10 Điều Không "Tử Tế"
trong Câu Chuyện Bauxite Việt
Nam
Câu chuyện khai thác quặng mỏ bauxite
và sự hiện diện của công nhân và chuyên viên Trung cộng ở cao nguyên Trung phần
Việt Nam hiện là một điểm nóng và là một đề tài đã được người dân trong nước
cũng như ở hải ngoại quan tâm.
Bài viết nầy, qua đề tựa lần lượt nêu ra một số vấn đề "bất cập";
trong đó những người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp của dự án, những
người đang trực tiếp điều hành nhà nước CSBV…đã nêu ra, biện giải hay phản bác những
"góp ý" của người dân trong và ngoài nước trên báo chí, phòng vấn, hội
thảo v.v… Sở dĩ có quá nhiều chuyện cần phải "bàn lại" vì dự án khai
thác quặng bauxite đã được chính Tổng bí thư Đảng CS là Nông Đức Mạnh đã ký với TC ngày
3/12/2001 qua ký kết "…hai bên cùng tăng cường
hợp tác trong dự án như Bauxite Đắc Nông , trong các dự án khuôn khổ hành lang
một vành đai kinh tế…."
1-
Về diện tích đất khai thác
Ngay từ đầu, với diện tích dự trù khai thác lớn lao
như tại Đắk Nông gồm 6 địa điểm chiếm trên 1.900 Km2, gần 1/3 diện tích của
toàn tỉnh, nhưng vẫn được giải thích là chỉ khai thác trên diện tích đất
"hoang", không có trồng cây công nghiệp như trà, cà phê, cao su v.v…
Nhưng trên thực tế, công tác di dời nhà (đuổi nhà) đã xảy ra từ năm 2007.
Hiện tại, những vụ kiện tụng vẫn còn đang tiếp diễn. Làm sao bà con có thể chấp nhận được khi tiền
bồi thường hoàn toàn dưới giá trị của nhà và đất đã canh tác. Một thí dụ điển hình là, một
gia đình có nhà và đất chung quanh, cộng thêm một diện tích đang chờ thu hoạch
có giá trị cây đang trồng là 60 triệu Đồng VN. Tất cả, được bồi thường 30 triệu,
không đủ chi phí để mua miếng đất cất nhà ở khu được di dời!
2-
Vấn đề hoàn thổ và trình tự khai thác "cuốn chiếu"
Theo biện giải của Phó Thủ tướng CS Hoàng Trung Hải và
mới đây nhứt được Thứ trưởng Bộ Khoáng sản lập lại là làm tới đâu lấp đất (hoàn thổ) tới đó và cho biết là tiến trình nầy rất
thành công ở TC. Xin thưa, lớp đất mặt một khi đã được đào sới lên, dù được
bảo quản kỷ lưỡng thì cũng phải trôi mất dưới sức chảy của những cơn mưa
cao nguyên như thác đổ, nhứt là từ khi nạn phá rừng xảy ra hơn 30 năm nay. Và
phải lấy đất ở đâu để lấp những vùng đã khai thác với từ 5 đến 20 thước sâu? Và hậu quả
hiện tại (2017) là
diện tích ô nhiễm ngoài diện tích đang khai thác và nhà máy, bùn đỏ đã lan tràn
ra khỏi những hồ chứa và làm ô nhiễm phân tán rộng ra tận vùng dân cư và đất ruộng
đang trồng trọt. Vào năm 2016, nguồn nước tại vùng Trị An có ghi nhận vết tích
của sút, một hóa chất phế thải của bauxite sau khi tách oxit nhôm thành phẩm.
Điều nầy chứng minh rõ ràng để giải thích tại sao TC phải vội vã
đóng cửa hàng trăm khu khai thác bauxite ở nước họ, mà phải khăn gói sang một
nơi xa xôi để bắt đầu làm lại rất tốn kém. Và tại sao không khai thác các khu mỏ
bauxite ở gần biên giới Bắc – Trung mà phải vào tận Cao nguyên Trung phần Việt
Nam?
Có phải vì một ẩn ý chính trị gì không?
3-
Vấn đề chuyên chở
Theo dự án, một đường xe lửa nối liền Đắk Nông tới
Bình Thuận dài khoảng 300 Km và một hải cảng sẽ được thiết lập tại Kê Gà (Bình
Thuận). Hai công trình nầy dự kiến trong dự án, nhưng hoàn toàn không nghe nói
đến chi tiết kỹ thuật, tài chính cầnn cho dự án, cũng như tiến độ thi công vào
giai đoạn nào…trong lúc hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ đã bắt đầu đến giai đoạn
xây dựng nhà máy. Có phải phải chờ 5 hay
10 năm nữa mới bắt đầu chuyển vận alumina về TC hay không? Và cho đến tận hôm nay, cảng Kê Gà và đường xe lửa Đắk
Nông vẫn còn nằm…trên bảng vẽ!
4-
Vấn đề điện năng và nguồn nước
cho khai thác
Theo như dự án Nhân Cơ, nguồn điện năng dùng cho việc
khai thác bauxite để chế biến nhôm gồm việc xây dựng một nhà máy thuỷ điện tại
Đắk Tít với công xuất 144 MW và lấy nước từ 4 hồ nước chạy dọc theo soôg
Serépok để cung cấp nước cho nhà máy. Trong lúc đó, Ông PTT CS Hoàng Trung Hải
nói là dự án sẽ xây dựng 3 tổ máy với công suất 3x30 MW và lấy nguồn nước từ
sông Đồng Nai và một số suối trong khu vực để lấy nước cho việc khai thác. Như vậy, chẳng lẽ có hai dự án khai thác khác nhau ở tại Nhân Cơ. Người viết
cũng không nghe nói đền nguồn điện và nước dùng để khai thác công trường Tân
Rai ở Lâm Đồng, mặc dù ở hai nơi nầy cùng chung một chỉ tiêu khai thác là
600.000 tấn nhôm (ròng)/năm.
Với tính cách thông tin, hiện tại lượng điện năng dung
cho toàn cõi Việt Nam là 58 tỷ KWH, và muốn khai thác 1,2 triệu tấn nhôm/năm phải
cần đến 18 tỷ KWH. Như vậy tính khả thi của của hai nguồn điện trên (nếu nằm
trong dự án) sẽ không cao nếu không nói là không tưởng.
Kết quả: Có lẽ vì không có đủ nguồn điện, cho
nên cho đến hôm nay, ở hai nhà máy chỉ tách bauxite bằng sut caustic để sản xuấn
ra oxit nhôm Al2O3, chứ không sản xuất được nhôm ròng (Al) như đã ghi trong kế hoạch của dự án
ban đầu.
Còn vấn đề nguồn nước, qua các dữ kiện "chung
chung" nói trên, người đọc cũng sẽ dễ dàng nhận biết là có thể đến Tết
"congo" mới hy vọng có đủ nước để hoàn thành dự án.
Một phương pháp "tối tân" nữa mà người viết với kinh nghiệm trên 20 năm trong lãnh vực xử lý bùn phế thải ở Hoa Kỳ chưa được biết là, bùn đỏ sẽ được trích nước ra để còn 54,4% nước (bằng cách nào, dự án không nói tới) và nước cùng với kiềm (sút) đã được trích ly sẽ được dùng lại để khai thác lô quặng khác, không cần phải thêm hoá chất.Đây quả thật là một chu trình kín ứng hợp với tiến trình tòan cầu hoá trong việc áp dụng công nghệ sạch và xanh vì bùn đỏ sẽ được trộn lẫn với lớp đất mặt, đất mùn(?) (ở đâu ra(?)), phân bón hữu cơ để hoàn thổ và trồng cây công nghiệp, bảo vệ môi trường… Thật hết ý!
Một phương pháp "tối tân" nữa mà người viết với kinh nghiệm trên 20 năm trong lãnh vực xử lý bùn phế thải ở Hoa Kỳ chưa được biết là, bùn đỏ sẽ được trích nước ra để còn 54,4% nước (bằng cách nào, dự án không nói tới) và nước cùng với kiềm (sút) đã được trích ly sẽ được dùng lại để khai thác lô quặng khác, không cần phải thêm hoá chất.Đây quả thật là một chu trình kín ứng hợp với tiến trình tòan cầu hoá trong việc áp dụng công nghệ sạch và xanh vì bùn đỏ sẽ được trộn lẫn với lớp đất mặt, đất mùn(?) (ở đâu ra(?)), phân bón hữu cơ để hoàn thổ và trồng cây công nghiệp, bảo vệ môi trường… Thật hết ý!
5-Vấn để xử lý bùn đỏ
Theo tính toán của công nghệ khai
thác quặng bauxite trên thế giới, trung bình khai thác 4 tấn quặng nguyên sinh
sẽ có được 2 tấn alumina; và từ alumina (oxit nhôm) sẽ điện phân được 1 tấn nhôm
ròng. Lượng
bùn đỏ trộn lẫn với nước là khoảng độ 2 tấn.
Nếu theo như diễn giải nêu trên thì không cần phải xử
lý bùn đỏ vì bùn đỏ đã được biến thành đất nông nghiệp rồi?
Vấn đề hồ chứa
bùn đỏ: Theo
dự án, các hồ chứa bùn đỏ đều được thiết kế theo hệ thống thu hồi nước tuần
hoàn kể trên.. Lợi dụng các khu vực thung lũng trong khu vực để xây dựng các hồ
chứa quặng. Khu vực bãi chứa bùn đỏ sẽ dựa theo "tiêu chuẩn khống chế ô nhiễm chôn lấp chất
thải ô nhiễm" của Trung Cộng (tiêu chuẩn GB18598-2001) sử dụng giải pháp chống
rò rỉ toàn diện, để tránh khỏi tình trạng dung dịch của bùn đỏ thẩm thấu gây ô
nhiễm nguồn nước dưới lòng đất (tức là nước ngầm).
Nếu theo tiến trình xử lý bùn đỏ ở phần trên, nước
trong bùn đã được thu hồi và sử dụng lại, thì nước bùn đỏ đâu còn nữa mà phải bảo
quản chặt chẽ để tránh ô nhiễm mãch nước ngầm, cũng như trồng cây chung
quanh khu chứa bùn đỏ để tránh "sạt nở"?
6- Vấn đề giải quyết
ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm
Để bảo đảm việc dung dịch trong hồ bùn đỏ không gây ảnh hưởng đến nguồn nước, dự án Tân Rai và Nhân Cơ sẽ thiết kế bố trí 4 giếng quan sát, kiểm tra nguồn nước lở thượng nguồn, hạ nguồn gần bùn đỏ. Hạ lưu bãi bùn đỏ thiết kế 1 giếng đối chiếu, và bố trí 3 giếng ở hạ lưu, tổ hợp thành kiểm tra 3 chiếu để quan sát ảnh hưởng của dung dịch ở hồ chứa bùn đỏ đối với nguồn nước.
Xin thưa, nước rỉ của một bãi chứa bùn đỏ sẽ thấm qua các lớp đât đá bên dưới và lần lần sẽ đi vào nguồn nước ngầm. Do tiến trình thẩm thấu từ vài năm đến vài chục năm tuỳ theo điều kiện địa chất ở từng vùng, do đó các giếng quan trắc (chứ không phải quan sát) (monitoring wells) phải được thăm dò và đóng ở những độ sâu khác nhau để có thể thu hồi nước rỉ trước khi nước nầy thấm vào mạch nước ngầm. Việc nầy đòi hỏi phải cần có cuộc khảo sát sâu rộng để định vị các giếng chứ không phải đóng một vài giếng đã được "chỉ định". Và cần phải có hàng trăm giếng chứ không phải một vài giếng ở thượng và hạ nguồn là đủ! Và điềi nầy cũng chưa hề xảy ra ở hai nhà máy trên.
7- Vấn đề ô nhiễm
không khí, bụi đỏ, mưa acid và bức xạ
Trong khi khai thác quặng nguyên sinh, bụi đỏ là
nguyên nhân đầu tiên, ành hưởng đến không khí trong vùng, không những ở vùng
khai thác mà bụi còn bay xa đến một chu vi rộng lớn của khu dân cư và khu trồng
cây công nghiệp của dân chúng.
Ảnh hưởng về lâu về dài đến sức khoẻ của con người là
các loại bịnh về đường hô hấp vì đây là những hạt bụi ly ti có đường kính dưới 8 micron (PM8). Khi nhiễm dài hạn có thể đưa
đến ung thư. Còn đối với cây trồng, là sẽ bị phủ lớp bụi nầy, từ đó cây sẽ bị hạn
chế tăng trưởng và mức thu hoạch cũng sẽ bị giảm theo.
Thêm nữa, tiến trình khai
thác sẽ nảy sinh ra khí sulfur dioxid (SO2), và khí nầy sẽ tạo ra
mưa acid, ảnh hưởng cũng không nhỏ đến cây trồng và người dân sống chung quanh.
Tất cả vấn đề trên không được nêu ra ngoài những mỹ từ đẹp đẻ kết quả của việc
khai thác bauxite là làm tăng thêm phúc lợi cho người dân sống trong vùng, tạo
dựng đường xá, trường học, y tế, và nhứt là nâng cao đời sồng kinh tế cho người
địa phương (?).
Về bức xạ, dự án đã khẳng quyết là các công ty nước ngoài đã
phân tích mẫu quặng ở Tân Rai và Nhân Cơ và kết quả là hoàn toàn không có phóng
xạ. Xin thưa, trong đất tự nhiên (kể cả không khí và nguồn nước) luôn luôn có chứa
các bức xạ như các tia alpha, beta, radium và có nồng độ giao động trong khoảng
20 PicoCurie/Kg (hay L) tuỳ theo vùng. Và với tính cách thông tin, nước
rỉ kỹ nghệ như công trường khai thác quặng mỏ hay các bãi rác công nghiệp có
hàm lượng bức xạ cao hơn nhiều, điển hình như tại bãi rác ở Los Angeles, bức xạ
trung bình được tìm thấy trong hơn 25 năm là 40 PicoCurie/L.
Hãy nghe một người dân sống gần lò luyện nhôm của Chalco
(Công ty đang thực hiện việc khai thác ở Nhân Cơ) ở Tây Tạng, được trích dẫn trên một bài đăng ở Mạng Lưới Hàng Động
Fluoride (Fluoride Action Network) nói rằng: "Khói bao phủ sườn đồi. Nếu chúng tôi để cừu hay lừa ra gặm
cỏ, răng của chúng trở nên vàng khè và giòn, rồi rụng hết. Gia súc của chúng
tôi chết đói, và chúng tôi mất kế sinh nhai của mình".
8- Vấn đề hợp tác
khai thác
Để trấn an dư luận phản đối sự hiện diện ồ ạt của công
nhân và chuyên viên TC, nhiều cấp quyền lực của Việt Nam đã viện dẫn là có sự hợp
tác quốc tế gồm nhiều nước trên thế giới tham gia trong việc khai thác nầy như Trung
Cộng, Nhật, Hoa Kỳ, Úc và họ kê khai công ty Alcoa, Hoa Kỳ đã có 40% cổ phần khai thác.
Xin thưa, phát ngôn viên của Alcoa là Lowry đã công bố tại London
vào ngày 28/4/2009 rằng công ty hoàn toàn không dự phần vào việc khai thác Nhân
Cơ và Tân Rai, và hiện đang nghiên cứu thăm dò địa chất và có thể
ký kết để khai thác khu Gia Nghĩa (Đắk Nông) dự trù vào năm 2012. Và dự án nầy
vần còn nằm trên bảng vẽ.
Từ đó, chúng ta thấy những bào chữa hay giải thích của
"chính quyền" các cấp đều là những hình
thức chữa cháy để trấn an dư luận hay đánh lừa dư luận mà thôi.
Hiện tại, dân số ở cao nguyên Trung phần Việt Nam tăng
lên đến 4,4 triệu (2014) so với 1,2 trước năm 1975,
và trong thời điểm vừa kể, người thiểu số chiếm gần 90% (thống kê
dân số năm 2008 là 4,2 triệu). Còn mức gia tăng gia tăng hiện tại
ngày hôm nay phải là do sự nhập cư của của người Việt và các dân tộc khác đến từ
bên ngoài Cao nguyên Trung phần và dân tộc thiểu số nguyên khai đã được ước
tính trong năm 2008 là khoảng độ 400 ngàn mà thôi. Như vậy, mức gia
tăng nầy cho thấy Việt Nam đã gián tiếp đẩy người thiểu số rời khỏi đất nước Việt
Nam, bằng cớ là họ đã di chuyển sang Lào và Camdodia từ mấy chục năm nay. Như vậy,
sự gia tăng đến từ đâu? Phải chăng họ đến từ phương bắc?
Người "công nhân" TC không phải đã định cư ờ
Nhân Cơ hay Tân Rai, mà họ đã có mặt ở khắp miền đất nước từ Bắc chí Nam. Như tại
Công ty Nhiệt điện Quảng Ninh đã có trên 4.000 công nhân và chuyên viên cư ngụ ở
một khu vực hoàn toàn biệt lập có cổng rào riêng và được canh gát cẩn mật do bảo
vệ cũng là người Hoa. Tương tợ như ở Công ty cổ phần nhiệt điện Hải Phòng với
trên 2000 công nhân, Công ty than Nông Sơn đã có trên 100 (2009) và vào tháng 6, 2010 tới đây đã tăng cường thêm 500 nữa. Thậm
chí Công ty Điện Đạm Cà Mau cũng đã có trên 1.000 công nhân Tàu.
Việt Nam đang đứng trước nạn khủng hoảng kinh tế và nạn
thất nghiệp trầm trọng; theo con số chính thức đã có trên 2 triệu công nhân, và trên
250.000 cữ nhân, kỹ sư thất nghiệp đặc biệt là hai khu chế xuất Đồng Nai và Sông Bé… Thế mà
cũng đã có hàng ngàn công nhân nhập lậu (không có giấy phép lao động) làm việc
trong các hảng xưởng do người Tàu làm chủ theo tin tức của Uỷ ban Nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
Chính Thứ trưởng Bộ Lao động và Thương binh mới công bố
là không có công nhân nào "không có
giấy phép làm việc" và các công ty đều
theo đúng thủ tục của Luật Lao động. Xin thưa, Luật Lao động có ghi rõ là mọi
công nhân hay chuyên viên nước ngoài đều phải xin giấy phép và công ty thuê mướn
phải chứng minh là loại công việc trên là cần thiết và được Bộ Lao động cung cấp
giấy phép lao động.
Xin
hỏi các công nhân làm việc trên hai công trường Tân Rai và Nhân Cơ như cất nhà,
làm đường xá, làm mặt bằng, hay đào các hố rãnh v.v… Đây có phải là những việc
người công nhân Việt Nam không có khà năng làm không?
9- Tính cách hợp
pháp trong việc đấu thầu
Trong một suy nghĩ đơn giàn, việc đấu thầu một công trình có
tính các quốc gia cần phải tham khảo và kêu gọi nhiều đối tác đấu thầu.
Và cũng theo Luật Lao động và chủ trương của "nhà nước" công cuộc đấu
thầu cần phải dành ưu tiên cho các công ty nội địa để thứ nhứt bảo đảm công ăn việc làm cho người dân, và thứ
hai bảo vệ công cuộc phát triển và tài nguyên của quốc gia.
Trong trường hợp hai công trình Nhân Cơ và Tân Rai,
cùng với nhiều công trình phát triển khác ở miền Bắc, sự việc không diễn ra như
trên.
Theo tiến sĩ
(TS) Nguyễn Thành Sơn - nguyên giám đốc Ban quản lý dự án than đồng bằng sông Hồng,
Luật đấu thầu của Việt Nam quy định ngay cả khi chọn thầu, chủ đầu tư phải soạn
thảo hồ sơ mời thầu và phải được cấp thẩm quyền phê duyệt. TS Nguyễn Thành Sơn
Chất lượng nhà máy quá thấp
Tại Trung Quốc
chưa có nhà máy nào xử lý quặng bôxit tương tự của nước ta. Họ chỉ sử dụng công
nghệ hòa tách bằng hệ thống đường ống chưa được sử dụng rộng rãi trên thế giới”.
Vì vậy, hai nhà máy họ xây dựng chỉ mang tính “thử
nghiệm” nên việc thiết kế, vận hành, kinh nghiệm sản xuất và quy trình công
nghệ không đảm bảo tạo nên những rủi ro
vô cùng lớn cho hai nhà máy.
Bộ chính trị đã định và dành cho TC "cái đặc quyền
khai thác" (đã dành hay đã bị hay cùng nhau hợp tác…vẫn còn là một câu hỏi
lớn và bí mật giữa hai đảng CS TC và Vệt Nam). Mọi thủ tục tiến hành để thực hiện
một công trình khai thác và sản xuất đều vượt ra ngoài khuôn khổ của Bô luật
Môi trường của Viêt Nam là phải nộp bản Nghiên cứu Tác động Môi trường
(Enviromental Assessment Impacts – EAI) trước khi giấy phép khai thác được chấp
thuận. Nghĩa là công ty muốn khai thác phải chứng minh là quy trình sản xuất nầy
bảo đảm không làm đão lộn hệ sinh thái trong vùng và giải quyết toàn thể mọi phế
thải từ không khí, đến phế thải rắn và lỏng.
Bộ chính trị còn cho thêm nhiều đặc quyền cho TC nữa
là chấp nhận 35% vật liệu xây dựng, công nhân được chuyển thẳng từ TC, do đó,
chúng ta không ngạc nhiên khi thấy những vật
liệu xây dựng và giải trí cho công nhân đều được chở từ TC sang, thậm chí đế những
bàn cầu để tiểu tiện cũng …made in China nữa!
10- Và điều thứ mười
là cung cách tuyên truyền không trung thực
Theo tuyên truyền và những "thông tin khoa học"
chính thức phát ra từ "chính quyền" qua văn bản, tuyên bố, họp báo…thì phẩm chất
bauxite ổ Việt Nam thuộc vào loại…tốt nhứt trên thế giới, có hàm lượng alumina
cao và oxit silic thấp (SiO2).
Trên thực tế thì ngược lại. Quặng bauxite được khảo
sát và thẩm định qua việc ước tính tỷ lệ hai hoá chất trên qua chỉ số Silic (mSi), nghĩa là tỷ lệ giữa
alumina và silic. Và tỷ lệ nầy thấp đối với bauxite Việt Nam so với các quặng mỏ khác trên
thé giới. Chỉ số mSi ở Nhân
Cơ từ 3,5 đến 7,8 (trung bình 4,93). Trong lúc đó, chỉ số quặng trên ở
Indonesia là từ 14 đến 18, Úc, 11 – 20, Ấn Độ, 20 – 25. Do đó, tỷ
lệ thu hồi Alumina rất thấp và dĩ nhiên sự phát thải bùn đỏ càng nhiều hơn. Và phương pháp Bayer áp dụng cho việc tách rữa
nầy sẽ sử dụng nước nhiều hơn…vì phải cần tinh luyện qua tẩy rữa nhiều lần để
tăng nồng độ alumina trong quặng. Và sút phải được dùng nhiều hơn qua nhiều
giai đoạn tẩy rữa bằng phương pháp nầy.
Đôi với quặng ở Nhân Cơ, theo quy trình của dự án, thì
giai đoạn 1, sẽ đạt được alumina đạt được hàm lượng 35 – 39%. Sau đó, phải cần
đến giai đoạn 2 trong việc tẩy rữa bằng sút tiếp theo để có thể đạt được nồng độ
gần tinh khiết của alumina là 98,6%. Rồi sau đó mới tới giai đoạn điện phân để cho nhôm ròng. Vì vậy
chúng ta nghe nói việc khai thác bauxite ở Nhân Cơ áp dụng theo phương pháp Bayer "ướt" là do
việc sử dụng nhiều sút qua nhiều công đoạn tẩy rữa mà thôi (và dĩ nhiên, cần
thêm sút thì cũng cần thêm nước để tẩy rữa).
Từ 10 sự việc "không tử tế" xảy ra cho hai dự
án trên, tất cả đã nói lên não trạng cứng ngắt của lãnh đạo Việt Nam hiện tại.
Có thể nói không "sợ trật" là trong bất cứ dự án nào có tính cách quốc
gia ở Việt Nam hiện tại, những "sự cố" nêu trên cũng sẽ xảy ra tương
tự và điều khác biệt duy nhứt là tên của dự án đã được thay đổi mà thôi!
Câu chuyện Tân Rai và Nhân Cơ cùng những câu chuyện phát triển khác đang xảy ra
ở Việt Nam chắc chắn sẽ còn dài dài, đã đang và sẽ báo hiệu sự phản kháng của đủ mọi tầng lớp dân chúng ở
quốc nội và hải ngoại.
Tiếng nói của người dân, đã không được chú ý, và nếu sự
việc không được giải quyết thoả đáng, sự xáo trộn xã hội có thể bùng nổ trong một
tương lai không xa và có thể đưa đến nội loạn.
Thiết nghĩ, tiên liệu trên đây cần phải được lắng nghe và sửa sai.
Mai Thanh Truyết
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPS)
Tháng
9-2017
Ghi Chú: Với tính cách thông tin, sau đây là những thông số kỹ thuật
của nhà máy sản xuất nhôm của Alcoa tại
Rockdale, Texas, Hoa Kỳ.
Năng lượng: Phải đốt 16.329 tấn than/ngày. Một năm đốt
hết 1,4 triệu tấn than để chạy nhà máy có công suất 500MW.
Nhu cầu nước: 8,3 triệu m3/năm
Ô nhiễm môi trường: Tạo ra 3,7 triệu tấn Carbon dioxide (CO2), 500
tấn hạt bụi lơ lững, 10.000 tấn sulfur dioxide (SO2), 220 tấn hợp chất
hữu cơ, 720 tấn carbon monoxide (CO), 125.000 tấn tro (ash), 193.000 tấn bùn
(khô), 77 Kg thuỷ ngân, 102 kg arsenic, 51,7 Kg chì và 1,8 kg cadmium.
Các khí kể trên đã được hạn chế phát thải vào không khí qua những màng lọc của
công ty. Còn tất cả phế thải rắn và lỏng đã được xử lý theo quy định của EPA
Hoa Kỳ.
Chất thải của lò luyện kim (lò luyện phải nóng đến
1000oC và dưới một điện cực 150.000 Amper): Cứ mỗi 1000 tấn nhôm ròng được sản xuất, phát
thải ra 20 tấn phế thải độc hại do lớp cathode bị hao mòn. Phế
thải gồm các hợp chất chứa fluor và cyanide. Đây là hai hoá chất, theo cơ quan
WHO ảnh hưởng lên hệ sinh thái là huỷ diệt hoàn toàn thực động vật trong vùng. Còn con người hấp
thụ qua đường tiêu hoá hay hô hấp sẽ làm cho xương bị biến dạng (dị hình dị dạng)
và hệ thần kinh bị hư hại. Các hiễm họa nầy sẽ không xảy ra cho Việt Nam, vì Việt
Nam mặc dù trong dự án nói đến chỉ tiêu sản xuất là 1,2 triệu tấn nhôm ròng,
nhưng trên thực tế chỉ dừng ở giai đoạn đầu là khai thác alumina (oxid
nhôm) và chuyển tải về đàn anh nước lớn là
TC để tiếp tục luyện nhôm.
No comments:
Post a Comment