Thursday, December 18, 2025

 


Khí Độc Mùa Đông

 

http://www.mckinneytexas.org/images/pages/N320/CarbonMonoxidePoisoning.jpg

 

 

Vào mùa đông, ở các xứ lạnh như Hoa Kỳ thường có thêm nhiều tai nạn về các vụ ngộ độc trong không khí do các khì thải từ các lò sưởi trong nhà. Đây là một trong những nguyên nhân làm chết người vào mùa đông. Tai nạn nầy có thể nói hiện đang xảy ra nhiều nhất ở Hoa Kỳ và Pháp.

 

Hàng năm có độ khoảng trên 40.000 người nhập viện, trong đó khoảng 500 người bị tử vong vì hít phải khí carbon monoxide (CO), một loại khí thải qua việc đốt lò sưởi và nhiều nguyên nhân khác. Thêm nữa theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa bịnh tật (CDCP), cũng tại Hoa Kỳ, hàng năm có trên 500 người bị chết vì vô tình hít phải khí CO, và hơn 2.000 người đã dùng phương nầy để tự tử.

http://www.uscgboating.org/assets/1/workflow_staging/Page/200x200/19.JPG

Vào ngày 2/12/2022, Văn phòng Cảnh sát trưởng Hạt Pierce cho biết hai người đã chết sau khi nghi ngờ ngộ độc khí carbon monoxide tại một ngôi nhà ở Roy. Chi tiết thêm một người đàn ông 51 tuổi được tìm thấy đã chết tại một ngôi nhà vào khoảng 9:30 tối thứ Ba, cùng với bạn gái 24 tuổi của con trai ông. Người con trai, cũng 24 tuổi, được đưa đến bệnh viện trong tình trạng nguy kịch.

Vao mùa đông, Cảnh sát trưởng Moss tiếp:” Chúng tôi thường thấy/nghe những người bị ngộ độc khí carbon monoxide, hoặc chúng tôi đến nhà vì những vấn đề khác, và sau đó chúng tôi phát hiện ra rằng một máy phát điện đang chạy trong nhà và chúng tôi ngay lập tức bảo họ tắt nó đi, mở cửa sổ, đặt thứ đó ra bên ngoài. Không an toàn khi để nó trong nhà như vậy,”

 

“Bạn không thể chạy máy phát điện hoặc bất kỳ loại động cơ nhỏ nào trong nhà vì nó sẽ, một là nguy cơ tạo ra khí carbon monoxide, nhưng hai, nó có thể là nguy cơ hỏa hoạn,”

 

Tin tức trên cho thấy hầu như hàng năm, mỗi khi mùa đông đến đều xuất hiện những tai nạn tương tự như các tin tức vừa kể trên ở một vài vùng trên đất Hoa Kỳ nầy.

 

Mỗi năm vào khoảng tháng 12 và sau đó, các công ty lò sưởi và máy lạnh gởi đến từng nhà một vài thông tin liên quan đến việc phòng ngừa các khí thải trong mùa đông như: "Do you have the flu or Carbon Monoxide poisoning? Hay "How a hidden leak in your furnace can make you sick". Các tài liệu trên sẽ giúp các bạn có thể tránh được một số tai nạn cho chính bạn và gia đình.

Nếu bạn hoặc ai đó đi cùng bạn bị phơi nhiễm, hãy gọi số khẩn cấp tại địa phương (chẳng hạn như 911) hoặc có thể liên hệ trực tiếp với trung tâm kiểm soát chất độc tại địa phương bằng cách gọi đến đường dây nóng Trợ giúp Ngộ độc miễn phí quốc gia (1-800-222-1222 ) từ bất cứ nơi nào ở Hoa Kỳ.

Safe Way to Connect Heating Equipment to the Chimney 
1- Khí carbon monoxide

 

Trước hết khí đốt (gas) chuyền trong đường ống dẫn vào nhà bạn là một khí không màu và không mùi. Chính vì thế các công ty khí đốt trộn thêm vào hóa chất để cho khí có mùi trứng thúi (rotten egg) để chúng ta khám phá dễ dàng mỗi khi đường ống bị thất thoát ra ngoài không khí. Khí carbon monoxide (CO) là một khí độc tạo thành qua sự đốt cháy các khí đốt trong lò sưởi hay bếp núc. Và một khi nồng độ của khí nầy lên cao, nó có thể gây ra sự phát nổ làm nổ tung nhà của bạn.

 

Khí carbon monoxide (CO) là một khí không màu không mùi vị, không gây ra ngứa ngái…do đó con người khó có thể phát hiện được sự hiện diện của khí nầy trong nhà hay vùng không gian chung quanh chúng ta.

 

How CO enters red blood cellTrong không khí và ở chỗ thông thoáng, nồng độ trung bình của CO là 0,1 phần triệu (ppm) tức 0,1cm3/lít không khí. Trong nhà, nồng độ cao hơn chiếm khoảng 0,5 đến 5 phần triệu. Vùng không khí chung quanh lò sưởi khi hoạt động có từ 5 đến 15 phần triệu. Ống khói các lò sưởi dùng củi để đốt có nồng độ 5.000 phần triệu. Và nếu tính khói thuốc lá không bị loãng trong không khí, nghĩa là khí CO phát ra từ khói thuốc đậm đặc, nồng độ CO lên đến 30.000 phần triệu.

 

Khí CO nầy có được do sự đốt cháy các hợp chất hữu cơ như củi, than, xăng dầu, v. v…trong điều kiện không đủ oxy để hoàn tất sự đốt cháy. Nếu sự đốt cháy hoàn tất, các hợp chất trên sẽ phóng thích ra khí carbonic (CO2). Nếu không đủ oxy, khí CO sẽ bị phóng thích.

 

Tóm lại, các nguồn phóng thích CO thường thấy chung quanh đời sống của chúng ta là lò sưởi than củi, bếp than (stoves), khói thuốc lá, khói xe hơi, các bình gas để đi cắm trại, máy phát điện chạy than hay dầu, máy cưa,v.v… thậm chí nhà cháy cũng phát thải ra nhiều khí carbon monoxide. Vì vậy không khí là môi trường ô nhiễm CO thường xuyên, và khí nầy cũng là một trong những nguyên nhân gây ra sự hâm nóng toàn cầu. Một phân tử CO gây tác hại gấp ngàn lần sự hủy hoại tầng ozone so với một phân tử CO2.

 

https://encrypted-tbn2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRSGmNUpf5VgJtbi_yQ2Nj-w_kpTn8QxFyVzGHL9os5h8QeNF4QĐối với lượng phát thải CO trong khói xe, Luật Không khí sạch (Clean Air Act) và EPA Hoa Kỳ từ năm 1990 đã giảm giới hạn sự phát thải của xe xuống còn 3,4 gram cho một dặm Anh, so với trước đó là 87 grams và xe hơi các đời sau 2006 phải lấp đặt hệ thống hấp thụ khí CO có khả năng hấp thụ đến 99% khí CO phát thải ra.

 

Đây là một loại khí được xếp vào hạng độc hại có khả năng làm chết người nếu bị ngộ độc cấp tính. Nếu bị ngộ độc dài hạn và từ nhẹ đến nặng, con người có thể bị nhức đầu, chóng mặt, hoặc có những hiện tượng như cảm cúm. Nếu bị nhiễm nhiều hơn nữa CO có thể đi vào hệ thần kinh và hệ tuần hoàn có thể gây ra chết người. Đối với các bà mẹ đang mang thai, CO có thể gây tử vong cho thai nhi.

 

Phương pháp chữa trị tốt nhất là đem bịnh nhân vào chỗ thoáng khí và tiếp trợ khí oxygen vào khí quản mà thôi.

 

2- Biện pháp đề phòng khi mùa đông đến

 

Mỗi năm khi mùa đông đến chúng ta cần chuẩn bị hệ thống sưởi trước khi xử dụng.

* Trước hết, chúng ta cần phải mở của lò sưởi bằng cách mở miếng chắn gió trong ống khói (đã đóng lại khi mùa đông chấm dứt) và kiểm soát xem ống khói có bị nghẹt hay không?

* Sau đó cần kiểm soát các đường ống dẫn gas;

* Cần kiểm soát chung quanh lò sưởi xem có đủ không khí cung cấp cho lò sưởi khi được đốt lên hay không? Một lò sưởi trung bình đốt 12 feet3/ngày. Do đó, nơi gần lò sưởi cần phải thoáng để cho không khí mới có thế vào. Nếu không, khí độc như CO có thể kết tụ chung quanh lò sưởi;

* Cần phải kiểm soát cần phải xem lại đường ống gas và hệ thống trao đổi nhiệt (heat exchanger) trong lò sưởi có bị rò rỉ hay không?

* Sau cùng cũng cần xem lại hệ thống nước nóng (nếu chạy bằng gas) và lò sưởi trung ương (central heater) chung quanh các ống nối.

 

Tốt nhứt là bạn nên gọi một thợ chuyên môn để kiểm tra lại toàn thể hệ thống sưởi nhà bạn trước khi mùa đông đến.

 

Đó là:

 

- Lau sạch hệ thống đốt (burner);

- Hút bụi bậm chung quanh hệ thống trao đổi nhiệt và thử nghiệm rò rỉ hệ thống nầy;
- Kiểm tra hệ thống thông gió;

- Kiểm tra lại sự vận hành của lò sưởi trung ương và hệ thống nước nóng, v.v

 

3- Các triệu chứng của sự ngộ độc CO

 

https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQpj7uD-6vw7KO7RE0boYLoJAF6TbjqO7VVoyjfgupBR7VL7g14Triệu chứng cấp tính: Đối với việc tiếp nhiễm ở nồng độ thấp, các hiện tượng xảy ra làm cho chúng ta có thể nhầm lẫn với việc bị cảm cúm, mệt mõi, hay bần thần không vui. Do đó việc chẩn đoán rất khó khăn. Và việc chẩn đoán chỉ được xác định bị nhiễm hay không là nhờ phương pháp đo lượng CO trong hồng huyết cầu mà thôi.


Hai hệ thống tuần hoàn và thần kinh là hai vị trí bị ảnh hưởng nặng nhất. CO có thể làm tăng áp suất máu, làm nhức đầu nặng, xây xẩm mặt mày, lên cơn kích ngất và có thể bị hôn mê nếu bị ngộ độc nặng.

 

Những người có nguy cơ cao bị tổn thương cơ thể nghiêm trọng hơn bao gồm trẻ nhỏ, người lớn tuổi, người mắc bệnh phổi hoặc tim, những người ở độ cao và người hút thuốc. Carbon monoxide có thể gây hại cho thai nhi (thai nhi vẫn còn trong bụng mẹ).

 

Các triệu chứng ngộ độc carbon monoxide có thể bao gồm: - Các vấn đề về hô hấp, bao gồm không thở, khó thở hoặc thở nhanh - Đau ngực (có thể xảy ra đột ngột ở người bị đau thắt ngực) - Hôn mê - Lú lẫn - Co giật - Chóng mặt - Buồn ngủ - Ngất xỉu - Mệt mỏi -

Đau đầu - Suy giảm khả năng phán đoán - Cáu gắt - Huyết áp thấp - Yếu cơ - Nhịp tim nhanh hoặc bất thường - Buồn nôn và ói mửa - Bất tỉnh.

 

Nếu bị nhiễm độc dài hạn, các chứng sau đây có thể xảy ra bị sưng phổi, tim mạch, ảnh hưởng lên thị giác và thính giác, thận có thể bị giảm hoạt động và bị liệt. Một điểm có thể khám phà bằng mắt khi bị nhiễm độc CO, là da nạn nhân biến thành màu hồng.

 

Sau đây là nồng độ của carbon monoxide tức CO có thể gây ngộ độc từ nhẹ tới nặng như sau:

 

* Nếu một người hít thở không khí chứa 400 phần triệu lượng khí CO có thể bị tử vong;

* Nếu bị tiếp nhiễm 35 phần triệu trong vòng 6 giờ có thể bị nhức đầu và chóng mặt;

* Nếu bị tiếp nhiễm 800 phần triệu, nạn nhân bị ói mữa, co giựt trong vòng 45 phút và bị hôn mê trong vòng 2 giờ;

* Nếu bị nhiễm 6.400 phần triệu, nạn nhân có thể chết trong vòng dưới 20 phút.

 

4- Carboxyhemoglobin

 

Carbon monoxide hay CO là một khí có ái lực (affinity) với sắt (Fe - Iron) nghĩa là kết nối dễ dàng với nguyên tố sắt trong hồng huyết cầu qua cầu nối hoá học để cho ra carboxyhempglobine (COHb).Tính ái lực của CO đối với hồng huyết cầu mạnh hơn tình ái lực của oxygen đối với hồng huyết cấu gấp 240 lần. Do đó, khi bị nhiễm vào trong máu, CO sẽ tách oxygen ra khỏi hồng huyết cầu và làm giảm lượng oxy trong máu, và cơ thể sẽ thiếu oxy để nuôi dưỡng toàn thể con người. Và con người bắt đầu bị nhiễm độc từ hiện tượng nầy.

 

Thông thường lượng CO trung bình trong hồng huyết cầu là 5%. Một người hút hai gói thuốc một ngày có thể làm tăng lượng CO trong máu gấp hai lần nghĩa là 10%. Nạn nhân gọi là bị nhiễm độc khi lượng CO trong huyết cầu tăng lên 25%. Và có thể đưa đến tử vong nếu lượng CO tăng lên đến 70%.

5- Biện pháp phòng ngừa

 

Đây là một vấn đề y tế công cộng áp dụng cho cộng đồng. Việc giáo dục và gây ra ý thức an toàn trong việc sưởi ấm, khói xe, nhất là trong mùa đông, nhà cửa bị đóng kín, lượng không khí "sạch" bên ngoài không được thông thoáng với bên trong nhà.


https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQV-_1gxjBhZUWq04wOrFioU-sHvMgipcZdn8i7TeWk-iXKpo5pVì vậy, biện pháp hay nhất để phòng ngừa sự nhiễm độc CO là phương pháp lấp đặt hệ thống phát hiện CO trong không khí. Một hệ thống gây ra tiếng động (alarm), tạo ra sự chú ý của người trong vùng không khí đang bị ô nhiễm để thoát hiểm bằng cách rời khỏi nơi chúng ta đang hiện diện. Hệ thống nầy cần lắp đặt trên trần nhà, gần nơi đặt lò sưởi hay những lò nấu nướng vì khí CO nhẹ hơn không khí cho nên lơ lững phía trên trần nhà. Giá trung bình của hệ thống trên vào khoảng từ 20 đến 60 Mỹ kim chạy bằng pin.

 

Hệ thống khám phá khí CO tuy không bị bắt buộc lấp đặt trong nhà ở, nhưng hầu hết các cơ quan an toàn sức khoẻ đều đề nghị cần có ít nhất một hệ thống trong nhà. Gần đây nhất, thành phố New York ra luật phải có một hệ thống trên trong giấy phép xây cất nhà mới. Tiểu bang Illinois và Massachesetts ra luật áp đặt hệ thống trên kể tử ngày 1/1/2007.  

 

6- Các khí độc khác

 

Ngoài khí CO phát thải trong nhà vào mùa đông, khí CO và một số khí thải khác như nitrogen oxides (NOx) khói chì (lead) cũng là những nguyên nhân gây tác hại cho công nhân trong những khu sản xuất công nghiệp nhất là các công nghệ luyện kim và hầm mõ. Theo Cơ quan An toàn Sức khỏe trong Công nghiệp (OSHA) cũng như các định mức độc tố của Bộ Y tế HK, nếu nồng độ của CO trong không khí đạt đến 400 phần triệu, người công nhân hít phải không khí bị nhiễm độc nầy trong vòng một giờ đầu tiên thì chưa bị ảnh hưởng, nhưng trong giờ thứ hai trở đi, tình trạng ngất xỉu có thể xảy ra.

 

Nghĩa là trong giờ đầu tiên, con người chưa bị ảnh hưởng nhiều vì CO đang còn trong giai đoạn kết hợp với hồng huyết cầu. Nhưng sau đó, vì thiếu oxy cho cơ thể cho nên người công nhân sẽ thở mạnh, ngắn, hơi thở đứt quảng khi lượng CO trong máu lên đến 20 đến 30%. Từ 30 đến 50%, thần kinh sẽ bị giao động, chóng mặt, thị giác không còn hoạt động được nữa và sẽ đưa đến hôn mê. Nếu bị tiếp nhiễm trên 50% CO, có thể bị tử vong sau đó.

 

7- Về các khí nitrogen oxides (NOx):

http://wpcontent.answcdn.com/wikipedia/commons/thumb/d/df/Health_effects_of_pollution.png/351px-Health_effects_of_pollution.png

Đây là một khí độc, gây khó chịu cho da và mắt trước tiên khi bị tiếp nhiễm. Thông thường, NOx xuất hiện dưới dạng khí khi acid nitric tác dụng lên chất hữu cơ như gỗ, mạc cưa, hay acid nitric đun nóng, hoặc các chất hữu cơ có chứa nitrogen bị đốt cháy. Trong các lò luyện kim, hay hàn xì, nitrogen và oxy trong không khí gây ra phản ứng để tạo ra NOx.

 

Đặc tính của NOx là hòa tan trong nước để tạo thành acid nitric hay acid nitrous. Đây là phản ứng trong cơ thể khi hấp thụ NOx qua đường khí quản. Các acid tạo thành làm cho cổ họng và cuống phổi bị khô vì mất nước. Các acid vừa mới tạo thành sẽ bị trung hòa bằng cách kết hợp với các mô trong cơ thể. Và chất sau nầy sẽ làm cho các động mạch nở lớn làm giảm áp suất của máu gây chứng nhức đầu chóng mặt.

 

Nếu nồng độ tiếp nhiễm từ 60 đến 150 phần triệu, người công nhân sẽ bị khô mũi và cổ họng, ho và đau ngực. Nếu sau đó được hít thở không khí sạch, thì sẽ được hồi phục trong vòng một giờ. Nếu bị tiếp nhiễm liên tục trong 24 giờ, hơi thở sẽ bị đứt quảng, mất ngũ, có thể bị chứng cyanosis (máu xanh ở móng tay như trong trường hợp trẻ sơ sinh bị nhiễm nitrate) và sau cùng có thể đi đến tử vong.

 

Sau cùng đối với khói chì (lead), kim loại nầy đã được EPA HK xếp vào loại gây ra ung thư cho con người. Phổi và thận là hai cơ quan trực tiếp bị ảnh hưởng. Nhiễm độc hơi chì là một mối ưu tư hàng đầu trong tất cả loại nhiễm độc trong công nghiệp. Chì đi vào cơ thể qua đường khí quản, thực quản hay qua các mô da dưới dạng bụi, khói, hay khí ẩm.

 

Thông thường con người bị tiếp nhiễm nhiều nhất dưới dạng chì hữu cơ. Khi chì đi vào cơ thể, một phần sẽ không bị hấp thụ và được tống khứ ra ngoài bằng đường đại tiện. Phần còn lại sẽ đóng trong túi mật. Chì xâm nhập qua đường khí quản độc hại hơn chì qua đường thực quản. Khi bị tiếp nhiễm chì bám vào tế bào máu, làm cho tế bào bị vỡ ra gây chứng thiếu máu (anemia). Và điểm đến sau cùng của chì trong cơ thể là thận, gan, hệ thống thần kinh và tế bào máu.

 

8- Kết luận

 

Qua những tin tức được nêu trên, khí CO và NOx là hai tác nhân nguy hiểm nhất trong mùa đông, vì khí NOx có tỷ trọng cao hơn không khí, và trong mùa đông, lượng hơi nước làm tăng độ ẩm của không khí. Do đó, một số khí độc khác như khói chì vẫn còn lơ lững nơi tầng ozone thấp, tức gần mặt đất. Vì vậy, nguy cơ bị tiếp nhiễm các khí trên rất cao.

 

Tóm lại, nếu chúng ta đã nhận thức được nguy cơ của việc nhiễm độc carbon monoxide và nitrongen oxides, chúng ta có thể tránh được các tai nạn trên. Dù ở đâu, trong nhà, hay trong xe, hoặc trong tàu…nguy cơ bị nhiễm độc CO rất cao.

 

Việc phòng bị vẫn là một biện pháp phòng ngừa tai nạn hữu hiệu nhứt trước khi mùa đông đến.

 

Kính chúc bà con cẩn thận và chuẩn bị cho mùa đông Nhâm Dần nầy.

 

Mai Thanh Truyết


 


 

 


 







https://mail.google.com/mail/u/0/images/cleardot.gif

 






Tuesday, December 16, 2025

 


Lòng tin giữa Người Việt hải ngoại và Cộng sản Bắc Việt

Chân Trời Mới Media

Việt Nam thường tuyên bố:"Người Việt hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời được".

Trong hơn bốn thập niên qua, cụm từ “Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” là câu khẩu hiệu được lặp đi lặp lại trong văn kiện chính thức, các nghị quyết, và diễn văn ngoại giao của Nhà nước Việt Nam. Từ Nghị quyết 36 (2004) đến Nghị quyết 45 (2023), câu nói này trở thành kim chỉ nam cho công tác đối với người Việt hải ngoại. Tuy nhiên, đằng sau bề mặt có vẻ như mang tính hòa giải và bao dung dân tộc ấy là một cấu trúc ngôn ngữ đầy tính toán chính trị, gợi lên những câu hỏi sâu sắc về ký ức lịch sử, quyền tự định danh của cộng đồng tị nạn, và quan hệ giữa nhà nước với một bộ phận dân chúng nằm ngoài không gian quản trị của họ.

Bài viết này phân tích câu tuyên bố ấy từ ba bình diện: bối cảnh lịch sử hình thành; cơ chế của ngôn ngữ quyền lực; và những căng thẳng tâm lý – văn hóa mà nó tạo ra trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

1- Bối cảnh lịch sử: Từ chia rẽ sau 1975 đến chiến lược “kết nối” sau Đổi Mới

Để hiểu câu tuyên bố này, cần đặt nó vào bối cảnh lịch sử của làn sóng di cư lớn nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sau năm 1975, Việt Nam chứng kiến một cuộc di cư mà giới nghiên cứu gọi là diaspora bắt buộc (forced diaspora). Khoảng 1,5 đến 2 triệu người rời khỏi đất nước trong vòng 20 năm, trong đó hàng trăm ngàn người chết trên biển. Họ không phải là “di dân kinh tế”; đa số là: - quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, - trí thức, công chức miền Nam, - người có nguy cơ bị trại cải tạo, - người bị phân loại lý lịch, - người không chấp nhận hệ thống chính trị mới.

Trong nhiều năm, cộng đồng này bị nhìn nhận bằng hai từ: “ngụy” và “phản động”. Quan hệ giữa nhà nước và cộng đồng người Việt tị nạn vì thế mang tính đối đầu và thiếu niềm tin.

Việt Nam Cộng hòa đã tự chuốc lấy thất ...Bước ngoặt chỉ đến khi đất nước bước vào Đổi Mới 1986, và nhu cầu thu hút nguồn lực từ bên ngoài trở thành một phần sống còn trong chiến lược phát triển. Lúc này, trong các văn kiện chính trị, cộng đồng người Việt tị nạn được đổi tên thành “người Việt Nam ở nước ngoài”, rồi thành “kiều bào” – một khung ngôn ngữ mềm hơn, ít mang tính đối đầu hơn.

Từ đầu thập niên 2000, Nhà nước bắt đầu đưa ra thông điệp mới: người Việt hải ngoại là một “bộ phận” không thể tách rời, là “máu của máu, thịt của thịt dân tộc”, cần được “đoàn kết, tập hợp, vận động”. Mục tiêu không chỉ là hòa giải, mà còn nhằm vào việc thu hút kiều hối, thu hút đầu tư, sử dụng ảnh hưởng của kiều bào để vận động chính trị ở các nước sở tại, làm mềm hình ảnh quốc tế của nhà nước.

Bối cảnh ấy cho thấy: câu nói này không chỉ là lời “tâm tình dân tộc”, mà là một bước chuyển chiến lược trong chính sách đối ngoại và phát triển kinh tế.

2- Hòa giải bề mặt, nhưng quyết định tính chính danh bên trong

Chính trị - Xây dựng Đảng - Tạp chí Cộng sảnKhi một nhà nước nói “người Việt hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời”, câu hỏi quan trọng nhất không phải là họ có thật sự tin vào điều đó không, mà phải cần tìm hiểu rõ ý nghĩa chính trị của việc diễn ngôn như vậy là gì?

Trong ngôn ngữ học chính trị, những câu tuyên bố kiểu này không đơn thuần mô tả thực tế. Chúng tạo ra một thực tế mới nhằm phục vụ mục tiêu quyền lực. Có ba ẩn ý quan trọng:

·       Xác lập quyền đại diện độc quyền

Nếu người Việt hải ngoại là “một bộ phận” của dân tộc, và Đảng Cộng sản đại diện duy nhất cho dân tộc, thì toàn bộ cộng đồng hải ngoại – bất kể thái độ chính trị – đều được đặt dưới một khung diễn ngôn do nhà nước định nghĩa.

Câu nói này, do đó, gián tiếp phủ định tính chính danh lịch sử của cộng đồng tị nạn, vốn đã hình thành trên nền tảng không chấp nhận chế độ hiện tại.

·       🎯 Có 'hòa hợp hòa giải dân tộc' với CN ...Xóa nhòa nguyên nhân ra đi

Việc gọi cộng đồng tị nạn là “bộ phận không thể tách rời” khiến lý do lịch sử và ý nghĩa của làn sóng vượt biển bị gạt sang một bên. Sẽ không còn sự thừa nhận rằng họ ra đi vượt biên vì oan khiên của cải tạo, phân biệt lý lịch, suy sụp kinh tế và chính sách tập trung, môi trường chính trị không chấp nhận khác biệt.

Hòa giải chỉ thật sự có ý nghĩa khi có sự nhìn nhận về ký ức đau thương. Nhưng ngôn ngữ chính trị hiện thời lại muốn hòa giải không cần ký ức, một mô hình “hòa giải không cần đối thoại”.

Về bề mặt, câu này mang ý nghĩa: - Người Việt sống ngoài nước vẫn thuộc về “dân tộc Việt Nam”; - Nhà nước công nhận vai trò, tình cảm, đóng góp của kiều bào; - Và, dù ở đâu, người Việt vẫn có gốc gác chung.

Đây là thông điệp hòa giải – đoàn kết (ngoài mặt) được CSBV sử dụng trong nhiều diễn văn và nghị quyết, đặc biệt từ thời mở cửa sau 1986.

·       Ý nghĩa đích thực có ẩn ý quan trọng

Đây chính là ngôn ngữ quyền lực (political language). Câu nói mang ba hướng ý nghĩa khác nhau:

·        Xác lập quyền đại diện độc quyền của nhà nước: Nếu người Việt hải ngoại là “một bộ phận của dân tộc Việt Nam”, thì nhà nước trong nước nghiễm nhiên là người đại diện hợp pháp duy nhất của toàn thể dân tộc, bao gồm cả cộng đồng bên ngoài. Điều này giúp CSBV củng cố lập luận ngoại giao rằng chính quyền đương thời là “đại diện” cho cả hơn 100 triệu người.

·        Giảm tính chính danh của cộng đồng tị nạn: Rất nhiều người Việt hải ngoại, đặc biệt tị nạn sau 1975, tự xem mình không thuộc về hệ thống chính trị hiện tại. Vì vậy, CSBV dùng câu này để hòa tan/xóa đi khác biệt lịch sử, xóa mờ tính đặc thù của cộng đồng tị nạn hải ngoại, và biến họ thành “kiều bào” nằm dưới mái nhà chung.

·        Tạo ra căn bản nhằm mở rộng ảnh hưởng: Câu trên là công cụ để kêu gọi đầu tư, chuyển tiền, kiều hối, vận động chính trị ở hải ngoại, và điều hướng truyền thông và cộng đồng người Việt hải ngoại.

Nói cách khác, đây là một chiến lược quyền lực mềm (soft power) nhằm ràng buộc tình cảm và kiểm soát sinh hoạt  cung cách diễn đạt của người Việt hải ngoại.

3- Ý nghĩa văn hóa và tâm lý - Vì sao câu nói gây phản ứng mạnh?

Đối với đa số những người Việt rời bỏ đất nước vì lý do chính trị, câu nói này tạo ra một cảm giác nghịch lý: một mặt, nó gợi lên tình cảm quê hương; mặt khác, nó gây tổn thương vì chứa đựng một sự chối bỏ ký ức.

·        Quyền tự định nghĩa bản sắc bị xem nhẹ: Các cộng đồng tị nạn phát triển bản sắc Việt về văn hóa, và bản sắc tự chủ về chính trị. Câu tuyên bố của CSBV chỉ công nhận phần đầu, nhưng phủ nhận phần sau.

·        Bao dung một chiều: Nhiều người hải ngoại cảm nhận rằng lời gọi “bộ phận không thể tách rời” không đi kèm theo quyền tự do phát biểu, quyền trở về nguyên vẹn, sự nhìn nhận về sai lầm trong các chính sách sau 1975, và nhứt là sự công nhận vai trò lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa. Nói cách khác, nhà nước muốn sự “trở về”, nhưng là trở về trong một khuôn khổ chính trị do họ định sẵn.

·        Xung đột giữa ký ức tập thể và diễn ngôn chính trị: Cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp… hình thành trên nền tảng ký ức chung: - chạy trốn chế độ toàn trị, - mất người thân trên biển, - chịu sự phân biệt và đổ vỡ gia đình, - xây dựng lại đời sống trong nghèo khó. Ký ức này là nền tảng của căn tính tị nạn. Khi nhà nước tuyên bố họ là “bộ phận của dân tộc”, nhưng không thừa nhận nguồn gốc đau thương của sự chia tách, cộng đồng này hiểu rằng:”Sự hòa giải mà nhà nước đề nghị là một hòa giải không nhìn vào quá khứ.” Điều đó khiến thông điệp mất đi tính chân thực. Một khi ký ức ấy gặp một diễn ngôn như “một bộ phận không thể tách rời”, chắc chắn sẽ có hai thế giới xung khắc chạm vào nhau, thế giới của trải nghiệm cá nhân và thế giới của ngôn ngữ nhà nước.

Tóm lại, câu này cũng chạm vào tâm lý hướng về quê hương, nhu cầu được thừa nhận, và thâm sâu nhứt là khát vọng hòa giải dân tộc. Nó đánh vào tình cảm hơn là chính sách, tạo cảm giác “bao dung”, nhưng thực tế lại mang tính một chiều, vì nhà nước không chấp nhận mô hình đa nguyên cho tiếng nói khác biệt. Từ đó, gây phản cảm trong cộng đồng tị nạn?

Chỉ vì xem nhẹ kinh nghiệm lịch sử của những người bỏ nước ra đi vì lý do chính trị, CSBV đặt người Việt hải ngoại vào vị thế lệ thuộc, và là một “phần” của quốc gia do đảng kiểm soát. Họ bỏ qua quyền tự định nghĩa bản sắc của người Việt hải ngoại là không muốn bị gọi là “một bộ phận” theo nghĩa chính trị.

Câu trên còn có ý nghĩa sâu sắc hơn nữa là có tính thu hút kinh tế nhưng không trao quyền, kêu gọi đóng góp, nhưng không mở rộng quyền công dân của người hải ngoại. Tất cả là do CSBV chỉ muốn tóm gọn người Việt hải ngoại và phải “nằm dưới trướng” của cường quyền!

Tóm lược ngắn gọn, câu nói này chỉ là một loại ngôn ngữ hòa giải trên bề mặt trộn lẫn ngôn ngữ quyền lực ở chiều sâu, và lôi ích thực tế qua ngôn ngữ va65n5 động cố hữu của CSBV

4- Một cách nhìn khác trong ý nghĩa tích cực

Dù mang nặng tính chính trị, câu tuyên bố này cũng phản ảnh một sự thật không thể phủ nhận là người Việt hải ngoại đã trở thành một thành tố quan trọng của thế giới Việt Nam hiện đại qua việc:

  • Đóng góp hàng chục tỷ USD kiều hối mỗi năm,
  • Duy trì văn hóa truyền thống Việt tại nước ngoài,
  • Thành công trong khoa học, giáo dục, công nghệ, nghệ thuật,
  • Có ảnh hưởng chính trị tại các quốc gia định cư.

 

Trong nghĩa văn hóa, xã hội, cộng đồng này thật sự là một phần của dân tộc đúng nghĩa, theo một cách hoàn toàn tự nhiên chứ không phải theo mệnh lệnh chính trị của một quyền lực nào cả.

5- Thay lời kết

Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975 Kinh Nghiệm Kiến Quốc - Tủ Sách TrẻCâu tuyên bố “Người Việt hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” vừa đúng, vừa không đúng.

  • Đúng ở khía cạnh văn hóa và lịch sử. Người Việt dù ở đâu vẫn mang trong mình một liên kết sâu xa với quê hương.
  • Không đúng ở khía cạnh chính trị. Một cộng đồng có quyền tự định nghĩa bản sắc của mình; họ không thể được hòa nhập bằng một câu tuyên bố được áp đặt từ trên xuống.

Vì vậy, cần phải truy tìm những hướng đi nào để câu nói trên trở thành sự thật, không chỉ là khẩu hiệu? Muốn vậy:

·        Sự thật lịch sử phải được thừa nhận: Không thể có hòa giải nếu nguyên nhân ra đi không được nhìn nhận, nỗi đau của thuyền nhân bị phớt lờ, trại cải tạo bị che giấu hoặc gọi bằng một từ vô thưởng vô phạt, đau thương của miền Nam không được ghi nhận. Hòa giải phải bắt đầu bằng trung thực về lịch sử, không phải bằng khẩu hiệu cảm xúc.

·        Tôn trọng sự khác biệt chính trị: Một cộng đồng có quyền không đồng ý với nhà nước, duy trì bản sắc tị nạn, giữ lập trường chính trị độc lập. Việc CSBV gọi họ là “bộ phận” nhưng không cho phép họ “khác biệt” chỉ càng làm tình hình căng thẳng hơn.

·        Đối thoại hai chiều thay vì vận động một chiều: Thay vì vận động kiều hối, vận động đầu tư, xây dựng mạng lưới tuyên truyền hải ngoại, CSBV cần lắng nghe cộng đồng, đối thoại công khai, chấp nhận phản biện. Khi đó, nhóm chữ “không thể tách rời” mới là sự gắn kết đặt căn bản trên nền tảng tôn trọng.

·        Thừa nhận sự đa dạng của căn tính Việt hải ngoại: Người Việt hải ngoại không đồng nhất. Có ít nhất ba nhóm lớn: - Tị nạn chính trị (đông nhất tại Mỹ, Canada, Úc), - Di dân kinh tế và du học (sau 1990), - Thế hệ sinh ra ở hải ngoại, mang bản sắc lai (hybrid identity). Không thể dùng một khẩu hiệu áp dụng cho tất cả.
Phải công nhận quyền đa dạng của người Việt hải ngoại. Họ làm theo cách của họ, không theo một khuôn mẫu chính trị nào cả.

Câu tuyên bố “Người Việt hải ngoại là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam” là câu nói đẹp nếu ta hiểu nó theo nghĩa văn hóa và lịch sử. Nó phản ảnh một sự thật rằng người Việt dù đi đâu vẫn mang trong lòng ký ức về quê hương, ngôn ngữ, gia đình, truyền thống.

VN: Sau 49 năm, chuyện Hòa Hợp - Hòa Giải hậu 30/4 gần lại hay xa vời? | VOANhưng nếu hiểu theo nghĩa chính trị và ý thức hệ, câu nói này hiện vẫn là một diễn ngôn áp đặt, hơn là một sự thật được cộng đồng chấp nhận.

Nó thiếu ba yếu tố căn bản: - sự trung thực với lịch sử, - sự tôn trọng quyền tự do định danh, - và sự lắng nghe thực chất của vần đề.

Trong thế kỷ 21, khi biên giới quốc gia ngày càng lu mờ “sự ngăn đôi”, bản sắc Việt trở thành một mạng lưới toàn cầu, đa trung tâm, phi huyết thống, phi địa lý. Người Việt hải ngoại không còn là “bộ phận ngoại vi”, họ là một trong nhiều trung tâm của văn hóa Việt toàn cầu. Một quan niệm chính trị lành mạnh không thể xây dựng chỉ bằng khẩu hiệu. Nó cần sự tôn trọng, bình đẳng, đối thoại và minh bạch. Khi những điều đó được thực hiện, câu tuyên bố trên mới thực sự trở thành một chân lý, chứ không chỉ là một dòng chữ trong văn kiện chính trị.

Khi CSBV nhận ra điều này và đối thoại theo tinh thần bình đẳng, câu nói “không thể tách rời” mới thực sự có giá trị.

Còn hiện tại, nó chỉ đúng một nửa, đúng về hình thức, nhưng chưa đúng về mặt chính trị; đúng về cảm xúc, nhưng chưa đúng về sự thật.

Và câu hỏi cuối cùng, nhưng quan trọng nhất vẫn còn bỏ ngõ:”Người Việt hải ngoại có muốn là “một bộ phận” không? Hay họ muốn là một cộng đồng độc lập nhưng vẫn gắn kết với cội nguồn?”

Câu trả lời, cuối cùng, không phải do CSBV quyết định, mà do chính cộng đồng người Việt toàn cầu định đoạt.

Dứt khoát là như vậy!

Mai Thanh Truyết

Con Đường Việt Nam

Houston – Tháng 12-2025