên vì hải pháo chỉ có thể tác xạ từng phát một, nạp đạn nặng nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực xạ.
Tất cả các chiến hạm phải cùng khai hỏa một lúc theo lệnh khai hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt hại trước cho các chiến hạm Trung cộng. Vì tầm quan sát còn rất hạn chế, nên từ Tuần dương hạm HQ5 không quan sát được Tuần dương hạm HQ16 và Hộ tống hạm HQ10 cũng như hai chiến hạm khác và hai ngư thuyền ngụy trang của Trung cộng nên tôi không rõ các chiến hạm này bám sát các chiến hạm Trung cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đã tin rằng Phân đoàn II không có bận tâm về việc đổ bộ nên có nhiều thì giờ hơn để thi hành kế hoạch tấn công và sẽ dễ dàng chế ngự được hai chiến hạm phụ của địch cùng hai ngư thuyền. Riêng Tuần dương hạm HQ5 và Khu trục hạm HQ4 đã nghiêm chỉnh thi hành lệnh. Trước khi ban hành lệnh khai hỏa tôi hỏi các chiến hạm đã sẵn sàng chưa và nhấn mạnh một lần nữa là phải khai hỏa đồng loạt để đạt yếu tố bất ngờ. Các hạm trưởng đích thân trên máy VRC46 lần lượt báo cáo sẵn sàng. Tôi rất phấn khởi vì giờ tấn công hoàn toàn do tôi tự do quyết định, không phải lệ thuộc vào lệnh của thượng cấp và vào ý-đồ chiến thuật của địch. Địch lúc này đã tỏ ra không có một ý định gì cản trở hay tấn công chiến hạm ta.
Hải quân đại tá Đỗ Kiểm, Tham mưu phó hành quân tại BTL HQ còn đặc biệt cho tôi hay là có chiến hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu biết của tôi, tôi không có một chút tin tưởng gì vào đồng minh này vì kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa Kỳ và Trung cộng đã chấm dứt sự thù nghịch nên Hải quân của họ sẽ không một lý do gì lại tham dự vào việc hỗ trợ HQVN trong vụ tranh chấp về lãnh thổ. Họa chăng họ có thể cứu vớt những người sống sót nếu các chiến hạm HQVN lâm nạn. Nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc tìm kiếm những nhân viên từ Hộ tống hạm HQ10 và các toán đã đổ bộ lên trấn giữ các đảo đã đào thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành động nhân đạo nào từ phía đồng minh kể cả của phi cơ không tuần.
Khoảng 10:24 sáng thì lệnh khia hỏa tấn công được ban hành và tôi vào trung tâm chiến báo trực tiếp báo cáo bằng máy siêu tần số SSB, tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải pháo cũng được truyền đi trên hệ thống này. Cuộc khai hỏa tấn công đã đạt được yếu tố bất ngờ cho các chiến hạm địch vì tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành động của chiến hạm cũng tương tự như trong những vài ngày trước, khi HQVN đổ quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng và nhất là cuộc phô diễn lực lượng của hải đoàn đặc nhiệm ngày hôm trước HQVN đã không có một hành động khiêu khích nào, mà còn chấp thuận giữ liên lạc bằng quang hiệu.
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang Hòa, hướng mũi về phía tây là mục tiêu của Tuần dương hạm HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía đông, đặt mục tiêu về phía tả hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận chuyển rất chậm chạp nên đã là mục tiêu rất tốt cho Tuần dương hạm HQ5. Hỏa lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt hại cho Tuần dương hạm HQ5, nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho Hộ tống hạm HQ10 nằm về phía bắc. Khu trục hạm HQ4 nằm về phía tây nam của Tuần dương hạm HQ5 đặt mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía bắc tức là tả hạm của chiến hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa. Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của tôi và làm tôi bối rối. Sau vài phút thì chiến hạm này xin bắn thử và kết quả là vẫn bị trở ngại và cần tiếp tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn còn chút hy vọng. Khu trục hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết quả, tuy nhiên chiến hạm này vẫn phải tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm các loại đại liên nên đã bị thiệt hại nhiều bởi hỏa lực của chiếc Kronstad 274, và đại liên đã không áp đảo được hỏa lực của địch.
Trên Tuần dương hạm HQ5, tôi xử dụng chiếc máy PRC25 trước ghế hạm trưởng bên hữu hạm của đài chỉ huy để liên lạc với các chiến hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan sát hai phía thì một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận trung tâm chiến báo để dùng máy VRC46. Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ huy bên tả hạm với sĩ quan hải pháo để dễ quan sát mục tiêu được chỉ định, nên tôi thường nói trực tiếp với hạm trưởng tại nơi này. Trung tâm chiến báo của chiến hạm này chỉ quen thuộc dùng radar vào việc hải hành, vả lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều nhiễu xạ nên tôi không được rõ về vị trí của Phân-đoàn II và các chiến hạm của địch còn nằm trong khu lòng chảo Hoàng Sa.
Sau chừng 15 phút thì Tuần dương hạm HQ16 báo cáo là bị trúng đạn hầm máy, tầu bị nghiêng nên khả năng vận chuyển giảm sút, buộc phải lui ra ngoài vòng chiến để sửa chữa và cũng không còn liên lạc được với Hộ tống hạm HQ10, không biết rõ tình trạng và chỉ thấy nhân viên đang đào thoát. Tôi nhận thấy một tuần dương-hạm đã vận chuyển nặng nề mà chỉ còn một máy và bị nghiêng, nếu tiếp tục chiến đấu thì sẽ là một mục tiêu tốt cho địch, nên tôi đã không ra phản lệnh. Ngoài ra, Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16 là một vị sĩ quan ít tích cực hơn, nên tôi không mấy tin tưởng là vị này có thể vượt qua được các khó khăn kỹ thuật để cố gắng tiếp tục tấn công. Khu trục hạm HQ4 đã bị thiệt hại nhiều sau khi phải bám sát chiến hạm địch trong tầm đại liên, nên tôi ra lệnh cho Khu trục hạm HQ4 phải rút ra khỏi vòng chiến ngay và chỉ thị cho Tuần dương hạm HQ5 yểm trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, vì tất nhiên Hải đội đặc nhiệm không thể để bị thiệt hại một khu trục hạm mà Hải quân VNCH chỉ có tổng cộng 2 chiếc mà thôi.
Khi khu trục hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy kích hoặc tác xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn công Tuần dương hạm HQ5 vào phía hữuhạm hầu giảm bớt hỏa lực của chiến hạm ta như để cứu vãn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này thì tin tức từ BTL Hải quân tại Sài Gòn do chính Tham mưu phó hành quân cho hay là một phi đội khu trục cơ F5 đã cất cánh để yểm trợ cho Hải đoàn đặc nhiệm. Do sự liên lạc từ trước với BTL sư đoàn I Không quân tại Đà Nẵng, tôi hiểu là phi cơ F5 chỉ có thể yểm trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng cách từ Đà Nẵng tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ cất cánh, BTL Hải quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp nào giữa Không quân và Hải quân nên tôi rất lo âu về sự nhận dạng của phi công để phân biệt giữa chiến hạm của HQVN và chiến hạm Trung cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi cơ có thể gây tác xạ nhầm mục tiêu. Máy VRC 46 trong trung tâm chiến báo phải chuyển sang tần số không hải và đích thân tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc với phi cơ. Một viên đạn xuyên nổ trúng ngay trung tâm chiến báo từ hữu hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung tâm bị phát hỏa. Các nhân viên trong trung tâm còn mãi núp sau bàn hải đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa.
Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp tục liên lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần số về liên lạc với các chiến hạm khác vì cuộc giao tranh đã đến độ khốc liệt hơn. Sau phút này thì Tuần dương hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ quan trưởng khẩu 127 ly tử thương và hải pháo bị bất khiển-dụng vì phần điện điều khiển pháo tháp tê liệt, và máy siêu tần số SSB không còn liên lạc được vì giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu kỳ hải đội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan sát phía tả hạm và được nghe báo cáo là hầm đạm phát hỏa. Tôi nói ngay với hạm trưởng là cần phải làm ngập hầm đạn. Khẩu hải pháo 40 ly đơn tả hạm bị bất khiển dụng vì bị trúng đạn vào khối nạp đạn và khẩu 40 ly hữu hạm bị hư hại nhẹ. Tôi yêu cầu hạm trưởng là chỉ nên cho tác xạ từng viên mà thôi, vì nhu cầu phòng không rất có thể xẩy ra trong một thời gian ngắn.
Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiễn loại hải hải (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao, quan sát được bằng mắt viễn kính và không một chiến hạm nào báo-cáo khám phá được bằng radar từ xa. Tôi dự đoán loại chiến hạm này ít khi được điều động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với tình trạng của Hải đội đăc nhiệm: một hộ tống hạm bị loại khỏi vòng chiến; một tuần dương hạm bị thương nơi hầm máy; một khu trục hạm và một tuần dương hạm chỉ còn hỏa lực rất hạn chế; cộng với nguycơ bị tấn công bằng cả hỏa tiễn hải hải cũng như bằng phi cơ rất có thể xẩy ra, nên tôi triệt thoái phần còn lại của lực lượng là Khu trục hạm HQ4 và Tuần dương hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng Sa tiến hướng đông nam về phía Subic Bay (Hải quân công xưởng của Hoa-Kỳ tại Phi Luật Tân). Tôi cũng cầu nguyện Đức Thánh Trần, Thánh Tổ của HQVNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan sát và khả năng tấn công của phi cơ địch. Sau khi hai chiến hạm còn lại rút ra khỏi vùng giao tranh chừng 10 phút thì một trận mưa nhẹ đã đổ xuống toàn vùng quần đảo Hoàng Sa. Các chiến hạm ta đã không bị truy kích và phi cơ địch cũng chưa xuất hiện. Mục đích tôi hướng về phía đông nam là để tránh bị phục kích của tiềm thủy đĩnh Trung cộng tại hải trình Hoàng Sa Đà Nẵng, và khi ra ngoài xa lãnh hải thì nếu còn bị tấn công bằng phi cơ hoặc tiềm thủy đĩnh thì may ra đồng minh Hải quân Hoa Kỳ có thể cấp cứu chúng tôi dễ dàng hơn theo tinh thần cấp cứu hàng hải quốc tế. Nếu chúng tôi không còn bị tấn công thì việc đến Subic Bay Phi Luật Tân để xin sửa chữa trước khi hồi hương là một điều khả dĩ được thượng cấp chấp thuận.
Tuần dương hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn cấp để tái lập sự liên lạc bằng máy siêu tần số SSB. Hầm đạn phía mũi của chiến hạm đã bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc độ có bị thuyên giảm. Chính trong thời gian mất liên lạc, BTL tại Sài Gòn cũng như tại Đà Nẵng rất bối rối cho sự an toàn của hai chiến hạm và bản thân tôi. Chính Tư lệnh Hạm đội tại Sài Gòn cũng đã đưa tin mất liên lạc đến với gia đình tôi.
Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến hạm HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng Sa chừng 10 hải lý, trời nắng và quang đãng. Tư lệnh Hải quân đích thân ra lệnh cho cả hai chiến hạm phải trở lại Hoàng Sa và đánh chìm nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Đô đốc. Lệnh đã được thi hành nghiêm chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên lạc vô tuyến siêu tần số được điều hòa trở lại thì mọi báo cáo chi tiết về tổn thất và tình trạng lúc bấy giờ của các hai chiến hạm được chuyển đầy đủ. Trên Tuần dương hạm HQ5 tôi cũng được thông báo về Tuần dương hạm HQ16 sẽ được Tuần dương hạm HQ6 tới hộ tống về Căn cứ Hải quân Đà Nẵng.
Đến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai chiến hạm đang trở về Hoàng Sa, quá ngang hòn Tri Tôn, nghĩa là còn cách đảo Hoàng Sa chừng 1 giờ rưỡi hải hành nữa, thì hai chiến hạm được phản lệnh trở về Đà Nẵng. Lúc này trời đã nắng, mây cao nên rất dễ dàng cho việc hải hành. Trong một cuộc đến thăm Tư lệnh HQVNCH tại tư dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, thì vị Đô đốc này đã tiết lộ rằng nếu biết được sớm tình trạng của Hải đoàn đặc nhiệm thì Tư lệnh đã cho lệnh trở về căn cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các chiến hạm giữ nguyên nhiệm sở tác chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm sở phòng máy phải túc trực trên boong để tránh tổn thất về nhân mạng trong trường hợp bị tiềm thủy đĩnh Trung cộng phục kích bằng ngư lôi. Nhưng may mắn là điều tôi dự liệu đã không xẩy ra. Các chiến hạm đã khởi sự ngay thu dọn các tổn thất về vật liệu và thu hồi các dư liệu tác xạ.
Tôi tò mò mở đài phát thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, thì họ chỉ vỏn vẹn loan tin một trận hải chiến đã xẩy ra trong vùng quần đảo Hoàng Sa giữa Hải quân VNCH và Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, mỗi bên thiệt hại 1 chiến hạm và không thêm một chi tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm phục đài nay về sự loan tin nhanh chóng và xác đáng.
Tôi đã không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh thần bớt căng thẳng sau gần 48 tiếng đồng hồ liên tục không được nghỉ ngơi, tôi yêu cầu Hạm trưởng dùng hệ thống liên hợp để loan báo xem có nhân viên nào còn thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các nhân viên tuần tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu phần C của đồng minh và các loại thuốc trong thương trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm động về sự ưu ái của các nhân viên trên chiến hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn thoản một sơ đồ hành quân và các chi tiết về tổn thất để chuẩn bị thuyết trình khi về tới căn cứ.
Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1 thì hai chiến hạm của Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm HQ16 cũng đã về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các nhân viên của các chiến hạm và riêng tôi rất cảm động là trên cầu thương cảng Đà Nẵng là nơi đã được chỉ định cho các chiến hạm cặp bến, đã có sự hiện diện của các vị Đô đốc Tư lệnh và Tư lệnh phó HQVNCH, Đô đốc Tư lệnh HQ Vùng I Duyên hải, một số đông sĩ quan cùng nhân viên của các đơn vị Hải quân vùng Đà Nẵng cùng các trại gia binh đã túc trực đón đoàn chiến hạm trở về với rừng biểu-ngữ:
"Hải quânViệt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng".
"Một ý chí: chống Cộng. Một lời thề: bảo vệ quê hương".
"Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ
Hải quân tham dự Hải chiến Hoàng Sa".
"Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ hải chiến Hoàng Sa".
Sau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có 3 vị Đô đốc cùng HQ đại tá Nguyễn Viết Tân Chỉ huy trưởng Sở Phòng vệ Duyên hải lên Tuần dương hạm HQ5 và vào phòng khách của Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng đều có mặt để trình bầy chi-tiết về chiến hạm của mình. Các vị Đô đốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu tố đã đưa đến những quyết định chiến thuật của tôi, nhất là quyết định triệt thoái phần còn lại của Hải đoàn đặc nhiệm ra khỏi vùng Hoàng Sa. Sau phần thuyết trình các vị Đô đốc đã đi quan sát sự thiệt hại của các chiến hạm và ủy lạo nhân viên các cấp. Tôi cũng được nghe Đô đốc Tư lệnh phó đề nghị với Tư lệnh HQ là sẽ không có thuyết-trình cho Tư lệnh Quân đoàn I.
Sau chừng một giờ thì trung tướng Tư lệnh Quân đoàn I Quân Khu I cũng tới thăm viếng và được hướng dẫn quan sát một vòng các chiến hạm để nhận định sự thiệt hại.
KẾT QUẢ CỦA TRẬN HẢI CHIẾN
Hoàng Sa Vị Quốc Vong Thân
Một cách tổng quát thì sự thiệt hại của hai đối thủ được kể như tương đương trong trận hải chiến. Mỗi bên bị tổn thất một chiến hạm, như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ tống hạm HQ10, phía Trung cộng là chiếc Kronstad 271 (được coi là chiến hạm chỉ huy) còn một số khác thì chịu một sự hư hại trung bình hoặc trên trung bình. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang theo tôi ước lượng chỉ hư hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hỏa lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn thất nhiều nhân viên hơn vì trúng nhiều hải pháo của Tuần dương hạm HQ5 vào thương tầng kiến trúc, trong khi đó chiếc 274 thì tổn thất được coi là nhẹ hơn cả vì chỉ bị tấn công nhiều bằng đại liên và ít hải pháo về sau này. Tuy nhiên trong các trận hải chiến thì người ta thường kể về số chiến hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là số thương vong về nhân mạng. Riêng trên Hộ tống hạm HQ10, theo các nhân viên đã đào thoát về được đất liền, thì vị Hạm trưởng và Hạm phó đều bị thương nặng, nhưng Hạm trưởng đã từ chối di tản và quyết ở lại tuẫn tiết cùng chiến hạm của mình theo truyền thống của một sĩ quan Hải quân và một nhà hàng hải. Hạm phó được nhân viên dìu đào thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt biển vì vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc tiên sinh, thì khi Hải quân Pháp hành quân trên sông (nếu không lầm thì là Sông Đáy) một chiến hạm loại trợ chiến hạm (LSSL) hay Giang pháo hạm (LSIL) đã bị trúng đạn đài chỉ huy, làm tử thương cả hai hạm trưởng và hạm phó cùng một lúc, sĩ quan cơ khí đã phải lên thay thế tiếp tục chỉ huy. Sau kinh nghiệm này, Hải quân Pháp không cho hạm trưởng và hạm phó có mặt cùng một nơi khi lâm trận. Cá nhân tôi lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh nghiệm mà các bậc tiên sinh đã truyền lại tôi mà áp dụng.
Một điều lạ là Trung cộng có đủ khả năng tuy khiêm nhượng, vào lúc cuối trận chiến, vì có thêm tăng viện đến kịp thời, nhưng đã bỏ rơi cơ-hội truy kích khi lực lượng ta triệt thoái, hay xử dụng hỏa tiễn hải hải vì lực lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu hiệu của loại vũ khí này. Tôi cho rằng có thể họ đã bận tâm vào việc cứu vãn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang Hòa, hoặc họ đã không nhận được lệnh tấn công, và chỉ đương nhiên chống trả tự vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước tính của tôi về phản ứng của địch đã cao hơn như thực tế đã xẩy ra. Việc HQVN khai hỏa tấn công sau khi thất bại đổ bộ đã tạo cho Trung cộng có nguyên cớ vì bị tấn công mà phải hành động, nên đã dùng cường lực cưỡng chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân nhân trú phòng trên đảo Hoàng Sa thì sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng 1, Trung cộng đã huy động một lưc-lượng hùng-hậu kết hợp Hải-Lục-Không-quân đổ bộ tấn chiếm đảo Hoàng Sa và các đảo kế cận mà các chiến binh Hải quân đang chiếm giữ. Theo ký giả Lê Vinh, một cựu sĩ quan Hải quân, đã từng đảm trách chức vụ thư ký của ủy ban nghiên cứu trận hải chiến cho biết, thì vào thời gian trận hải chiến, Hải quân Hoa Kỳ đã chuyển cho HQVN một tin tức về 42 chiến hạm Trung cộng với 2 tiềm thủy đĩnh đang tiến xuống Hoàng Sa. Dù nhiều hay ít thì lực lượng của họ sẽ trội hẳn lực lượng HQVN có thể điều động tới. Nếu hai chiến hạm còn lại của Hải đoàn đặc nhiệm phải lưu lại Hoàng Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả năng chiến đấu đã bị giảm sút nhiều thì sự bảo tồn của hai chiến hạm này rất mong manh. Thế cho nên phản lệnh cho hai chiến hạm phải trở về căn cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực tế hơn.
Trung cộng đã bắt giữ tất cả quân nhân và dân chính Việt Nam trên đảo Hoàng Sa và toán Hải quân đổ bộ thuộc Khu trục hạm HQ4 trên đảo Vĩnh Lạc (sát phía nam đảo Hoàng Sa) mà trưởng toán là HQ trung úy Lê Văn Dũng (sau được vinh-thăng HQ đại úy tại mặt trận), làm tù binh đưa về giam giữ đầu tiên tại đảo Hải Nam. Riêng ông Kosh là nhân viên của cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng thì được trao trả cho Hoa Kỳ sớm nhất tại Hồng Kông. Còn các nhân viên Việt đã bị họ nhồi sọ về chủ nghĩa của họ trong suốt thời gian tại Quảng Đông, và trao trả về Việt Nam tại ranh giới Hồng Kông và Trung cộng. Đô đốc Tư lệnh phó HQ đã được đề cử đích thân đến HồngKông tiếp nhận. Các chiến sĩ từ Trung cộng hồi hương đều được đưa vào Tổng Y viện Cộng Hòa điều trị về các bệnh trạng gây ra do các hành động ngược đãi trong khi bị giam cầm trên lục địa Trung Hoa.
Thế là cuối cùng thì VNCH đã mất nốt nhóm đảo Nguyệt Thiềm phía nam của cả quần đảo Hoàng Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến sĩ Hải quân đào thoát từ Hoàng Sa, sau nhiều ngày trôi dạt trên mặt biển, một số đã được chính các tuần duyên đĩnh của Hải quân cứu vớt, một số đã được các thương thuyền trên hải trình Singapore Hồng Kông bắt gặp. Tất cả các chiến sĩ thoát hiểm được đưa về điều trị tại các Tổng Y viện Duy Tân (Đà Nẵng) hay Cộng Hòa, và còn được Thủ tướng Chính phủ, các vị Tư lệnh Quân đoàn, và các vị Đô đốc Hải quân đến thăm hỏi và ủy lạo.
CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ TÁI CHIẾM HOÀNG SA
Khi phần thăm viếng của thượng cấp kết thúc, thì tất cả các chiến hạm bắt tay ngay vào việc sửa chữa và tái tiếp tế đạn dược đề chuẩn bị tấn kích tái chiếm Hoàng Sa. Một toán thợ thượng thặng của Hải quân công xưởng cũng đã được điều động từ Sài Gòn ra để phụ lực với chuyên viên của Thủy xưởng Đà Nẵng. Riêng Tuần dương hạm HQ16, tuy không bị hư hại nhiều trên thượng tầng kiến trúc, nhưng các chuyên viên đã tháo gỡ được đần viên đạn đã xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên phá và không nổ 127 ly của Tuần dương hạm HQ5 bị lạc. Kinh nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn đạo sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư lệnh phó Hải quân mang đến cho tôi. Đó là một điều không may mắn cho Hải đoàn đặc nhiệm Hoàng Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, sự nhầm lẫn về mục tiêu, về bạn và địch, về vị trí tác xạ đều đã xẩy ra ít nhất là tại chiến trường Việt Nam. Hơn nữa trong cuộc hải chiến này, Tuần dương hạm HQ5 đã tác xạ cả trăm đại pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn còn là điều may mắn. Việc chiến hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu hải pháo 76 ly tự động trên Khu trục hạm HQ4 đã bị trở ngại kỹ thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược điểm chiến thuật mà Hải quân VNCH chỉ muốn phổ biến hạn chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân tích đáng tin cho rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã lợi dụng biến cố Hoàng Sa để tránh né sự chỉ trích của các phần tử đối lập lúc đó đang rất mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, thì Tuần dương hạm HQ16 chỉ đủ khả năng tự hải hành về quân cảng Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể. Khu trục hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tự động. Tuần dương hạm HQ5, sau khi tái tiếp tế đạn và hàn vá các hư hại đã cùng HQ6 ra khơi tìm kiếm các nhân viên đào thoát khỏi vùng Hoàng Sa. Các phi cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên hải hạn chế để tránh sự hiểu nhầm về hành động khiêu khích của Việt Nam đối với Trung cộng. Các phi cơ hướng dẫn các chiến hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp cứu được nhân viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự trữ. Tôi vẫn có mặt trên Tuần dương hạm HQ5 để tham dự cuộc tìm kiếm. Riêng hộ tống hạm HQ10, vì mất liên lạc nên tôi đã không biết được tình trạng cuối cùng của chiến hạm, nhưng chúng tôi vẫn còn một hy vọng tuy mong manh là chiến hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên hải miền Trung trong mùa gió đông bắc.
Với Tuần dương hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn tất hộ tống Tuần dương hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng Sa Đà nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ trung tá Trần Đình Trụ) điều động từ Trường Sa tới tăng cường đã kết hợp với Tuần dương hạm HQ5 thành một Hải đoàn đặc nhiệm mới với nhiệm vụ chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Mặc dầu nhiều sĩ quan thâm niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ định tiếp tục chỉ huy. Một cuộc thao dượt chiến thuật và thực tập tác xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù lao Chàm phía đông nam Đà Nẵng. Sau cuộc thao dượt, tôi trình bầy kết quả việc huấn luyện trong các buổi thuyết trình hành quân tại BTL Hải quân vùng, vẫn được Tư lệnh phó Hải quân chủ tọa.
Nhưng cuối cùng thì công cuộc tái chiếm Hoàng Sa được hủy bỏ. Tuy vẫn được tín nhiệm để chỉ huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn. Với các Tuần dương hạm cũ kỹ (WHEC) xử dụng trong lực lượng phòng vệ duyên hải Hoa Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang bị vào công tác tuần tiễu hơn là để chiến đấu, vừa chạm chạp và vận chuyển nặng nề, nên khó chống trả lại với các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn. Loại này chỉ có một hải pháo 127 ly, còn 2 hải pháo 40 ly đã được HQVN đặt thêm vào lái tầu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực-thăng.
Trong thời gian tại căn cứ, Tư lệnh phó HQ ít nhất đã hai lần tập hợp nhân viên tất cả các chiến hạm có mặt tại chỗ để chỉ thị không được có hành động kiêu ngạo về chiến-tích của Hải quân VNCH. Để làm gương cho tất cả nhân viên thuộc quyền, tôi đã giữ một thái độ rất khiêm nhượng và im lặng. Tôi chưa bao giờ thảo luận hoặc trình bày chi tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu tố đã đưa đến các quyết định chiến thuật của tôi trong trận đánh.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hơn một tuần lễ, đã được cùng Phó Đề đốc Tư lệnh HQ vùng I Duyên hải xuất hiện trên đài chỉ huy cũng của Tuần dương hạm HQ5 để thực hiện một phóng-sự cho đài truyền hình quân đội. Sau đó tôi trở về nhiệm sở chính tại Sài Gòn. Tôi còn được đến phòng thâu hình của quân đội cùng các vị hạm trưởng và một vài hạ sĩ quan trưởng pháo khẩu để trình bầy các chiến tích. Tuy nhiên tôi không đề cập nhiều chi tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các hạm trưởng vì tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề cao vì đã đích thân huy động tinh thần nhân viên và can đảm trực tiếp chiến đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ huy Tham mưu đặc biệt tại Long Bình, đặc biệt vì khóa gồm nhiều các sĩ quan đang đảm trách những vai trò then chốt của quân lực và các đại đơn vị. Khi Phó Đề đốc Phụ tá hành quân biển của Tư lệnh Hải quân đến thuyết trình tại trường về tổ chức của Hải quân Việt Nam, thì một câu hỏi đầu tiên của khóa sinh là về hải chiến Hoàng Sa. Đô đốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong hội trường, quả thật vị này đã trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vỏn vẹn ngay là: Các quí vị đã nghiên cứu về trận đánh Ấp Bắc, thì trận hải chiến Hoàng Sa cũng gần tương tự. Sau câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp Bắc đã làm cho quân lực bị bất ngờ về chiến thuật cửa địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam tôi được biệt phái giữ chức vụ phụ tá Hải quân cho trung tướng Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu Liên quân đồn trú tại Long Bình.
PHẦN SAU TRẬN HẢI CHIẾN
Sau trận hải chiến, Hải quân được nhiều vinh danh nhờ trận chiến đã nêu cao và nối tiếp được tinh thần chống bắc xâm của dân tộc. Trận hải chiến được liên tục ca ngợi hàng ngày trên các phương tiện truyền thông của quân đội cũng như ngoài dân sự để thêm vào với: Bình Long anh dũng, Kontom kiêu hùng, v.v...
Hoàng-Trường Sa với Việt Nam là một
Cũng nhờ trận hải chiến mà phần đông nhân dân Việt Nam mới được biết đến phần lãnh thổ nằm xa vời trong Biển Đông mà Hải quân VNCH từ ngày thành lập đã âm thầm bảo vệ và tuần tiễu.
Nói về trận hải chiến, dù Hải quân VNCH giả thử có thắng được trận ngày đầu, thì chúng ta khó lường được sự tổn thất nếu Hải quân còn ở lại để cố thủ Hoàng Sa. Phó Đề đốc Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu về trận hải chiến khi vị này đích thân thăm viếng Khu trục hạm HQ4, khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đã nói riêng với tôi: "... thế là vừa đủ", ý của vị này nói là không nên tiếp tục chiến đấu thêm ít nhất là vào thời điểm đó Hải quân còn phải đảm nhận nhiều công tác tiễu trừ CS trong đất liền. Đó là chưa kể việc tấn chiếm phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi đêm chiến lược của các cường quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc Khu trục hạm HQ4 không bị trở ngại kỹ thuật và trận chiến đã xẩy ra gần như tôi đã dự liệu và mong muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, thì cường lực Hải-Lục-Không quân của chúng huy động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú phòng và lại còn đủ sức truy kích Hải quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đã tin tưởng rằng Quân đoàn I/Quân khu I đã phải đặt trong tình trạng báo động đề phòng sự tấn công của Trung cộng ngay sau khi trận hải chiến diễn ra. Một phi tuần chiến đấu-cơ F5 của sư đoàn I Không quân tại Đà Nẵng đã sẵn sàng trên phi đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm trợ cho Hải quân vì có thể là e ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn chế trận chiến tới mức có thể chấp nhận được trong một thế chính trị.
Một lần nữa, giả dụ rằng ta cứ để Trung cộng có mặt trên đảo Quang Hòa, trận hải chiến đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục hiện-diện trên đảo Hoàng Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng, để tránh sự lấn chiếm, cộng thêm là Hải quân Việt Nam phải thường xuyên tuần tiễu với một hải đoàn tương đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Đông Nam Á. Có thể Trung cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn mẫu VNCH khi ta đã đặt quân trú phòng trên đảo Nam Yết và Sơn Ca nằm phía nam và đông cùng trên một vòng đai san hô với đảo Thái Bình, đã bị Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) chiếm đóng từ khi Nhật Bản thua trận đệ nhị thế chiến. Người Trung Hoa dù là lục địa hay hải đảo, đã từng nhiều lần tuyên bố là lãnh thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng Sa Trường Sa. Phải thành khẩn mà nhận rằng, khi VNCH đặt quân trú phòng trên các đảo còn bỏ trống trong vùng Trường Sa như Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử đông, Song Tử tây, Trường Sa v.v.., chúng ta đã không gặp một hành động đối kháng về quân sự nào từ phía Trung Hoa Dân quốc hoặc Phi Luật Tân hay Mã Lai Á.
Một suy luận nữa là có thể trận hải chiến là một cuộc điều chỉnh sự nhường quyền chiếm giữ từ một nhược tiểu đến một cường quốc theo một chiến lược hoàn cầu mà vài cường quốc đã ngầm thỏa thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn công hùng hậu của Anh quốc trong cuộc tranh-chấp đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập niên 80, mà Á Căn Đình (Argentina) vẫn luôn coi như lãnh thổ của họ. Họ đã chiến đấu mạnh mẽ trên mặt ngoại giao và buộc phải chiến đấu trên mặt quân sự sau khi ngoại giao thất bại. Về mặt quân sự, họ biết trước là khó chống lại Anh quốc với lực lượng khá dồi dào, nhưng họ đã phải chiến đấu trong khả năng của họ, họ biết tự kiềm chế cường độ chiến tranh để giảm thiểu tổn thất. Kết quả là đảo Falkland đã về tay Anh quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện tích và nguồn lợi cũng như dân số, quân lực hai đối thủ đưa vào cuộc đụng độ hùng hậu hơn, mức độ chiến tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng Sa đã gần tương tự nhau về tính chất của một cuộc chiến.
Người Pháp, trong chiến tranh tại Đông-dương sau 1945, vì chiến cuộc gia tăng tại nội địa, đã phải bỏ ngỏ hoàn toàn nhóm đảo Tuyên Đức phía bắc, và bỏ ngỏ nhóm Nguyệt Thiềm phía nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên Đức phía bắc đã do Trung Hoa Dân quốc cưỡng chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất trận củu họ trong lục địa. Về sau, hiệp định Ba Lê 1954 lại đề ra khu phi quân sự dọc theo vĩ tuyến 17, đã làm cho VNCH đã không thể tích cực hiện diện tại nhóm Tuyên Đức bắc đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt Thiềm.
Xét về sự phòng thủ, so sánh với đảo Thái Bình trong vùng Trường Sa thì thế bố trí trên đảo Hoàng Sa của VNCH đã thua kém rất xa, và không thể đủ sức để cố thủ chống lại một cuộc cường kích thủy bộ. Trên đảo không có công sự nặng, chỉ có khoảng một trung đội địa phương quân với vũ khí cá nhân và một vài quan sát viên khí tượng. Trong khi đó đảo Thái Bình, khi Nhật chiếm đóng trong đệ nhị thế chiến, họ đã xây cất nhiều công sự nặng. Sau này khi Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) chiếm đóng, chắc chắn họ đã tăng cường mọi cơ cấu phòng thủ, lại có trang bị các khẩu đại pháo chống chiến hạm, đưa quân số trú phòng có thể tới cấp hơn tiểu đoàn và do một vị đại tá Thủy quân lục chiến chỉ huy.
Ngoài ra việc tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được nhận xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm viếng Trung cộng của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa Kỳ và Trung cộng đã ngầm có nhiều thỏa thuận về chiến lược hay ít nhất cũng đồng ý là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào các hành động của Trung cộng trong vùng. Đối với VNCH, Hoa Kỳ đã không muốn can dự vào sự bảo vệ lãnh-thổ. Trong ngày hải chiến thì các đối tác viên tại Bộ Tổng Tham mưu đã khẳng định đó là công chuyện riêng của Việt Nam.
Quan niệm của Hoa Kỳ trong việc mở rộng lực lượng Hải quân chỉ là vừa đủ để hành quân yểm trợ hỏa lực và ngăn chặn trong vùng sông ngòi và duyên hải mà thôi. Cộng cuộc xây cất một hệ thống thám báo liên tục từ Bến Hải đến vịnh Thái Lan là một công tác cao, cả về kỹ thuật lẫn tài chánh với mục tiêu duy nhất là kiểm soát hữu hiệu sự xâm nhập lén lút bằng đường biển của CS Bắc Việt vào vùng duyên hải. Việc viện trợ hai chiếc Khu trục hạm, vì là loại tấn công, nên sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò tiềm thủy đĩnh như đã trình bầy, làm như vậy là sẽ giảm khả năng của loại này một nửa. Vũ khí tấn công trên mặt biển và trên không của Khu trục hạm là hai dàn hải pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ khoảng 60 viên một phút. Với hỏlực tấn công mạnh mẽ như vậy, Hải quân Hoa Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song song với kế hoạch rút lui, đã không bỏ sót cơ hội cắt đứt hay ít nhất cũng trì hoãn việc tiếp tế cơ phận thay thế cho loại hải pháo tối tân này.
Sau trận hải chiến, để nêu gương hy sinh của các chiến sĩ bỏ mình trên đại dương, Bộ Tư lệnh Hải quân đã có nghiên cứu một kiến trúc dự định xin phép Đô thành Sài Gòn Chợ Lớn xây cất trong khu vực cột cờ Thủ Ngữ bên sông Sài Gòn. Riêng Hội đồng Đô thành đã đồng ý trên nguyên tắc là sẽ có một đường phố mang tên Ngụy Văn Thà. Một buổi lễ kỷ niệm lần thứ nhất trận hải chiến Hoàng Sa đã được tổ chức vào ngày 19 tháng 1 năm 1975 do Tư lệnh Hải quân, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh chủ tọa nhưng tôi không được thông báo để đến tham dự.
* * *
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên đán đến, dù vào tháng Giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng niệm dành cho các liệt sĩ đã hy sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến sĩ đã anh dũng cùng tôi chiến đấu trong trận hải chiến Hoàng Sa, mà số đông đang lưu lạc trong vùng đất tự do. Họ là những anh hùng đã xả thân để bảo vệ lãnh thổ của tiền nhân xây dựng từ bao thế kỷ. Mong rằng tài liệu này sẽ mang lại niềm hãnh diện cho toàn thể các chiến sĩ Hải quân đã tham dự trận đánh mà tôi đã có vinh dự chỉ huy.
Hà Văn Ngạc
Dallas, Texas, mùa Xuân Kỷ-Mão
Tuesday, January 14, 2025
Phát biểu trong Hội thảo Biển Đông
Lập trường của người Việt Quốc gia trước vấn nạn tại Biển Đông?
Thưa Quý vị,
Quý vị vừa nghe các thuyết trình viên trình bày về những vấn đề của biển Đông:
• Cựu Hạm trưởng Hải quân VNCH Vũ Hữu San, người chiến sĩ tham dự trận đánh Hoàng Sa tháng 2, 1974 dưới thời Việt Nam Cộng Hòa trình bày về Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS);
• Cụ Huỳnh Văn Lang, một công dân ngoại hạng dưới hai nền Đệ I và II VNCH qua cái nhìn chánh trị trong vấn đề biển đông;
• Nhà bình luận kinh tế và chánh trị Nguyễn Xuân Nghĩa qua việc phân tích những mục tiêu của Trung Quốc tại biển Đông.
Và đề tài cuối cùng của buổi hội luận hôm nay, chúng tôi xin đặt câu hỏi và đóng góp ý kiến ban đầu cũng như mời gọi tất cả quý vị trong hội trường ngày hôm nay cùng chia sẻ và trao đổi. Câu hỏi đó là “Trung Cộng muốn gì tại biển Đông?”.
Thưa Quý vị,
Trong những tháng vừa qua, tình trạng biển Đông ngày càng căng thẳng: Đệ VII hạm Đội Hoa Kỳ vào vùng nầy, Trung Cộng tiếp tục mang hàng trăm tàu chiến bố trí khắp nơi trong vùng, cuộc họp của Asean về biển Đông, Hoa Kỳ dự định thông qua Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông…Tất cả nói lên tính chất nghiêm trọng của vần đề.
Để trả lời câu hỏi “Trung Cộng muốn gì tại biển Đông”, chúng tôi xin được lần lượt phân tích qua về tầm quan trọng của biển Đông trong vùng cùng vị trí và âm mưu của TC cũng như của “chư hầu” Việt Cộng Bắc Việt.
Tầm quan trọng của biển Đông:
1- Về tiềm năng dầu khí: Theo ước tính toàn vùng biển Đông có trữ lượng ước tính từ 28 đến 213 tỷ thùng dầu căn cứ vào Viện Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ năm 2008 và 3,8 ngàn tỷ thước khối khí đốt (US Geological Survey năm 2010) có khả năng cung cấp cho toàn vùng trong vài thập niên.
2- Về tiềm năng quân sự: Kiểm soát được vùng nầy có nghĩa là khống chế toàn vùng Đông Nam Á và kiểm soát được mọi di chuyển, trao đổi quân sự của các quốc gia trong vùng với đối tác bên ngoài, đặc biệt là vấn đề di chuyển vũ khí thiết bị quân sự và tình báo.
3- Về khả năng kinh tế: Kiểm soát các hoạt động kinh tế đi-đến của từng quốc gia; từ đó có thể ước lượng được sức mạnh kinh tế của các nước trong vùng.
4- Về chánh trị toàn cầu: Đây là tầm quan trọng nhứt. Nếu chiếm được biển Đông, ngoài các yếu tố trên, TC có thể “siết cổ” bất cứ quốc gia nào trong vùng, áp lực phải đi theo chiều hướng của Đại Hán trong chính sách đối ngoại với thế giới bên ngoài. Nhà cầm quyền nào không đi theo TC sẽ bị bóp nghẹt ngay từ trứng nước và quốc tế phải đứng trước sự đã rồi, không thể đáp ứng được hay gây áp lực với TC qua các thể chế của Liên Hiệp Quốc.
Những gì Trung Cộng muốn và những gì Trung Cộng đang làm
Nhìn qua tình hình xã hội bên trong lục địa TC, chúng ta nhận thấy tình trạng bất ổn trong xã hội như nạn thất nghiệp ngày càng cao do mức sản xuất và xuất cảng qua Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu châu giảm tạo ra sự khủng hoảng ở hầu hết các tỉnh, đặc biệt tại Quảng Châu. Nơi đây dân chúng bắt đầu biểu tình đòi tăng lương, nâng cao phúc lợi cũng như nhân quyền và các quyền tự do khác.
Thêm nữa, phong trào độc đòi độc lập ở Tây Tạng qua việc người dân và nhà sư tiếp tục tự thiêu và gây bạo động. Tân Cương cũng không yên ổn với các vụ đặt bom vừa qua…Pháp Luân Công tiếp tục rao giảng và ảnh hưởng lên nhiều tầng lớp trong toàn xã hội.
Vì vậy,
Việc phô trương sức mạnh trên biển Đông trong những ngày tháng gần đây cho thấy nhiều chỉ dấu TC muốn:
• Thứ nhứt: Chuyển hướng áp lực của người dân Trung Hoa, các mối bất ổn trong nội địa, và kích thích tinh thần quốc qia cực đoan Đại Hán trong vấn để biển Đông;
• Thứ hai: Phong trào dành độc lập trong nước nổi lên và TC không muốn thế giới bên ngoài chú tâm vào, cho nên càng làm nổi thêm đình đám trong vần đề biển Đông;
• Thứ ba: Phát triển kinh tế của TC trong mấy năm gần đây giảm sút mạnh không còn giữ ở mức độ 9-10% nữa (thống kê mới nhất 2024 chỉ còn 6,6%); do đó, uy tín của nhà cầm quyền bị sụt giảm, người dân không còn tin tưởng chính sách của đảng nữa. Riêng Tam cá nguyệt thứ tư 2024, xuất cảng giảm sút 23% do Liên hiệp Âu châu và Hoa Kỳ tẩy chay hàng hóa tạo ra một lượng không nhỏ lao động thất nghiệp vì hàng tồn kho ứ đọng;
• Thứ tư: Việc tuyên bố thay đổi quận Nam Sa gồm Hoàng Sa và Trường Sa thành tỉnh Nam Sa mới đây của TC là một chỉ dấu cho thấy TC muốn xác định chủ quyền (không thể chối cải) tại hai nơi nầy. Thêm nữa việc thiết lập một phi trường quân sự cho máy bay tiếp liệu hạng nặng có thể đáp xuống, cũng như việc thành lập bộ chỉ huy quân sự trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa ngày 28/6/2012 cho thấy âm mưu không chế biển Đông của TC càng rõ nét hơn, voe65c lấn áp tàu cá Việt Nam và Phi Luật T6an ngày càng lho61c liệt hơn.
• Thứ năm: Gần đây nhứt, TC lại ngang nhiên công bố cho đấu thầu 9 địa diểm nằm trong hải phận Việt Nam và thành lập Tập đoàn Công ty dầu khí Hải Dương. Như vậy, vô hình chung TC muốn thách thức thế giới và Việt Nam về thẩm quyền của họ trên đường lưỡi bò, cũng như vô hiệu hóa luật biển của Việt Nam mới vừa công bố. Trong 9 lô đấu thầu nầy, đã có những lô mà Việt Nam đã cho Total, Mobil, Ấn Độ đấu thầu rồi, nhưng vì áp lực của TC mà những nhà thầu nầy đành phải rút lui. Chúng ta chờ xem phản ứng của Việt Nam và quốc tế như thế nào.
• Thứ sáu: Đây chính là cốt lõi của vấn đề TC làm ồn ào ở biển Đông. Đó là việc che đậy tiến trình Hán hóa một cách tiệm tiến và vững chắc của TC vào suốt chiều dài của Việt Nam từ Bắc chí Nam bằng cách xây dựng xí nghiệp, nhà máy, mang thiết bị, nhân công xâm nhập, thuê mướn rừng đầu nguồn dài hạn, thuê mướn đất nông nghiệp, thu mua tất cả sản phẩm chăn nuôi hay nông nghiệp và nguyên liệu của VN bằng bất cứ giá nào. Từ đó khống chế nền kinh tế VN và xâm nhập nhân công, đưa tình báo vào khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam qua việc khai thác bauxite. Suốt ba năm nay, mặc dù công bố sẽ ra mẻ bauxite đầu tiên tại Tân Rai vào tháng 4/2012, nhưng chúng ta chưa hề thấy một tinh thể Aluminum (nhôm) nào cả ngoài việc cấy hàng ngàn người Trung Hoa vào Tân Rai va Nhân Cơ. Đây là một âm mưu thâm độc cần phải cảnh báo đến bà con ở quốc nội và hải ngoại.
Như vậy còn về phía Việt Nam thì sao?
Những gì Cộng sản Bắc Việt chạy theo đuôi TC
Tình trạng kinh tế qua việc tài chánh và ngân hàng cùng sản xuất sụp đổ hoàn toàn. Hàng loạt ngân hàng đóng cửa. Sáu tháng đầu năm 2012 có trên 18.000 xí nghiệp trung phá sản và bị đóng cửa. Nợ công nợ tư chồng chất. Năm 2024, hang ngàn xí nghiệp không còn tiền để trả lương cho nhân công hang 6,7 tháng qua.
Đối với vấn đề tranh chấp biển Đông với TC, CS Bắc Việt chỉ chơi trò “đánh-đàm”, trò “cút bắt” qua các kịch bản của TC mà thôi. Chúng ta đừng nghĩ rằng Việt Nam tuyên bố luật biển của Việt Nam ngày 24/6/2012 vừa qua không nhằm thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, nhưng thật sự nhắm vào việc đánh lạc hướng nỗi bất bình của người dân. Việc làm nầy chỉ nhằm vào việc giải tỏa áp lực thể hiện qua các vụ biểu tình chống TC, biểu tình chiếm đất của người dân.
Việt Nam vẫn để “tàu lạ” tiếp tục đâm chìm hay bắt các tàu đánh cá của ngư dân, thậm chí TC ngang nhiên chận bắt và săn đuổi tàu tuần tra của Việt Nam trong hải phận của mình nữa. Trong lúc đó, hai nước vẫn “thấm tình đồng chí” cùng hợp tác tuần tra chung trên biển Đông ở Vịnh Bắc Việt.
CS Bắc Việt tiếp tục lờ đi cho TC xây các bè cá ngay trong vùng biển quân sự ở Cam Ranh suốt 10 năm qua, mà nhà cầm quyền địa phương vẫn không biết. Một nhà máy sản xuất thép chiếm một diện tích trên 5 mẫu tây đã được xây dựng hoàn chỉnh từ hai năm qua ở Quảng Ninh, mãi cho đến đầu tháng 7 năm nay, mới được khám phá.
Xét cho cùng, các cuộc tranh cãi giữa TC và Việt Nam trong vấn đề biển Đông chỉ là một màn kịch rẻ tiền do đàn anh dàn dựng và đàn em cs Bắc Việt theo đuôi để hầu xả bớt áp lực của người dân trong việc xâm chiếm một cách lộ liễu của TC.
Thế nầy là thế nào?
Phải chăng đây chỉ là một sự dàn xếp của hai đảng cộng sản Trung Hoa và Bắc Việt trong việc dâng trọn đất nước cho TC để đổi lấy “ngôi sao thứ sáu” trên lá cờ của đàn anh nước lớn Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc?
Thưa Quý vị,
Trước tình thế hiện tại, chúng ta, người con Việt hải ngoại và quốc nội muốn gì và phải làm gì?
Xin đan cử vài suy nghĩ gợi ý để chúng ta cùng thảo luận:
• Việt Nam cần liên lập (liên kết trong tinh thần độc lập) với các quốc gia trong vùng biển Đông để cùng nhau cộng sinh trước bá quyền nước lớn là Trung Cộng. Muốn được như vậy VN cần phải có dân chủ mới có thể xây dựng được sức mạnh kinh tế, xã hội, văn hóa, và chính trị ổn định;
• Cần phải có được tiếng nói tổng hợp chung giữa các quốc gia trong vùng và cùng chủ trương một giải pháp quốc tế thay vì giải quyết song phương giữa từng nước với TC như hiện tại;
• Đối với người Việt trong nước, cần phải vận động triệt để hầu phủ nhận những ký kết song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh từ 1958 đến nay; người Việt hải ngoại cần hỗ trợ đấu tranh bằng cách vận động sự đồng thuận và yểm trợ của thế giới tự do trong việc vô hiệu hóa các văn kiện giữa hai đảng cộng sản Trung Hoa và Bắc Việt;
• Đối với việc tuyên bố cho đấu thầu khai thác dầu khí ở 9 lô trong vùng biển Việt Nam, cần vận động các công ty quốc tế không hợp tác với TC để khai thác tài nguyên và lãnh thổ Việt Nam, giải thích cho họ rõ hành động bất chánh của Trung Cộng trong vấn đề nầy.
• Chúng ta đã biết rất rõ nguyên nhân của sự xâm chiếm tiệm tiến và Hán hóa dân tộc là do chính đảng CS Bắc Việt. Do đó, đây mới chính là mục tiêu cần phải triệt tiêu. Người Việt hải ngoại, nếu muốn đóng góp vào tiến trình nầy, cần phải dứt khoát và tích cực trong việc cấm vận tài chánh cho Việt Nam bằng cách ngưng gửi tiền, ngưng du lịch và chấm dứt những việc từ thiện xã hội không cần thiết.
• Cuộc vận động quốc tế qua các quốc gia Tây phương, Bắc Mỹ, cùng các hiệp hội quốc tế để họ có cái nhìn chính xác hơn về chính sách “cai trị phi nhân” của đảng CS Bắc Việt đi ngược lại với đà phát triển chung của nhân loại.
• Với sự đấu tranh của người Việt hải ngoại trên, từ đó, quốc nội mới có khả năng làm một cuộc cách mạng có thể xóa tan được cơ chế mục nát của đảng CS Bắc Việt và đưa đất nước vào trật tự mới của toàn cầu.
Qua các phân tich vừa kể trên, xin Quý vị cùng chúng tôi động trí hầu mưu tìm cho một định hướng cho Việt Nam tương lai.
Thưa Quý vị,
Chúng ta có thể kết luận rõ ràng là Trung Cộng và Cộng sản Bắc Việt đang hát bài “hợp ca Biển Đông”, trong đó ca sĩ chánh là TC và nhóm hát bè là CS Bắc Việt. Tiếng hát “bành trướng Đại Hán” càng to với hàng hàng lớp lớp tàu chiến tràn ngập biển Đông, kèm theo những tiếng bè nhỏ hơn nhưng người nghe vẫn cảm nhận được những câu bè “vô cảm” trước nỗi nhục của dân tộc, dâng đất, dâng biển cho ngoại bang để đổi lấy quyền lực và tài sản của Đất và Nước.
Về phía Hoa Kỳ, mặc dù sức mạnh quân sự đang được tăng cường tại biển Đông, nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng người Mỹ sẽ trở lại Việt Nam. Từ gần hai năm nay, những nhân vật đầu não của Mỹ luôn tuyên bố vấn đề tự do lưu thông hàng hải ở vùng biển Đông là một vấn đề lợi ích quốc gia đối với Mỹ. Ngoài ra việc tranh chấp giữa TC và các quốc gia Asean, người Mỹ luôn đứng ngoài tránh việc đối đầu với TC trong việc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông.
Chưa bao giờ hết, Việt tộc đang mang nỗi oan khiên nghiệt ngã nầy!
Vì vậy,
Buổi Hội luận về biển Đông hôm nay, một lần nữa, chúng tôi muốn gióng thêm lên tiếng chuông kêu gọi người Việt ở quốc nội cùng hải ngoại ý thức rằng cộng sản Bắc Việt đã đem “tình đồng chí của đảng CS” áp dụng chuyên chính vô sản trong suốt 37 năm qua, chẳng lẽ chúng ta không kết được “nghĩa đồng bào” của 86 triệu bà con (không kể 4 triệu đảng viên CS) và 3 triệu ở hải ngoại để tẩy trừ những kẻ nội thù của quê hương.
Hội nghị Diên Hồng chính là trong thời điểm nầy của tổ quốc Việt Nam hôm nay.
Ngọn lửa Tunisia sẽ bùng cháy cùng hòa lẫn với máu đào của Tuổi Trẻ Việt Nam nơi quê cha đất tổ.
Cám ơn Quý vị đã lắng nghe.
Mai Thanh Truyết
Nhuận sắc 1-2025
Tuesday, January 7, 2025
Trần Văn Bà 2025
.
Trần Văn Bá (1945 - 1985)
Trần Văn Bá (14 tháng 5 năm 1945 — 8 tháng 1 năm 1985) là người đã cùng Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh tổ chức đưa người xâm nhập vào Việt Nam nhằm lật đổ CSBV. Ông bị lực lượng công an bắt giữ trong Kế hoạch CM-12 khi đang xâm nhập vào Việt Nam bằng đường biển và bị tòa án Việt Nam kết án tử hình năm 1985 vì tội phản quốc. Ông được Sáng hội Tượng đài Nạn nhân Chủ nghĩa Cộng sản tại Mỹ truy tặng huy chương Tự Do Truman - Reagan năm 2007.
Trần Văn Bá, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1945 tại Sa Đéc, Việt Nam, là con trai thứ của dân biểu Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Văn. Ông Văn từng tham gia chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 và là Tổng trưởng Kinh tế và Kế hoạch vào năm 1949 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau khi cha bị Việt Cộng xử tử vào ngày 7 tháng 12 năm 1966 tại Sài Gòn, Trần Văn Bá rời quê nhà sang Pháp học. Ông tốt nghiệp Cao học kinh tế, chuyên về Chính trị Kinh doanh năm 1971 và làm trợ giảng tại Đại học Nantes (Nantes), và từng là chủ tịch của Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris từ năm 1973 đến 1980.
Năm 1972 ông dẫn đầu một phái đoàn sinh viên Việt Nam tại Châu Âu trở về thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa để tạo sự thông cảm giữa những sinh viên du học và quân cán chính của Việt Nam Cộng hòa trong chương trình "Nối Vòng Tay Lớn".
Sau biến cố 1975, ông vẫn tiếp tục tranh đấu chống cộng sản tại châu Âu.
Hoạt động đấu tranh
Sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 6 tháng 6 năm 1980 ông âm thầm trở về nước để bí mật tranh đấu với mục đích lật đổ chính quyền Việt Nam và tham gia Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam do ông Lê Quốc Túy là chủ tịch, ông Mai Văn Hạnh là chủ tịch quốc ngoại, các ông Huỳnh Vĩnh Sanh và Hồ Tấn Khoa làm đồng chủ tịch quốc nội. Ông Trần Văn Bá được cử làm tham mưu và ông Lê Quốc Quân phụ trách lực lượng vũ trang trong nước.
Theo nguyệt san Nhân Bản số tháng 1/01/85 phát hành tại Paris, Lê Quốc Túy xác nhận một số chiến sĩ của Mặt trận Thống nhất các Lực lượng Yêu nước Giải phóng Việt Nam đă bị bắt từ 1980. Một trận đánh lớn đă xảy ra tại Hà Tiên gây thiệt hại cho khoảng 120 cán bộ chính phủ.
Tết 1983, lực lượng an ninh Việt Nam đă bắt được Hồ Tấn Khoa, Vő Văn Nhơn, Nguyễn Ngọc Hòa thuộc tổ chức Hòa giải Quốc tế gần với đạo Cao Đài. Những người bị bắt bị nghi là thông đồng với các ông Túy, Hạnh để "cướp chính quyền" ở một số tỉnh miền tây. Con trai ông Khoa là Hồ Thái Bạch sau đó thay thế cha trong chức vụ đồng chủ tịch.
Có 10 toán người phản kháng của Mặt trận xâm nhập vào trong nước tính từ đầu năm 1981 đến tháng 9 năm 1984. Toán thứ nhất về bằng đường bộ từ tỉnh Trat ở Thái Lan qua Campuchia, khi đến Châu Đốc thì bị bắt. Toán này có nhiệm vụ liên lạc với lực lượng của Hòa Hảo để chiếm đóng vùng Bảy Núi. Toán thứ 10 về bằng đường biển vào đầu tháng 9 năm 1984 gồm 21 người trong đó có Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá. Toán này bị bắt ngay khi mới đổ bộ vào bờ biển tại làng Minh Hải, Cà Mau vào đêm 11 tháng 9 năm 1984. Tổng cộng, có tất cả 119 người đă bị bắt giam hoặc giết chết.
Ông Lê Quốc Túy đáng lẽ cũng đi cùng toán thứ 10 nhưng vì phải vào nhà thương ở Pháp để mổ gấp nên đã thoát nạn.
Xét xử
Từ ngày 14 đến 18 tháng 12 năm 1984, Tòa án Nhân dân Việt Nam đã mở phiên tòa xét xử ông và những người bị bắt cùng với ông về tội phản quốc tại Nhà hát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch, Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàng Đình Mỹ, Thạch Sanh, Nguyễn Văn Trạch, Nguyên Bình, Nguyễn Văn Hậu, Nhan Văn Lộc, Lý Vinh, Trần Ngọc Ẩn, Cai Văn Hùng, Đặng Bá Lộc, Thái Văn Dư, Trần Văn Phương, Nguyễn Phi Long, Nguyễn Văn Cầm.
Công tố viên cho biết ngay từ đầu tháng 1 năm 1981, cơ quan an ninh đã phát hiện một "tổ chức gián điệp" xâm nhập vào Việt Nam. Trần Văn Bá đã không ký tên nhận tội và bị tuyên án tử hình cùng với Mai Văn Hạnh, Lê Quốc Quân, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch; ông cũng không làm đơn xin ân xá.
Trần Văn Bá bị xử tử vào ngày 8 tháng 1 năm 1985.
Tưởng nhớ
Tại Liège, Bỉ, đã có một mộ bia tưởng niệm dành cho ông. Ở Falls Church, Virginia, có một con đường mang tên ông.
Tiến sĩ Lee Edwards, chủ tịch Sáng hội Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản trên thế giới, phát biểu với đài Á Châu Tự Do về trường hợp ông Trần Văn Bá:
"Sau khi tham khảo ý kiến đồng sự, bạn hữu và những người quen trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, Sáng hội nhất trí chọn Trần Văn Bá là trường hợp tiêu biểu của sự tranh đấu đòi tự do để trao tặng huy chương cho ông."
Thân nhân ông Trần Văn Bá đã được thông báo và được mời đến nhận huy chương Tự do Truman-Reagan trong buổi lễ được tổ chức tại đại sứ quán Hungary ở thủ đô Washington, D.C. vào chiều ngày 15 tháng 11. Hai người khác cũng được trao huy chương Tự do Truman-Reagan 2007 vì thành tích và công lao đóng góp vào tiến trình tự do dân chủ là tiến sĩ Janos Horvarth người Hungary, và dân biểu Hoa Kỳ thuộc Đảng Cộng hòa Dana Rohrabacher.
Tháng Chín 2008, Hội đồng thành phố Paris, Pháp, dự định khánh thành bia tưởng niệm Trần Văn Bá tại 47-49 đại lộ Ivry, quận 13 Paris, nhưng vì áp lực của Nhà nước Việt Nam cùng một số tổ chức, việc này bị bác bỏ theo nghị quyết ngày 16/9/2008 của tỉnh trưởng Vùng Iles-de-France và tỉnh trưởng Paris.
Trần Lê Nguyên
Wednesday, January 1, 2025
Cuộc cách mạng bất tuân dân sự có
thể xảy ra cho Việt Nam hay không?
Nếu có thì thực hiện như thế nào?
Cuộc cách mạng bất tuân dân sự là một chiến lược nhằm thay đổi chế độ chính trị, thông qua việc từ chối tuân thủ các luật lệ và chính sách mà người dân cho là bất công, và không xử dụng bạo lực. Câu hỏi về việc liệu một cuộc cách mạng bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam hay không là một vấn đề rất phức tạp và có nhiều yếu tố cần phải xem xét, bao gồm cả tình hình chính trị, sự đàn áp của chế độ và phản ứng của người dân. Tuy nhiên, nếu xét từ một góc độ lý thuyết, thì việc thực hiện một cuộc cách mạng bất tuân dân sự ở Việt Nam là khả thi, mặc dù rất khó khăn.
1- Những yếu tố cần lược duyệt trước khi bắt đầu:
1.1 Sự đàn áp mạnh mẽ của chính quyền
Chế độ Cộng sản Việt Nam hiện nay duy trì sự kiểm soát rất chặt chẽ đối với xã hội, đặc biệt thông qua hệ thống công an và quân đội, cũng như sự kiểm soát nghiêm ngặt đối với truyền thông và thông tin. Chính quyền cũng sử dụng các biện pháp truy cứu, giam giữ và truy tố những người có ý định chống đối hoặc tham gia các cuộc biểu tình. Do đó, bất kỳ hành động nào chống lại chính quyền đều có thể bị đàn áp một cách rất mạnh mẽ.
Tuy nhiên, trong quá khứ, những cuộc đấu tranh bất tuân dân sự vẫn có thể tạo ra sự thay đổi lớn, nếu có đủ sự tham gia và động lực từ một bộ phận lớn người dân.
1.2 Sự phân hóa trong xã hội
Một trong những yếu tố quan trọng để một cuộc cách mạng bất tuân dân sự thành công là sự đoàn kết trong xã hội. Nếu có một sự phân hóa mạnh mẽ về mặt chính trị và xã hội, điều này sẽ gây khó khăn cho việc tạo ra một phong trào lớn mạnh. Tuy nhiên, nếu sự bất mãn đối với chế độ tích tụ đủ lớn và người dân cảm thấy rằng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đứng lên, thì một phong trào bất tuân dân sự có thể phát sinh.
1.3 Ảnh hưởng của các phong trào quốc tế
Việc hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực nhân quyền và dân chủ, có thể giúp tạo ra một môi trường quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh. Các phong trào đấu tranh không bạo lực ở các quốc gia khác (như ở Myanmar, Belarus, hay các phong trào "Áo Vàng" ở Pháp) cho thấy rằng sự bất tuân dân sự có thể gây ảnh hưởng lớn đến chính quyền, nếu được tổ chức và dẫn dắt một cách có chiến lược.
2. Cách thức thực hiện một cuộc cách mạng bất tuân dân sự ở Việt Nam
2.1 Tạo ra sự đồng thuận trong xã hội
Đoàn kết các lực lượng xã hội: Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự sẽ cần sự tham gia của nhiều nhóm xã hội khác nhau, từ các trí thức, thanh niên, công nhân cho đến các nhóm dân tộc thiểu số. Sự bất mãn về những vấn đề như tham nhũng, thiếu tự do chính trị, và nghèo đói có thể là những yếu tố khơi dậy tinh thần đoàn kết.
Tăng cường các phong trào xã hội dân sự: Xây dựng và phát triển xã hội dân sự có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các cuộc biểu tình và các hành động bất tuân. Các tổ chức phi chính phủ, các nhóm bảo vệ quyền con người, và các phong trào đòi quyền lợi có thể là những nền tảng để huy động sự tham gia của người dân.
2.2 Sử dụng các hình thức bất tuân không bạo lực
Biểu tình, đình công và các cuộc tẩy chay: Một trong những hình thức cơ bản của bất tuân dân sự là tổ chức các cuộc biểu tình ôn hòa, đình công hoặc tẩy chay các hoạt động mà chính quyền tổ chức. Đây có thể là các hành động nhằm vào những vấn đề cụ thể, chẳng hạn như phản đối các chính sách bất công hoặc các vấn đề xã hội như tham nhũng, môi trường, hoặc việc đàn áp quyền tự do ngôn luận.
Chúng ta còn nhớ, ngay gần cuối cuộc chiến ở Việt Nam, Ông David Steinman, một luật sư Hoa Kỳ và cộng sự viên của TNS Daniel Moynihan, đến gặp GS Vũ Quốc Thúc và cho biết rằng Hoa Kỳ không muốn cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu công khai tham gia hội thảo mà nên đứng sau hội trường. Ông Steinman cũng khuyến cáo rằng:“Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp bất tuân dân sự (civil disobedience). Phải có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài.”
Xin ghi lại một hành động bất tuân dân sự qua phóng sự về sự việc xảy ra quanh các vụ phản đồi viêc thu tiền BOT ở các tuyến đường về lục tỉnh ở miền Nam năm 2016, để thấy người dân có đầy sáng tạo trong cung cách ứng xử uyển chuyển nầy:”Ngày 3/12/2016, TT CS phải quyết định ngừng thu phí BOT ở Cai Lậy nói lên hiện tượng “bất tuân dân sự” của người dân trong nước. Ông Phạm Chí Dũng nhận định về vấn đề nầy với bài viết:”Cai Lậy và làn sóng bất tuân dân sự” như sau:”Tại BOT Cai Lậy, lộ phí là 25.000 Đồng Việt Nam. Và họ đóng lộ phí qua trạm bằng cách trả giấy bạc 500.000 Đồng và chờ tiền thối lại; hoặc trả 2x10.000 Đồng, 4x1.000 Đồng, 1x500 Đồng và 3x200 Đồng. Tổng cộng 25.100 Đồng và người dân nhứt định chờ Trạm thu lộ phí phải thối lại 100 Đồng …mới chịu chạy qua khỏi trạm với mục đích đình trệ việc lưu thông vì tiền thối 100 Đồng không còn lưu dụng nữa”.
Để tìm hiểu và đánh giá các mô hình xã hội dân sự khác biệt nhau, một nhóm tác giả giới thiệu một khung lý thuyết được gọi là “institutional logics”, tạm dịch là những đặc điểm vận hành trong “dự án” bất tuân dân sự:
Theo đó, có năm phương diện để đánh giá khu vực xã hội dân sự: quan hệ với nhà tài trợ (clientelism), tư tưởng bảo hộ (paternalism), quan hệ với bộ máy hành chính (bureaucracy), tinh thần hành động (activism), và mức độ chuyên nghiệp (professionalism).
Thông qua năm mối quan hệ tương tác, và trong nhiều trường hợp là đối nghịch giữa các đặc điểm này, người ta có thể so sánh, tìm ra điểm chung và khác biệt giữa các mô hình xã hội dân sự tại các quốc gia khác nhau, vốn chịu ảnh hưởng của những yếu tố lịch sử, văn hóa và chính trị riêng biệt.
Những kết luận có được từ sách vở phần nhiều không phải là các đáp số toán học rõ ràng. Chính xác hơn, chúng không phải là những phép tính cộng trừ nhân chia đơn giản, mà giống như những phương trình phức tạp với nhiều ẩn số cần được tiếp tục giải đáp.
Điều đó cũng phản ánh bản chất của xã hội dân sự và thế giới chúng ta đang sống, nơi các kết luận đơn giản và hời hợt trong nhiều trường hợp dễ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, nhứt là trong trường hợp Việt Nam với những mối liên quan chằng chịt trong liên hệ gia đình Quốc – Cộng.
2.3 Từ chối tuân thủ các chính sách hoặc luật lệ bất công:
Những hành động cụ thể như từ chối trả thuế, từ chối tham gia vào các cuộc bầu cử không công bằng, hoặc từ chối tuân thủ các luật lệ mà người dân cảm thấy bất công có thể giúp tạo ra một làn sóng bất tuân dân sự. Các chiến dịch này sẽ cần sự đồng thuận và tham gia rộng rãi từ người dân.
• Thí dụ như, điển hình nhứt, Thủ tướng CS phải quyết định ngừng thu phí BOT ở Cai Lậy nói lên hiện tượng “bất tuân dân sự” của người dân trong nước. Ông Phạm Chí Dũng nhận định về vấn đề nầy với bài viết:”Cai Lậy và làn sóng bất tuân dân sự” như sau:
“Bất chấp chính quyền Tiền Giang và chủ đầu tư BOT Cai Lậy lập “phương án tác chiến” rất chi tiết với mũi chủ công trấn áp là hàng trăm cảnh sát cơ động và công an giao thông, bất chấp việc bị lực lượng “tay sai bảo kê” này răn đe và đàn áp, bắt bớ, cánh lái xe đã không chỉ tiếp tục yêu sách đòi BOT Cai Lậy phải hủy bỏ tình trạng “quy hoạch một nơi, thu phí nơi khác”, duy trì chiến thuật trả tiền lẻ mà còn dũng cảm đối mặt với công an, thậm chí còn tổ chức tập hợp kéo đến đồn công an đòi người khi 2 người lái xe bị công an bắt giữ”.
Ký giả Ngàn Hương cũng có phóng sự như sau:”Sau mấy ngày sôi sục khí thế tổng tấn công của nhân dân Nam Bộ, của người dân Tiền Giang, của các tài xế, và được sự cổ võ hết mình của báo chí lề đảng, nhằm đánh thẳng vào nhóm lợi ích BOT Cai Lậy (Tiền Giang), đã làm cho con quái vật này choáng váng, quằn quại và lăn lóc trong vở kịch “xả-thu xả- thu” liên tục. Nhờ các kiểu tấn công vừa trực tiếp, vừa gián tiếp liên miên và bền bỉ như vậy, đã làm cho trạm BOT này chỉ trong 4 ngày vừa qua (từ 30/11 đến 01, 02 và 03/12), đã “vỡ trận” đến 24 lần. Câu hỏi đặt ra là, ai đứng đằng sau trạm BOT Cai Lậy để ‘hà hơi tiếp sức” cho nhóm lợi ích này ‘ngóc đầu dậy,” và vùng vẫy mạnh hơn trước?”
Hai bài phóng sự tại chỗ về BOT Cai Lậy trên đây chứng minh một cách hùng hồn rằng hành động bất tuân dân sự thực sự đã được người dân Cai Lậy và ở nhiều BOT khác từ Bắc chí Nam đã hiểu và áp dụng một cách hết sức sáng tạo qua việc trả lộ phí, và cũng có nghĩa là hiện tượng trên đã đi vào lòng đại chúng.
Tại BOT Cai Lậy, lộ phí là 25.000 Đồng Việt Nam. Và họ đóng lộ phí qua trạm bằng cách trả giấy bạc 500.000 Đồng và chờ tiền thối lại; hoặc trả 2x10.000 Đồng, 4x1.000 Đồng, 1x500 Đồng và 3x200 Đồng. Tổng cộng 25.100 Đồng và người dân nhứt định chờ Trạm thu lộ phí phải thối lại 100 Đồng …mới chịu chạy qua khỏi trạm với mục đích đình trệ việc lưu thộng vì tiền thối 100 Đồng không còn lưu dụng nữa.
• Đề diệt Việt Cộng và các nhóm lợi ích, cũng cấn nên áp dụng cùng chính sách như trên, phục kích, đốt phá bằng mọi cách các cơ ngơi được xây dựng trên xương máu của dân tộc. Trong giai đoạn “gần như tuyệt vọng” của đất nước như ngày hôm nay, phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” cần áp dụng triệt để. Vì chính cá nhân và gia đình họ cũng đã và đang chuẩn bị “hạ cánh an toàn” ở ngoại quốc.
Về các tập đoàn xã hội dân sự và đại chúng - Những đề nghị dưới đây có thể triệt tiêu và xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản của CSBV trong hỗn loạn. Chúng ta hãy thử hình dung những hoạt cảnh sau đây:
Công nhân sở Rác ở Sài Gòn và Hà Nội ngưng hốt rác trong 2 ngày, thì hai thành phố hơn 10 triệu dân mỗi nơi cũng đủ để biến thái với trên 40.000 tấn rác phủ ngập thành phố.
Công nhân ở các công ty cung cấp nước uống, nhà máy điện, nhà máy khí đốt và xăng dầu v.v… đồng loạt đình công không đi làm việc trong một ngày mà thôi cũng đủ để biến loạn Xã hội.
Người dân buôn thúng bán bưng đình công không nhóm chợ. Chuyện gì sẽ xảy ra?
Nhân viên y tế, bác sĩ, nhà bảo sinh… ngưng không làm việc, thì sẽ ra sao?
Sinh viên và học sinh đồng loạt bãi khóa thì ngòi nổ sau cùng sẽ chấm dứt chế độ độc tài tập thể cộng sản Bắc Việt.
2.4 Xây dựng các mạng lưới hỗ trợ và tạo áp lực quốc tế
Các phong trào bất tuân dân sự không thể thành công nếu thiếu sự tổ chức. Các nhóm có thể tổ chức các cuộc họp, hội thảo, và tạo ra các mạng lưới thông tin để duy trì sự kết nối và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình hành động.
Một chiến lược quan trọng là thu hút sự chú ý và sự ủng hộ từ các tổ chức quốc tế, chính phủ nước ngoài và các tổ chức nhân quyền. Sự lên tiếng và áp lực từ quốc tế có thể tạo ra môi trường thuận lợi cho cuộc cách mạng bất tuân dân sự, khiến chính quyền phải đối mặt với sự chỉ trích và khó khăn về mặt ngoại giao. Việc làm trên đã được Mạng Lưới Nhân Quyền ở Hoa Kỳ đã thực hiện gần 30 năm qua với giải thưởng nhân quyền hàng năm đối với những người đấu tranh trong nước và vận động hành lang qua các buổi điều trần việc vi phạm và đàn áp nhân quyền trước quốc hội Mỹ…
2.5 Chia sẻ thông tin và tạo tiếng nói quốc tế
Thông qua các phương tiện truyền thông quốc tế và các mạng xã hội, người dân có thể làm lan tỏa thông điệp và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế về những vấn đề bất công trong nước. Các nhóm hoạt động nhân quyền quốc tế có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đưa các vấn đề này ra ánh sáng. Có thể nói Liên Minh vì Việt Nam Dân chủ – Alliance for Vietnam’s Democracy đã thành công trong việc nầy khi làm một cuộc trưng cầu dân ý toàn cầu vào năm 2020 với trên 5 triệu người Việt trong nước tham gia việc nói lên tiếng nói dân chủ và LM cho đến nay vẫn tiếp tục vận động quốc tế và đã gây được nhiều tiếng vang toàn cầu.
2.6 Tạo dựng các phương tiện truyền thông độc lập
Phát triển các kênh truyền thông độc lập: Một yếu tố quan trọng để hỗ trợ cuộc cách mạng bất tuân dân sự là việc xây dựng các kênh truyền thông độc lập để thông báo cho công chúng về các hành động và chính sách của chế độ, và cung cấp thông tin về các phong trào đấu tranh. Việc này giúp người dân nắm bắt được các sự kiện và hiểu rõ mục tiêu của các phong trào. Và việc nầy đã được Radio Đáp Lời Sông Núi của Lực lượng Cứu quốc hải ngoại thực hiện hàng tuần, phát thanh về Việt Nam, loan báo những tin tức liên quan đến công cuộc vận đông dân chủ cho Việt Nam hơn 10 năm qua.
Xử dụng mạng xã hội: Các nền tảng mạng xã hội như Facebook, X (Twitter cũ), và YouTube có thể là công cụ mạnh mẽ để tổ chức và lan tỏa các cuộc đấu tranh không bạo lực. Người dân và cá nhân có thể xử dụng chúng để chia xẻ thông tin, kêu gọi sự tham gia và thu hút sự chú ý của thế giới bên ngoài.
Tạo ra các hình thức phản kháng sáng tạo, biểu tượng và khẩu hiệu là một chiến lược quan trọng trong cuộc đấu tranh bất tuân dân sự. Những hình thức này có thể giúp xây dựng sự đồng thuận, tạo động lực cho phong trào, và thu hút sự chú ý của xã hội cũng như cộng đồng quốc tế. Dưới đây là một số cách để thực hiện các chiến lược này hiệu quả như tổ chức các cuộc biểu tình sáng tạo, ôn hòa
Xử dụng các biểu tượng và khẩu hiệu trong các cuộc biểu tình: Những cuộc biểu tình ôn hòa có thể là nơi để biểu tượng và khẩu hiệu được sử dụng rộng rãi. Những khẩu hiệu này có thể được viết lên băng rôn, bảng hiệu, áo phông, hoặc được hô vang trong các cuộc diễu hành.
Tẩy chay các sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà cầm quyền cs. Tẩy chay các sản phẩm, dịch vụ hoặc các sự kiện do họ tổ chức có thể là một hình thức phản kháng sáng tạo. Ví dụ, một chiến dịch tẩy chay các sản phẩm của các công ty có liên quan đến chế độ có thể là một cách để gây áp lực lên chính quyền mà không cần bạo lực.
Các cuộc đình công: Đình công tại các nơi làm việc, trường học, hoặc các tổ chức xã hội có thể tạo ra sự đình trệ lớn và gây áp lực lên chế độ. Những cuộc đình công này có thể diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau, từ công nhân, giáo viên, cho đến học sinh, để tạo ra sự không hài lòng và yêu cầu thay đổi. Hành động ngồi hoặc không làm gì: Các hành động như ngồi yên tại các địa điểm công cộng, không tham gia vào các hoạt động chính thức của chính phủ, có thể giúp gây sự chú ý mà không cần phải đụng chạm đến quyền lực. Việc nầy đã được thanh niên sinh viên Trung Cộng thực hiện nhiều cuộc phản kháng trang năm 2024 tại Bắc Kinh.
Tóm lại, các biểu tượng hoặc khẩu hiệu có thể trở thành một phần quan trọng trong việc tạo động lực và gây sự chú ý đến phong trào. Những hình thức phản kháng sáng tạo này có thể giúp lan tỏa thông điệp và tạo ra một tinh thần đoàn kết rộng rãi. Các hình thức này không chỉ giúp nâng cao tinh thần đoàn kết, mà còn thu hút sự chú ý của công luận trong và ngoài nước, tạo ra sự ủng hộ và làm gia tăng sức ép đối với chế độ.
Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự ở Việt Nam có thể xảy ra nếu như có đủ sự hỗ trợ từ trong xã hội và từ cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, việc thực hiện nó sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, đặc biệt là sự đàn áp mạnh mẽ từ chính quyền và những thách thức trong việc tạo ra sự đồng thuận trong xã hội. Nếu có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, các chiến lược không bạo lực, và sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, thì đây có thể là một con đường để tiến tới sự thay đổi trong tương lai, mặc dù kết quả sẽ không thể đạt được ngay lập tức và sẽ cần một thời gian dài để xây dựng sức mạnh. Tuy nhiên, để thành công, những chiến lược này cần được triển khai một cách đồng bộ, sáng tạo và kiên trì, đồng thời tạo được sự tham gia rộng rãi từ người dân.
3. Nhận định
Qua các sự kiện kể trên và sự phân tích cuộc tranh đấu bất bạo động qua hình thức bất tuân dân sự của Gene Sharp đã nói lên một thực trạng rõ ràng của xã hội Việt Nam hiện nay:
• Người dân không còn gì để sợ hãi nữa vì đã bị đẩy vào tận chân tường rồi;
• Chủng tử sợ đó đã được chuyển tải qua những cán bộ, đảng viên tư bản đỏ và các nhóm lợi ích cùng tập đoàn “thực dân mới” Trung Cộng đang hiện diện trên 49 địa điểm chiến lược quan trọng từ Bắc chí Nam.
Vì vậy, người con Việt ngày nay không còn gì để mất nữa. Mỗi người trong chúng ta chỉ còn quyết tâm đứng lên áp dụng những chiêu thức trong cuộc cách mạng bất tuân dân sự nêu trên.
Đứng về phương diện cá nhân, mỗi người trong 100 triệu dân, chúng ta có thể làm những việc sau đây:
Để đuổi Tàu (chứ không …thoát Trung) đang ngự trị trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta phá hoại bằng cách ĐỐT những cơ sở làm ăn của chúng, từ tiệm chạp phô, tiệm hủ tiếu, hay một nhà máy sản xuất v.v…Vì bây giờ họ rất sợ. Kinh nghiệm vụ đốt phá Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương và các cuộc biểu tình ở Vũng Áng năm 2016… cho thấy các chủ nhân ông Tàu đã chạy mau về Tàu rồi. Thậm chí TC cho tàu qua rước công nhân của họ ở Vũng Áng, Hà Tĩnh về Tàu nữa;
Để triệt tiêu Việt Cộng và các nhóm lợi ích, áp dụng cùng chính sách như trên, phục kích, đốt phá bằng mọi cách các cơ ngơi được xây dựng trên xương máu của dân tộc. Trong giai đoạn “gần như tuyệt vọng” của đất nước như ngày hôm nay, phương châm “cứu cánh biện minh cho phương tiện” cần áp dụng triệt để. Vì chính cá nhân và gia đình của các bộ cao cấp cũng đã và đang chuẩn bị “hạ cánh an toàn” ở ngoại quốc.
Nhiều năm qua, trong những cuộc họp liên quan đến tình hình ở Việt Nam, chúng ta thường góp ý về việc dùng cả hai chiến lược: "chiến tranh du kích" và tranh đấu bất bạo động (TĐBBĐ). Thiết nghĩ nếu chỉ có TĐBBĐ trong bối cảnh tình hình chánh trị ở Việt Nam thì không có hiệu quả. Vì sao? TĐBBĐ của thánh Mahatma Gandhi thành công ở Ấn Độ vì đối tượng của họ là một chính phủ dân chủ, xã hội văn minh.
Còn đối với cs như TC, csBV... thì, TĐBBĐ sẽ bị họ đàn áp thẳng tay. Theo như Gene Sharp thì trong TĐBBĐ khi một nhóm người tranh đấu bị bắt, chịu đòn, rồi nhóm khác tiếp tục tiến lên cho đến khi không còn nhà tù để chứa nữa. Một ý kiến rất hay nhưng việc này cần nhiều huấn luyện, kỹ luật, và phối trí rất khó thực hiện ở Việt Nam.
Bất tuân dân sự là một hình thức TĐBBĐ, nếu được bổ túc với đánh du kích như đốt phá các hãng xưởng của Tàu, thiêu hủy các dinh thự của các chóp bu cs, cộng thêm việc đình công bãi thị, bãi khóa thì sẽ có kết quả nhiều hơn. Việc đốt phá cần ít nhân sự, ít tốn kém, mà gây tiếng vang, khuyến khích những hành động tương tự trong số người bất mãn, sẵn sàng hy sinh cho đại cuộc.
Nếu Indonesia "tống cổ" cs ra khỏi xứ họ được vì máu đã được xử dụng đúng thời đúng lúc, thì Việt Nam cũng có thể làm được, nếu được châm ngòi, khuyến khích, hỗ trợ. Chính bạo quyền cộng sản mới là phía kích động bạo lực. Đảng CSBV mới chính là cái nôi, là nguồn cơn, là thủ phạm của mọi bạo động trên đất nước này. Không ai khác, tập đoàn cộng sản là những kẻ đã dùng bạo động làm phương châm và kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong suốt thời gian tồn tại của họ cho đến ngày nay.
Ngay bây giờ là thời điểm để người Việt trong và ngoài nước ra tay, trước khi quá trễ. Một khi TC chiếm Việt Nam thì lúc đó máu Việt sẽ đổ ra nhiều hơn mà vẫn không đi tới đâu hết.
Ngần ấy sự việc và câu hỏi nêu trên có rất nhiều xác suất xảy ra trong giai đọan nầy.
Chắc chắn cường quyền sẽ đàn áp dã man.
Chắc chắn máu con Rồng cháu Tiên sẽ tuôn rơi ngập tràn.
Và chắc chắn cơ chế chuyên chính vô sản sẽ bị triệt tiêu vĩnh viễn.
Sau cùng “Lối thoát cho Việt Nam” chính là Cuộc Cách Mạng Bất Tuân Dân Sự.
Hãy làm theo lời dặn dò của vua Duy Tân:”Nước dơ phải lấy máu mà rửa”.
Vận nước đã đến rồi - Thế nước đã tới nơi!
Hiểm họa mất Nước gần kề trong gang tấc!
4. Thay lời kết
Qua các phân tích trên đây, hy vọng từ đó chúng ta sẽ cùng nhau tiếp tục truy tìm một sinh lộ mới cho Việt Nam.
Về phía Trung Cộng, có những mặt chính trị, quân sự, nhứt là kinh tế và xã hội đang xảy ra trong điều kiện không thuận lợi cho nước nầy, từ đó chúng ta có thể vận dụng để làm suy yếu hay triệt tiêu được sức mạnh “Hán hóa” của Trung Cộng. Đó là:
Về kinh tế: Tiếp tay vận động cuộc tầy chay đi du lịch “ngắm cảnh” TC và tẩy chay hàng hóa do TC sản xuất dưới bất cứ hình thức nào, từ thực phẩm, thuốc men, vật dụng dùng trong nhà, quần áo, sản phẩm làm đẹp cho phụ nữ…Nhóm Chống Tàu Diệt Việt Cộng đã có nhiều cố gắng trong việc chuyển tải những thông tin cho bà con ở hải ngoại và quốc nội. Xin bà con hãy cùng tiếp tay đẩy mạnh chiến dịch nầy.
Về chính trị: Hãy cùng phối hợp và hợp tác với chính phủ lưu vong Tây Tạng do một tiến sĩ trẻ, giáo sư Đại học Harvard, không liên quan gì đến nạn quốc phá gia vong ở Tây Tạng vì năm 1959, khi mất Tây Tạng, ông chưa sinh ra. Đó là Thủ tướng Lobsang Sangay, sinh năm 1968.
Về xã hội: Hiện tại có thể nói, xã hội trong nội địa nước Trung Hoa có nhiều biến chuyển không thuận lợi. Người dân Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương đang đứng lên đòi độc lập tích cực hơn qua cuộc đổ máu làm hàng trăm người chết xảy ra ở nhiều tỉnh ở TC. Nhiều tỉnh và thành phố từ Vân Nam đến Quảng Châu, các cty điện, cộng đoàn taxi, cty vận tải v.v…đồng loạt biểu tình. Và quan trọng hơn cả là phong trào sinh viên, học sinh ở Hong Kong bãi khóa đòi bầu cử công bằng và tự do năm 2015.
Trường hợp Giáo sư Ilham Tohti bị kết án chung thân cũng là một «tiếng nói độc lập duy nhất dám bày tỏ quan điểm chống lại chính sách đồng hóa cưỡng bức – về dân cư, về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo – của đảng Cộng sản Trung Hoa đối với 10 triệu cư dân Duy Ngô Nhĩ và nhiều ‘‘sắc tộc thiểu số’’ sống lâu đời tại vùng Tân Cương. Báo Libération lý giải vấn đề nầy như sau: «cách hành xử mang tính thực dân mới này là mảnh đất tốt cho các bạo lực giữa các sắc tộc ngày càng dữ dội» tại miền viễn tây TC. Để chống lại các cuộc tấn công mang tính khủng bố, Bắc Kinh đã trả đũa «bằng các cuộc đàn áp bằng quân đội, thường kết thúc bằng việc bắn vào đám đông, hay bắt bớ hàng loạt».
Về phía Việt Nam: "Tiêu diệt một dân tộc là một tiến trình, chứ không phải một sự kiện". Do đó, tiến trình trên đã được Trung Cộng lâu nay thực hiện cho dân tộc Việt Nam. Đây là một tiến trình lâu dài và đa dạng, được tăng mạnh mẽ do chế độ chính trị và chính sách đối với người dân của CSBV. Một chế độ khoá tay bịt miệng người dân, không cho đất nước có sức mạnh dân tộc:
Nó biến Việt Nam trước tiên là một bãi rác, kế đến là con đường mòn Nam tiến tiếp nối tham vọng của Đại Hán Trung Cộng.
Nó bào mòn sức sống của dân tộc và tàn phá một đất nước xinh đẹp mà Cha Ông đã bao đời gìn giữ và tô bồi”.
Chúng ta cần phải liên lạc, theo dõi diễn tiến của các phong trào đấu tranh dân chủ và nhân quyền của những người như Lưu Hiểu Ba (Nobel Hòa bình 2010), Hồ Giai, Ngải Vị Vị cùng Hiến Chương 08 qua Bản Tuyên Ngôn đầu tiên gồm 350 chữ ký của các nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng nhằm mục đích thúc đẩy cải cách chánh trị và dân chủ cho Trung Hoa. Người Tây Tạng trực diện tranh đấu cho độc lập Tây Tạng tại tỉnh Tứ Xuyên (có 5% dân số Tây Tạng), cũng như người Hồi Hột tranh đấu cho Tân Cương ở tỉnh Vân Nam (có 10% dân số trên 46 triệu người dân trong tỉnh). Cũng không quên nhắc đến phong trào Pháp Luân Công ở cùng khắp mọi nơi trong nước Tàu tranh đấu cho tự do tôn giáo và bất công xã hội.
Các phong trào trên chính là những ngòi nổ cho việc biến Trung Cộng trở thành “Đông Châu Liệt Quốc”. Và một khi TC bị xé tan thành nhiều mảnh, CS Bắc Việt, thái thú biết nói tiếng Việt của TC sẽ không còn “hậu phương” lớn làm điểm tựa, dĩ nhiên ngày tàn của chế độ sẽ không còn xa sau đó.Tất cả các phối hợp đấu tranh trên nhằm mục đích đẩy mạnh sự xáo trộn xã hội, kinh tế của TC; từ đó tiến trình mang lại tự do, dân chủ và nhân quyền của TC sẽ được rút ngắn, vì sẽ không còn một quốc gia Trung Quốc Vĩ đại nữa.
Người Việt quốc nội và hải ngoại còn có khả năng kết hợp với các NGO trong lãnh vực môi sinh như Oxfam ở Hong Kong và Hà Nội, một cơ quan phi chánh phủ quốc tế tranh đấu cho sự nghèo đói, bất công xã hội, và môi trường để cùng nói lên tiếng nói chung nhằm đánh động dư luận và lương tâm thế giới.
Hiện nay, nạn Hán hóa hay Bắc thuộc lần thứ 5 đã và đang lừng lững hiện diện trên hơn 49 tụ điểm có hơn 1.000 người Trung hoa lục địa, và đang tiếp tục tăng trưởng. Với các “phải chăng” trên đây, 60% tuổi trẻ trong nước cùng sự yểm trợ của những người con Việt hải ngoại cần có thái độ và hành động tích cực hơn nữa để xóa tan mắt xích nô lệ nầy do các Thái thú nói tiếng Việt của nhóm Bắc kỳ đỏ.
Làm con người, tuổi trẻ chúng ta ngày hôm nay cần phải tranh đấu không khoan nhượng cho dân chủ, tự do, nhân quyền cho Đất và Nước. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, giữa lành mạnh và độc hại, giữa dân chủ và độc tài, giữa tự do và cộng sản… không bao giờ dứt. Tuổi trẻ hôm nay, trong và ngoài nước, chính là những người đang làm lịch sử, mang sứ mạng xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản và độc tài của CSBV.
Không còn con đường nào khác cho TUỔi TRẺ Việt Nam!
Tuổi trẻ Việt Nam hãy thực hiện lời nói của Cố Tổng thống Thomas Jefferson là:” Every Generation needs a new REVOLUTION”.
Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận ghi nhận:”Thực dân Pháp ngày xưa đàn áp dân ta vì không phải là đồng bào, đồng chủng. Nhưng họ vẫn còn có tình đồng loại, vẫn có niềm tin tôn giáo nào đó, ý thức danh dự trong lương tâm và nỗi e ngại công luận quốc tế, nên không đến nỗi tàn độc. Nhưng đối với người CS duy vật vô thần và quốc tế vô sản, thì lương tâm, danh dự, ý thức quốc gia, tình tự dân tộc, máu chảy ruột mềm là hoàn toàn vô nghĩa. 50 năm tội ác đã chẳng đủ rồi sao?”
Niềm hy vọng qua trích đoạn trên internet qua nhận định về phim “The Vietnam War”:“ Chính phủ Hoa Kỳ mất 10 năm để tạo dựng (Việt Nam Cộng Hòa), rồi giết đi (ngày 30/4/1975). Ken Burns và Lynn Novick đã mất 10 năm với 30 triệu mỹ kim để hợp pháp hóa cái chết đó. Số phận của miền Nam Việt Nam là sinh ra để chết. Nhưng cái chết đó lại phát sinh ra một Việt Nam diaspora lưu vong có khả năng làm cho Việt Nam phục sinh”. (The US uses 10 years to design the death of South Vietnam. Ken Burns and Lynn Novick use 10 years with 30 million dollars to design the death of her legitimacy. The South Vietnam ’s fate is born to die. But her death created the Vietnam diaspora which will become the resurrection of VietNam.”)
Viễn ảnh một bình minh rực rỡ cho Việt Nam trong những ngày sắp tới chắc chắn sẽ xảy ra trong một tương lai không xa qua cuộc cách mạng Bất tuân Dân sự!
Xin tất cả chúng ta cùng động não…để cùng quyết tâm xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản của CSBV, để từ đó, công cuộc Hán hóa của TC sẽ bị triệt tiêu ngay.
Mai Thanh Truyết
Đầu năm Dương lịch 2025
Subscribe to:
Posts (Atom)