Saturday, September 6, 2025

         


Tất cả là chúng sinh

 

Tuần qua, bay từ Houston đến Albuquerque, New Mexico, đi thăm hai vợ chồng Việt – Mỹ, Bill. Nói về Bill, một hạ sĩ quan với nhiệm vụ truyền tin trong quân đội Mỹ. Biil đã từng tham dự hai lần “tour of duty” trong cuộc chiến Việt Nam vào giữa thập niên 60’ của thế kỷ trước. Trong suốt 6 ngày 5 đêm cùng gia đình Bill và con cháu, tất cả 10 người trải qua hai ngày trên vùng Angel Fire, ở độ cao trên 13.000 ft. Ngôi nhà Airbnb giống như một chalet nhỏ, được bao bọc chung quanh bởi những hàng thông chen lẫn với rừng aspen thẳng tắp và cao vời vợi. Sáng sáng khi bước ra khỏi nhà với ly cà phê nóng trên tay, ngoài tiếng chim hót bên cạnh dĩa đựng hat khô dành cho chim muông và bình nước đầy. Dọc theo các hàng cây aspen, một gia đình gồm tám chú nai gồm cha mẹ và sáu con lớn nhỏ (chỉ đoán như vậy thôi), Bill vội vào nhà, mang một thùng hột bắp mà người chủ Airbnb đã để sẵn, rãi đều chung quanh nhà. Từ đó, chỉ vài phút sau, hành động của Bill đã mang lại vài giây phút hạnh phúc cho cả gia đình nai…Thật là bình yên!

Một trong những mục đích của chuyến viếng thăm vùng nầy là Ngày đặt viên “gạch” cho những người lính Mỹ - Việt đã đền nợ nước trong cuộc chiến Việt Nam vừa qua tại Vietnam Veterans Memorial, nằm trên đỉnh đồi cao ở thị trấn nhỏ nầy. Buổi lễ diễn ra ngày 30/8/2025 với hơn 500 người tham dự đến từ khắp nơi trên nước Mỹ…từ những đoàn moto đến từ khắp nơi cho đến hàng trăm xe du lịch đổ về một thị trấn heo hút chỉ độ vài trăm dân.

Qua Bill, tôi học được nhiều điều về lịch sử, văn hóa, và văn minh của người dân New Mexican. Họ không thừa nhận là người Mễ (Mexican). Thức ăn của họ là New Mexican food, không phải là thức ăn Mễ!

Về địa danh dân tộc New Mexico, đã có người sinh sống từ hàng nghìn năm trước khi người châu Âu đến khai phá, New Mexico trở thành một phần của thuộc địa Tân Tây Ban Nha của đế quốc Tây Ban Nha năm 1598. Sau đó, nó là một phần của nước Mexico độc lập trước khi trở thành một lãnh thổ Hoa Kỳ và cuối cùng thành một tiểu bang Hoa Kỳ do kết quả của cuộc Chiến tranh giữa Hoa Kỳ - Mexico. Trong các tiểu bang, New Mexico có tỉ lệ người Hispano cao nhất, gồm con cháu của thực dân Tây Ban Nha, những người đã sống ở đây hơn 400 năm. Nơi đây cũng có tỉ lệ người bản địa cao thứ nhì sau Alaska, và có tổng số người bản địa cao thứ tư sau CaliforniaOklahoma, và Arizona. Đa số người bản địa thuộc các dân tộc NavajoPueblo, và Apache. Nền văn hóa tiểu bang được định hình qua các ảnh hưởng từ Hispano và người bản địa, và được thể hiện qua bang kỳ. Màu đỏ và vàng được lấy từ hoàng kỳ Tây Ban Nha, với biểu tượng mặt trời cổ xưa của người Zia. Một độc đáo của văn minh New Mexico là Tp Taos, một thành phố chỉ có 6.453 (thống kế 2024) mà có đến 26 galleries, museum…về tranh ảnh, tiểu thủ công nghệ, triển lãm nghệ thuật v.v…đủ nói lên tính chất phong phú và trình độ nhận thức về nghệ thuật của người dân nơi đây.

Nhưng điều khiến tôi phải đặt bút viết ra bài cảm nghĩ nầy chỉ là một sự tình cờ. Một buổi sang trong khi nhâm nhi ly cà phê Bill làm cho, tôi chứng kiến được một việc hết sức đặc biệt của Bill. Đó là lúc Bill đang rữa hai chai bằng thủy tinh mà sau nầy tôi mới biết là hai chai dùng làm nước uống cho chim ở ngoài sau hè nhà. Những động tác nhẹ nhàng và kỹ lưỡng khi chùi rữa bên trong và ngoài chai. Khi làm xong, Bill bước qua tủ lạnh và hứng đầy hai chai nước bằng nước lọc của tủ lạnh chứ không lấy nước thẳng từ robinet.

Sau cùng, Bill mang hai chai nước để vào vị trí ban đầu và cũng không quên bỏ thêm các hột nhỏ vào dĩa thức ăn. Chỉ vài phút sau, có hai chú chim hummingbird bay sà vào vui đùa cùng các hạt đủ màu trên dĩa.

Câu chuyện chỉ có thế.

Mà sao tôi lại nghĩ nhiều cho đến khi về lại Houston và viết những hàng chữ nầy. Tất cả chỉ vì những hành động của Bill sáng hôm đó. Đó là tính nhân bản của Bill. Có thể anh không nhận biết hay cảm nghĩ khi là việc thay nước sạch cho chim. Nhưng tôi nghĩ đó là một hành động thể hiện tính nhân bản tiềm tàng trong anh. Và đó là lý do tôi đặt tựa đề bài viết là “Tất cả là chúng sinh”.

Ngắm nhìn cảnh ấy, tôi bỗng thấy lòng mình lắng lại. Trong khoảnh khắc bình yên đó, tôi hiểu thế nào là câu nói của nhà Phật: “Tất cả là chúng sinh.”

Không chỉ có ta, con người với bao suy tính, lo toan mới là chúng sinh. Những con chim nhỏ đang cất tiếng hót kia, con kiến lom khom bên gốc cây, cả bụi tre già xào xạc trong gió, tất cả đều mang trong mình nhịp thở của sự sống. Tất cả đều cùng hiện hữu trong vòng sinh diệt, vô thường, và đều đáng được yêu thương, che chở, và trân quý.

Chuẩn bị một bình nước, rải đôi hạt mồi, một hành động tưởng như vụn vặt ấy lại chính là cách ta tập mở lòng mình ra với muôn loài. Không đợi phải làm việc lớn lao, ngay trong nếp sống nhỏ nhoi thường nhật, ta vẫn có thể nuôi dưỡng hạt giống từ bi.

“Tất cả là chúng sinh” theo chiều sâu của triết lý Phật giáo, thì ta có thể nhìn từ nhiều góc độ khác nhau như: triết học, vũ trụ quan, đạo đức, và sự thực hành.

Trong Phật giáo, “chúng sinh” (Sanskrit: sattva, Pali: satta) không chỉ giới hạn ở con người. Chúng sinh là tất cả các hữu tình, các loài có tâm thức, đang trôi nổi trong vòng luân hồi (samsāra), bao gồm con người, súc sinh, côn trùng, loài ở địa ngục, ngạ quỷ, A-tu-la, cho đến chư thiên. Nếu nhìn rộng hơn nữa, cũng cần phải kể đến cả những dạng tồn tại vi tế khó thấy bằng mắt thường.

“Tất cả là chúng sinh” ẩn chứa tính “bình đẳng” và “duyên khởi”. Về tính bình đẳng, cho dù là người hay côn trùng, dù đang hưởng phúc hay chịu khổ đau, tất cả đều là những dòng sống có khả năng cảm thọ (vedanā). Chính khả năng cảm thọ khổ – lạc ấy khiến họ trở thành đối tượng của lòng từ bi.

Vế duyên khởi, mọi chúng sinh đều tồn tại trong quan hệ lẫn nhau, không có một thực thể độc lập. Vì thế, khổ đau hay hạnh phúc của một loài đều liên quan đến sự an nguy chung của toàn thể. Cái nhìn này giải trừ quan niệm phân biệt giai cấp, loài giống, quyền lực, và mở ra cái nhìn vũ trụ: sự sống vốn chung một nguồn gốc, chung một tiến trình luân hồi.

Và nếu tất cả đều là chúng sinh, thì con người không thể tự cho mình đặc quyền hủy hoại kẻ khác. Mỗi hành động, từ việc ăn uống, sản xuất, đến quan hệ xã hội, cần được đặt trong nền tảng tôn trọng sự sống. Đây chính là cơ sở của Tứ Vô Lượng Tâm: Từ (maitrī), Bi (karuṇā), Hỷ (muditā), Xả (upekṣā).

Trong xã hội ngày nay, khái niệm “Tất cả là chúng sinh” có thể được áp dụng trong đạo đức sinh thái tức là bảo vệ muôn loài, môi trường, vì sự sống của côn trùng, động vật, cũng là sự sống của chính ta.

Trong quan hệ xã hội loài người là … xóa bỏ định kiến, phân biệt, nhìn mọi người đều là “chúng sinh” trên hành trình đau khổ – hạnh phúc, để khởi tâm cảm thông thay vì thù hận.

Trong tu tập cá nhân là nhắc nhở rằng lòng từ bi không dừng ở phạm vi gia đình, dân tộc, hay nhân loại, mà trải rộng khắp mười phương.

Vì vậy, câu “Tất cả là chúng sinh” không chỉ là một định nghĩa khái niệm, mà là một cách nhìn toàn thể vũ trụ trong ánh sáng từ bi và trí tuệ. Nó nhắc nhở con người:” Không ai là ngoại lệ trong vòng sống - chết - tái sinh.”

Tóm lại, chăm sóc chim nhỏ nơi vườn cũng chính là một hình thức nuôi dưỡng trí huệ và lòng từ bi, vì trong cái nhìn “tất cả là chúng sinh”, không một hữu tình hay vô tình nào bị bỏ rơi ngoài vòng thương yêu và kính trọng.

Rốt ráo lại, thân tặng anh Bill vài câu thơ theo thể điệu ringa của Nhựt:

“Ta và vạn vật,

Không riêng, chẳng tách rời,

Chúng sinh muôn đời.”

“All beings and I,

Not separate, not apart,

Eternal sentient life.”

***

“Sương mờ buổi sớm,

Giọt long lanh trên lá,

Trời vừa hé môi.”

Morning mist lingers,

Glittering drops on the leaves,

The sky softly wakes.”

***

“Bình nước đặt xuống,

Chim “ruồi” nghiêng đầu uống,

Hạt kê reo vui.”

“Water bowl set down,

Hummingbird tilt to sip and drink,

Grains call out with joy.”

***

"Ta và vạn vật,

Không riêng, chẳng tách rời,

Chúng sinh muôn đời.”

All beings and I,

Not separate, not apart,

Life eternal in all.

Những bài thơ ngắn, hình ảnh giản dị nhưng chứa đựng triết lý sâu sắc. Giống như hành động của Bill, chúng nhắc nhở rằng sự quan tâm, tôn trọng và yêu thương có thể bắt đầu từ những điều nhỏ bé nhất.

Khi tôi đặt bút xuống, tôi thở dài nhẹ nhõm. Thế giới không cần đợi một biến cố lớn mới thức tỉnh. Mỗi ngày, mỗi hành động, dù nhỏ, đều có thể gieo mầm yêu thương.

Và tôi hiểu, sống là trân trọng mọi chúng sinh, từ con người đến côn trùng, từ chim chóc đến cây cối, để nhịp điệu cuộc sống hòa quyện cùng hạnh phúc giản dị.

Mai Thanh Truyết

Viếng thăm New Mexico – 8 – 2025

 

 

All Beings Are Sentient

 

Last week, I flew from Houston to Albuquerque, New Mexico, to visit my friend Bill and his wife. Bill, once a young sergeant in the U.S. Army, had served two tours of duty in Vietnam during the mid-1960s.

 

We spent six days and five nights together with Bill’s children and grandchildren—ten of us in all. For two days, we stayed up in Angel Fire, at over 13,000 feet above sea level. The Airbnb cabin was like a little chalet, surrounded by tall, slender aspens and dark pine forests. Each morning, stepping outside with a hot cup of coffee, I could hear the songs of birds near the feeder where dry seeds and a bowl of fresh water had been set out.

 

Along the aspens, a family of deer, father, mother, and six young ones (at least by my guess) would quietly appear. Bill would hurry back inside, fetch a tub of corn left by the host, and scatter it generously around the house. Within minutes, joy filled the air—not just for the deer but for us as well. Such a simple act, and yet such peace.

 

One of the main purposes of this visit was to attend the laying of a memorial brick for American and Vietnamese soldiers who had given their lives in the war. The ceremony took place on August 30, 2025, at the Vietnam Veterans Memorial atop a hill in this small mountain town. More than 500 people came—from motorcycle groups to caravans of RVs gathering in a town that usually counts only a few hundred residents.

 

Through Bill, I came to see New Mexico in its own light its history, its culture, its pride. The people here don’t call themselves Mexican. Their food is New Mexican, not Mexican. Their roots stretch back centuries before Europeans came. New Mexico was once Spanish, then Mexican, then American. Today it holds the highest proportion of Hispanos descendants of Spanish colonists who have lived here for more than four hundred years and also one of the largest Native communities, with Navajo, Pueblo, and Apache shaping the land’s soul.

 

The state flag itself tells the story: Spain’s red and yellow, with the ancient Zia sun at the center. And in Taos, a town of only 6,453 people, there are 26 galleries and museums. Small in size, but overflowing with art and spirit.

 

Yet what lingers in me most is not the memorial, nor the history, but a quiet morning with Bill.

 

As I sipped the coffee he had made, I watched him carefully wash two glass bottles. Later, I learned they were water feeders for birds in the back garden. His hands moved slowly, gently, as if honoring the task. When he finished, he filled the bottles with filtered water from the refrigerator, not from the tap. Then he placed them back outside, and scattered a few seeds onto the dish. Moments later, two hummingbirds arrived, dipping and fluttering, as if rejoicing.

 

That was all. Just that.

 

And yet, on my return to Houston, the image would not leave me. I realized that Bill’s simple gesture held something profound. Perhaps he himself did not think of it, but in his act of giving clean water to the birds, I saw compassion quiet, natural, and deeply human.

 

That morning was when I understood, in a different way, the words of the Buddha: “All beings are sentient.”

 

Not only are we humans, with our endless thoughts and worries. The small birds singing, the ant crawling by the roots of a tree, the old bamboo grove whispering in the wind—all breathe the same rhythm of life. All are born, live, and pass away in impermanence. And all are worthy of love, care, and reverence.

 

To prepare a water bowl, to scatter a handful of seeds, such little gestures are how we learn to open our hearts. One need not wait for great deeds; in the quiet details of daily life, compassion takes root.

 

In the Buddhist vision, “all beings are sentient” means equality and interconnection. All life, whether joyful or suffering, shares the ability to feel. And no being exists alone; each life touches another. To harm one is to harm all; to care for one is to care for the whole.

 

This teaching is not only philosophy, it is a way of seeing the world. It tells us that no one is outside the circle of life, death, and rebirth. It reminds us that compassion must extend beyond family, nation, or even humankind to every living creature under the sky.

 

And so, even in tending to the little birds of a garden, one is nurturing both wisdom and love. For in the eyes of compassion, not a single being great or small is forgotten.

To Bill, I offer these few verses, in the style of Japanese Renga:

 

All beings and I,

Not separate, never apart,

Life eternal flows.

 

Morning mist lingers,

Glittering drops on the leaves,

The sky softly wakes.

 

Water bowl set down,

Hummingbird tilts to sip and drink,

Grains sing with delight.

 

All beings and I,

Not separate, not apart,

Eternal sentient life.

 

These short poems, simple in imagery, contain profound philosophy. Like Bill’s actions, they remind us that care, respect, and love can begin from the tiniest gestures.

As I set down my pen, I sighed in relief. The world does not have to wait for a grand event to awaken. Each day, each act, however small, can sow seeds of love.

And I understood, living is about cherishing all beings from humans to insects, from birds to trees, so that the rhythm of life harmonizes with simple happiness.

 

Mai Thanh Truyết

Visiting New Mexico – August 2025

 

Friday, September 5, 2025

Tất cả là chúng sinh All Beings Are Sentient Tuần qua, tôi bay từ Houston đến Albuquerque, New Mexico, để thăm bạn Bill và vợ. Bill từng là hạ sĩ quan trong quân đội Mỹ, trải qua hai tour chiến đấu ở Việt Nam vào giữa thập niên 60. Last week, I flew from Houston to Albuquerque, New Mexico, to visit my friend Bill and his wife. Bill once served as a young sergeant in the U.S. Army, completing two tours in Vietnam during the mid-1960s. Chúng tôi ở cùng gia đình Bill sáu ngày năm đêm, tổng cộng mười người. Trong hai ngày, chúng tôi ở Angel Fire, trên độ cao hơn 13.000 ft. Ngôi nhà Airbnb giống như một chalet nhỏ, bao quanh bởi những hàng thông và aspen cao vút. We spent six days together with Bill’s children and grandchildren—ten of us in all—two of those days at Angel Fire, high in the mountains at over 13,000 feet. The Airbnb cabin felt like a quiet chalet, surrounded by tall aspens and dark pines. Mỗi sáng, khi bước ra với ly cà phê nóng, tôi nghe tiếng chim hót bên cạnh dĩa hạt khô và bình nước đầy cho chim. Each morning, stepping outside with a cup of hot coffee, I would hear the birds and notice the simple gifts left for them: seeds in a dish, fresh water in a bowl. Một sáng, một gia đình nai gồm hai bố mẹ và sáu con xuất hiện dọc theo hàng aspen. Bill vội vào nhà, mang thùng hạt ngô và rải quanh nhà. Chỉ vài phút sau, nai đã tụ tập, và niềm vui ấy lan tỏa đến cả chúng tôi. Thật bình yên. One morning, a family of deer appeared along the aspens—two adults and six little ones. Bill went inside, fetched a tub of corn, and scattered it around the house. Within minutes, the deer gathered, their quiet joy spreading to us as well. Such peace, born from a simple gesture. Một trong những mục đích chính của chuyến thăm là dự lễ đặt viên gạch tưởng niệm cho những người lính Mỹ – Việt đã hy sinh trong chiến tranh. Buổi lễ diễn ra ngày 30/8/2025 tại Vietnam Veterans Memorial, trên đỉnh đồi nhỏ. Hơn 500 người tham dự, từ đoàn xe mô tô đến các gia đình đi RV, tràn ngập thị trấn chỉ vài trăm dân cư. One of the main purposes of my visit was to attend a ceremony at the Vietnam Veterans Memorial in Angel Fire. On August 30, 2025, a new brick was laid in honor of American and Vietnamese soldiers who gave their lives in that war. More than five hundred people came, from motorcycle groups to families in RVs, filling this small mountain town of only a few hundred residents. Nhưng điều in sâu trong tôi nhất không phải lễ tưởng niệm, mà là một buổi sáng bình dị cùng Bill. Yet what lingers with me most is not the memorial, but a simple morning with Bill. Sáng hôm đó, khi tôi nhâm nhi ly cà phê, tôi chứng kiến Bill cẩn thận rửa hai chai thủy tinh. Sau này tôi mới biết đó là bình nước cho chim trong vườn sau. That morning, as I sipped my coffee, I watched Bill carefully wash two glass bottles. Later, I learned they were water feeders for the birds in the backyard. Những động tác nhẹ nhàng, tỉ mỉ khi lau bên trong và ngoài chai. Khi xong, Bill dùng nước lọc từ tủ lạnh đổ đầy hai chai, không lấy từ vòi. His movements were gentle and meticulous as he cleaned the inside and outside of the bottles. When finished, he filled them with filtered water from the refrigerator, not from the tap. Sau đó, Bill đặt lại vị trí cũ và không quên rải thêm hạt vào dĩa thức ăn. Chỉ vài phút sau, hai chú chim hummingbird bay tới, vui đùa cùng những hạt đủ màu. Then Bill placed the bottles back in their original positions and added fresh seeds to the dish. Moments later, two hummingbirds appeared, dancing joyfully among the colorful grains. Chuyện chỉ có thế. Nhưng sao tôi cứ nghĩ mãi, đến khi trở về Houston và viết những dòng này. That was all. Yet I could not stop thinking about it, even after returning to Houston and writing these lines. Hành động nhỏ bé của Bill mang tính nhân bản. Anh có thể không nhận ra, nhưng việc thay nước sạch cho chim là biểu hiện của lòng từ bi tiềm ẩn trong anh. Bill’s simple act revealed a deep humanity. He may not have realized it, but refilling clean water for the birds embodied the latent compassion within him. Sáng hôm đó, tôi bỗng hiểu câu Phật dạy: “Tất cả là chúng sinh.” That morning, I suddenly understood the Buddha’s teaching: “All beings are sentient.” Không chỉ con người với bao suy tính và lo toan là chúng sinh. Chim, kiến, cả rừng tre già trong gió, tất cả mang nhịp thở của sự sống. Not only humans, with all their thoughts and worries, are sentient. Birds, ants, even the old bamboo groves rustling in the wind—all carry the breath of life. Tất cả đều hiện hữu trong vòng sinh diệt, vô thường, và đều đáng được yêu thương, che chở, và trân quý. All exist within the cycle of birth and passing, impermanence, and are equally worthy of love, care, and reverence. Chuẩn bị bình nước, rải vài hạt mồi, hành động tưởng vụn vặt lại là cách mở lòng với muôn loài. Không cần chờ việc lớn, ngay trong đời sống nhỏ nhoi thường nhật, hạt giống từ bi vẫn được nuôi dưỡng. To prepare a water bowl, to scatter a handful of seeds—such small gestures are how we open our hearts to all beings. We need not wait for grand deeds; even in small daily acts, the seed of compassion can flourish. Trong Phật giáo, “chúng sinh” (Sanskrit: sattva, Pali: satta) không chỉ con người, mà là tất cả hữu tình, trôi nổi trong vòng luân hồi: con người, động vật, côn trùng, loài ở địa ngục, ngạ quỷ, A-tu-la, cho đến chư thiên, và cả những dạng tồn tại vi tế khó thấy. In Buddhism, “sentient beings” (Sanskrit: sattva, Pali: satta) are not limited to humans. They include all conscious entities drifting in samsāra: humans, animals, insects, beings in hell, hungry ghosts, asuras, celestial beings, and even subtle forms of existence difficult to perceive. “Tất cả là chúng sinh” ẩn chứa tính bình đẳng và duyên khởi. Bình đẳng vì mọi chúng sinh đều có khả năng cảm thọ; duyên khởi vì không một thực thể nào tồn tại độc lập, mà liên quan đến hạnh phúc và khổ đau chung của toàn thể. “All beings are sentient” contains equality and interdependence. Equality, because all beings can feel; interdependence, because no entity exists alone, and the joy or suffering of one affects the well-being of all. Vì thế, con người không thể tự cho phép phá hủy kẻ khác. Mỗi hành động, từ ăn uống, sản xuất đến quan hệ xã hội, cần dựa trên nền tảng tôn trọng sự sống. Therefore, humans cannot grant themselves the right to destroy others. Every act—eating, producing, social interactions—must rest upon respect for life. Đây chính là nền tảng của Tứ Vô Lượng Tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. This is the foundation of the Four Immeasurables: Loving-kindness (maitrī), Compassion (karuṇā), Joy (muditā), Equanimity (upekṣā). Trong xã hội hiện nay, ý nghĩa “Tất cả là chúng sinh” được áp dụng trong đạo đức sinh thái, bảo vệ muôn loài, và trong quan hệ xã hội con người: xóa bỏ định kiến, thù hận, khởi tâm cảm thông. In today’s world, “All beings are sentient” applies to ecological ethics—protecting life—and to human relations: overcoming prejudice and hatred, cultivating empathy. Trong tu tập cá nhân, lòng từ bi không chỉ dành cho gia đình hay nhân loại, mà mở rộng khắp mười phương. In personal practice, compassion extends beyond family or humanity to all directions. Khi tối về, tôi ngồi trước cửa sổ, nhìn những chú chim vẫn ríu rít trên cành. Tôi chợt nhận ra, hạnh phúc không chỉ là những kế hoạch lớn lao hay thành tựu vang dội. As evening fell, I sat by the window, watching the birds chirping on the branches. I suddenly realized that happiness is not only in grand plans or resounding achievements. Nó có thể là khoảnh khắc lặng lẽ, chuẩn bị nước cho chim, rải hạt nhỏ, và nhìn chúng tận hưởng món quà giản dị. It can be the quiet moments—preparing water for the birds, scattering tiny seeds, and watching them relish the simple gift. Từ những hành động nhỏ ấy, trí tuệ và từ bi được nuôi dưỡng. From such small acts, wisdom and compassion are nurtured. Tôi nhớ câu renga xưa: I recall an old renga: Bình minh hé nụ cười Dawn reveals a gentle smile Chim hót giữa vườn yên tĩnh Birds sing in the silent garden “Sương mờ buổi sớm, Giọt long lanh trên lá, Trời vừa hé môi.” Morning mist lingers, Glittering drops on the leaves, The sky softly wakes.” *** “Bình nước đặt xuống, Chim “ruồi” nghiêng đầu uống, Hạt kê reo vui.” “Water bowl set down, Hummingbird tilt to sip and drink, Grains call out with joy.” *** "Ta và vạn vật, Không riêng, chẳng tách rời, Chúng sinh muôn đời.” All beings and I, Not separate, not apart, Life eternal in all. Những bài thơ ngắn, hình ảnh giản dị nhưng chứa đựng triết lý sâu sắc. Giống như hành động của Bill, chúng nhắc nhở rằng sự quan tâm, tôn trọng và yêu thương có thể bắt đầu từ những điều nhỏ bé nhất. These short poems, simple in imagery, contain profound philosophy. Like Bill’s actions, they remind us that care, respect, and love can begin from the tiniest gestures. Khi tôi đặt bút xuống, tôi thở dài nhẹ nhõm. Thế giới không cần đợi một biến cố lớn mới thức tỉnh. Mỗi ngày, mỗi hành động, dù nhỏ, đều có thể gieo mầm yêu thương. As I set down my pen, I sighed in relief. The world does not have to wait for a grand event to awaken. Each day, each act, however small, can sow seeds of love. Và tôi hiểu, sống là trân trọng mọi chúng sinh, từ con người đến côn trùng, từ chim chóc đến cây cối, để nhịp điệu cuộc sống hòa quyện cùng hạnh phúc giản dị. And I understood: living is about cherishing all beings—from humans to insects, from birds to trees—so that the rhythm of life harmonizes with simple happiness. Mai Thanh Truyết - 2025 Mai Thanh Truyết - 2025
Con Đường Dân chủ hóa Việt Nam Thúc đẩy xã hội dân sự - Phần II Việc thúc đẩy xã hội dân sự trong bối cảnh một chế độ độc tài như hiện nay tại Việt Nam, với sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước và lực lượng an ninh, đặc biệt là công an, là một thách thức vô cùng lớn. Tuy nhiên, mặc dù có những yếu tố rất khó khăn, việc thúc đẩy và phát triển xã hội dân sự vẫn có thể thực hiện được trong một số hình thức nhất định, tùy thuộc vào các chiến lược và phương thức mà các nhóm, tổ chức dân sự có thể áp dụng. Dưới đây là một số yếu tố và chiến lược có thể giúp thúc đẩy xã hội dân sự trong điều kiện hiện tại: 1. Xây dựng các tổ chức dân sự hợp pháp trong khuôn khổ pháp luật • Tận dụng các hình thức hợp pháp: Trong khi nhiều tổ chức xã hội dân sự độc lập bị hạn chế hoặc bị đàn áp, một số tổ chức có thể hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, mặc dù các hoạt động của chúng có thể bị giám sát chặt chẽ. Các nhóm hoạt động trong các lĩnh vực như giáo dục, bảo vệ quyền lợi người lao động, bảo vệ môi trường, hay các tổ chức thiện nguyện có thể tận dụng các cơ chế chính thức để gây ảnh hưởng và thu hút sự tham gia của công dân. • Tạo dựng mạng lưới liên kết: Các tổ chức xã hội dân sự có thể hoạt động dưới hình thức mạng lưới, dù không trực tiếp đối đầu với nhà nước. Một số tổ chức có thể hoạt động trong phạm vi an toàn, nhưng vẫn có thể tạo ra một lực lượng mạnh mẽ thông qua sự liên kết và phối hợp. 2. Xử dụng công nghệ và mạng xã hội • Mạng xã hội và internet: Công nghệ, đặc biệt là mạng xã hội, là công cụ quan trọng để tạo ra các kênh thông tin, truyền bá ý tưởng và tổ chức các phong trào dân sự mà không bị phát hiện ngay lập tức. Các nhóm dân sự có thể sử dụng Internet để kết nối, trao đổi thông tin, và thảo luận các vấn đề xã hội mà không bị sự kiểm duyệt của nhà nước giám sát một cách dễ dàng. • Tổ chức các hoạt động "ẩn danh" trực tuyến: Các phong trào có thể tiến hành hoạt động qua các nền tảng trực tuyến, chẳng hạn như tổ chức các cuộc thảo luận, chia sẻ tài liệu, và triển khai các chiến dịch công khai hoặc phản biện mà không gây sự chú ý của chính quyền ngay lập tức. 3. Thực hiện các hoạt động dân sự ôn hòa, không đối đầu trực tiếp • Tổ chức các hoạt động không bạo lực: Các phong trào dân sự có thể thúc đẩy các hoạt động ôn hòa như hội thảo, biểu tình không bạo lực (với quy mô nhỏ, kín đáo), các cuộc gặp gỡ cộng đồng, và các hoạt động truyền thông nhẹ nhàng để nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội. Các hoạt động này có thể diễn ra trong các khuôn khổ mà ít bị sự kiểm soát của chính quyền nhận diện. • Hoạt động dưới hình thức “lòng dân”: Một phương thức khác là thực hiện các hoạt động trong các cộng đồng nhỏ, không công khai hoặc không trực tiếp đối diện với nhà nước, nhưng vẫn có thể gây ảnh hưởng, chẳng hạn như qua các nhóm xã hội về bảo vệ môi trường, chăm sóc cộng đồng, hoặc các hoạt động giáo dục về quyền con người. 4. Xử dụng các phương thức đối thoại gián tiếp • Tạo ra cơ hội đối thoại với nhà nước: Mặc dù chính quyền Việt Nam có xu hướng kiềm chế sự tham gia của các nhóm dân sự, nhưng vẫn có những cơ hội cho đối thoại gián tiếp. Các nhóm dân sự có thể tiếp cận các cơ quan chính phủ qua các cuộc hội thảo, hội nghị, hoặc các cuộc đối thoại chính thức để nêu lên các vấn đề xã hội và yêu cầu cải cách mà không trực tiếp thách thức chính quyền. • Công khai các vấn đề nhưng không đối đầu trực tiếp: Các nhóm xã hội dân sự có thể tìm cách làm cho các vấn đề xã hội, như quyền lao động, quyền tự do ngôn luận, hay bảo vệ môi trường, trở thành vấn đề công chúng. Họ có thể tạo áp lực lên chính phủ thông qua việc lôi kéo sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. 5. Kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế • Tận dụng sự hỗ trợ từ quốc tế: Các tổ chức xã hội dân sự có thể tận dụng sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, các quốc gia và các nhóm quyền con người để nâng cao nhận thức toàn cầu về những vấn đề mà họ đang đối mặt. Sự chú ý từ quốc tế có thể giúp giảm thiểu sự đàn áp của nhà nước và tạo ra sức ép đối với chính quyền Việt Nam. • Tham gia vào các sáng kiến toàn cầu: Các nhóm xã hội dân sự có thể kết nối và tham gia vào các sáng kiến toàn cầu về quyền con người, môi trường, hoặc các vấn đề dân chủ để thu hút sự chú ý và hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế. 6. Tạo dựng những thay đổi từ trong cộng đồng nhỏ • Bắt đầu từ cộng đồng nhỏ: Dù khó khăn, nhưng xã hội dân sự có thể bắt đầu từ những thay đổi nhỏ trong cộng đồng. Những tổ chức dân sự có thể tạo dựng niềm tin từ các nhóm nhỏ, gây dựng sự tham gia từ dưới lên, và từ đó xây dựng một lực lượng dân sự mạnh mẽ hơn trong tương lai. • Khuyến khích tư duy phản biện trong cộng đồng: Dân chủ và xã hội dân sự có thể được thúc đẩy từ việc nuôi dưỡng tư duy phản biện trong cộng đồng, tạo ra một thế hệ công dân tự do, dám nói lên tiếng nói của mình, đồng thời giữ gìn sự kết nối trong cộng đồng. Kết luận Việc thúc đẩy xã hội dân sự trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam là một thử thách lớn, nhưng không phải là không thể. Đặc biệt khi chính quyền và lực lượng an ninh kiểm soát chặt chẽ, các nhóm xã hội dân sự cần phải sáng tạo trong cách tiếp cận, sử dụng công nghệ, tổ chức các hoạt động ôn hòa, và tận dụng sự hỗ trợ quốc tế. Sự phát triển của xã hội dân sự không cần phải diễn ra một cách công khai hay đối đầu trực tiếp mà có thể bắt đầu từ những thay đổi nhỏ trong cộng đồng và từ đó gây ảnh hưởng rộng hơn. Mặc dù vậy, sự kiên trì và khả năng đối phó với sự đàn áp là những yếu tố quan trọng để các phong trào dân sự có thể tồn tại và phát triển. Tạo dựng nhiều xã hội dân sự dù lớn hay nhỏ sẽ là những bước chân kết hợp được sức mạnh dân tộc. Bạn nghĩ sao? Mai Thanh Truyết Con đường dân chủ hóa Việt Nam - 2025
Con đường Dân chủ hóa Việt Nam Tổng thể - Phần I Việc mang lại dân chủ thực sự cho Việt Nam trong điều kiện độc tài đảng trị của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSBV) hiện nay là một vấn đề phức tạp, đụng chạm đến nhiều yếu tố chính trị, xã hội và quốc tế. Tuy nhiên, có thể nhìn nhận từ nhiều phương diện khác nhau để từ đó tìm ra những cách thức khả thi trong công cuo5c dân chủ hóa trên. Có bốn yếu tố chánh yếu cần quan tâm; đó là: - Giáo dục về quyền làm chủ của ngưới công dân trong một quốc gia có chủ quyền – Ý thức và phát triển xã hội dân sự, - Gây sự chú ỳ của cộng đồng quốc tế (quốc tế vận), - Đối thoại trên căn bản mở rộng. Tăng cường nhận thức và giáo dục về quyền con người và dân chủ qua mạng lưới toàn cầu: • Giáo dục công dân: Cần có các chương trình giáo dục công dân về quyền tự do, quyền con người, dân chủ và pháp quyền. Điều này có thể thực hiện thông qua các nền tảng giáo dục không chính thức, truyền thông mạng xã hội, và các tổ chức xã hội dân sự. Nếu người dân nhận thức rõ ràng về quyền của mình, họ có thể yêu cầu thay đổi một cách uyển chuyển hơn, ôn hòa và đạt nhihiệu quả hơn. • Về việc xử dụng công nghệ và truyền thông: Mạng lưới toàn cầu và các mạng xã hội có thể là công cụ quan trọng giúp việc truyền bá tin tức và xây dựng cộng đồng công dân xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc xử dụng các nền tảng này phải đối mặt với sự kiểm soát và giám sát chặt chẽ của chính quyền CSBV; vì vậy, cần phải hết sức kín đáo khi trao đổi lẫn nhau. Luôn luôn đề phòng “phía bên kia cài người vào… Xây dựng và phát triển xã hội dân sự: • Xây dựng và phát triển các tổ chức xã hội dân sự độc lập: Tạo ra các tổ chức, hiệp hội dưới dạng tổ chức văn hóa, văn nghệ, cải lương, thi họa, nhóm cộng đồng có tính chất độc lập khỏi sự dòm ngó, chú ý và kiểm soát của nhà nước, mà chỉ chịu sự giám sát của người dân. Các tổ chức này có thể hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, bảo vệ quyền lợi người lao động, môi trường, đặc biệt không bàn đến những vấn đề nhạy cả của nhà cầm quyền. • Tổ chức các phong trào hòa bình: Một khi tổ chức đã có quy cũ và lớn mạnh, cần bước thêm một bước nữa là phát triển các phong trào đòi hỏi quyền lợi căn bản như quyền được phát biểu quan điểm, đóng góp ý kiến, tổ chức hội họp…của người dân một cách ôn hòa và không bạo lực. Những phong trào này có thể ảnh hưởng đến chính quyền thông qua việc xây dựng sức mạnh cộng đồng và gây áp lực xã hội. Mục đích nhằm tiến đến việc thành lập một đối trọng hợp pháp trước chánh quyền. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế: • Kêu gọi sự can thiệp quốc tế: Việt Nam có thể gia nhập các công ước quốc tế về nhân quyền, qua đó tăng cường sức ép từ cộng đồng quốc tế đối với chính quyền Việt Nam để thúc đẩy cải cách. Các xã hội dân sự (NGO) độc lập sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc vận động quốc tế để từ đó tạo nên sức ép cho CSBV trong các nghị quyết, quyết định có tính cách đàn áp hay bóp nghẹt ngươi dân như Nghị quyến 36 năm 2004, Nghị quyết 1334, 2023, và gần đây nhứt Nghị quyết 147 năm 2024 áp lực lên việc kiểm soát đi lại và kiểm soát nội dung, quan điểm của cá nhân trên mạng toàn cầu như Facebook, Email v.v… của người trong nước lẫn ngoài nước. • Tận dụng các mối quan hệ quốc tế: Các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các quốc gia có thể là đối tác quan trọng trong việc hỗ trợ cho các phong trào dân chủ hóa ở Việt Nam. Điều này có thể giúp tạo ra một nền tảng chính trị vững chắc hơn cho sự thay đổi và nhà cầm quyền sẽ thận trọng hơn trong việc đàn áp hay triệt tiêu. Tạo ra các cuộc đối thoại chính trị • Khuyến khích đối thoại giữa các bên: Mặc dù hiện tại Đảng Cộng sản Bắc Việt hiện nay có thể không dễ dàng chấp nhận đối thoại với các lực lượng đối lập, nhưng việc xây dựng các cơ chế đối thoại trong xã hội (chẳng hạn các diễn đàn, hội nghị) có thể là bước đầu tiên hướng tới việc cải cách chính trị. Các cuộc đối thoại phải tập trung vào các vấn đề quan trọng như quyền tự do ngôn luận, quyền bầu cử tự do, quyền lập hôi, và các vấn đề liên quan đến pháp luật trong lãnh vực nhân quyền. • Khuyến khích tham gia chính trị từ dưới lên: Các nhóm, tổ chức chính trị và xã hội có thể thúc đẩy các cuộc thảo luận và ý tưởng về một hệ thống chính trị đa đảng hoặc các cơ chế dân chủ khác. Điều này có thể khiến cho nhà cầm quyền thấy rõ lợi ích của việc cải cách hay thay đổi một vài khía cạnh “thiếu dân chủ” của họ trong việc điều hành quốc gia. Xây dựng sự đoàn kết của các lực lượng dân chủ • Tạo ra sự đoàn kết giữa các lực lượng dân chủ trong và ngoài nước: Các lực lượng đối lập và phong trào dân chủ có thể hợp tác để tạo ra một phong trào mạnh mẽ, xuyên quốc gia, và có ảnh hưởng. Việc này có thể diễn ra qua các cuộc họp, hội thảo quốc tế, và các chiến dịch chung trong việc xây dựng xã hội như thành lập những đội như: vệ sinh đường phố, cổ súy và vận động dân chúng ý thức về việc bảo vệ môi trường chung như quét dọc, thu lượm rác và kêu gọi đừng xả rác trong các khu hẻm, khu chung cư ở các cao ốc v.v… Những việc tuy nhỏ nhặt nhưng từ đó tạo ra lòng tin yêu với bà con sống chung quanh. Từ đó, trong các buổi họp mặt khu phố, có thể gợi ý thêm nhiều quan điểm như cải tạo xã hội, vấn đề nhân quyền và các quyền dân sự trong một xã hội mở hay tự do. • Đẩy mạnh các chiến dịch nhân quyền và dân chủ: Một khi đã dủ lớn mạnh vì có nhiều “cán bộ” và niềm tin của “bà con”, các tổ chức xã hội lần lần tiến dần đến việc nâng cao ý thức vận động quốc tế. Những chiến dịch này cần phải được tổ chức có tính toàn cầu, thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế và đặc biệt là truyền thông quốc tế để tạo ra áp lực đối với chính quyền. Xây dựng các giải pháp và cơ chế cải cách từ bên trong • Thúc đẩy cải cách nội bộ Đảng Cộng sản: Vấn đề là làm sao thúc đẩy sự thay đổi hay cải cách trong và ngoài đảng mà tránh được sự khước từ của họ ngay từ đầu. Dù khó khăn, một số nhà quan sát tin rằng có thể thúc đẩy các cải cách chính trị từ trong nội bộ Đảng, thông qua việc cổ vũ cho các lãnh đạo trẻ có tư tưởng đổi mới. Tuy nhiên, điều này đụng phải thách thức lớn khi Đảng Cộng sản đang còn giữ quyền kiểm soát rất chặt chẽ, nhứt là trong nội bộ đảng. Bất cứ một đảng viên nào dù lớn hay nhỏ có thể bị triệt tiêu ngay khi đảng khám phá hay nghi ngờ một điều gì đó bất lợi cho đảng do đảng viên đó gây ra. • Cải cách thể chế chính trị: Khi thực hiện nhiều bước kể trên tương đối suông sẻ, việc cải cách dần dần thể chế chính trị từ độc tài đảng trị, cho đến độc tài cá nhân…sang dân chủ có thể là một cách tiếp cận “nhẹ nhàng”. Việc mở rộng tự do ngôn luận, tạo ra các cuộc bầu cử tự do và công bằng, và xây dựng một hệ thống pháp lý độc lập là những yếu tố then chốt lần lần được thiết lập. Nên nhớ, dục tốc bất đạt. Rất cần kiên nhẫn đối với Cộng sản Tổng kết Việc mang lại dân chủ thực sự cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đụng phải rất nhiều thử thách, từ sự kiểm soát của Đảng Cộng sản, đến sự kiểm duyệt truyền thông và các cuộc đàn áp chính trị trong việc bảo vệ quyền lực của đảng. Tuy nhiên, việc kết hợp các phương pháp từ cải cách giáo dục, xây dựng xã hội dân sự, tận dụng các mối quan hệ quốc tế và thúc đẩy đối thoại chính trị có thể là những cách thức khả thi để từng bước tạo ra những thay đổi tích cực. Những thay đổi này có thể diễn ra từ từ, nhưng nếu các lực lượng dân chủ đoàn kết và có chiến lược rõ ràng, cơ hội cho một Việt Nam dân chủ hơn trong tương lai vẫn có thể trở thành hiện thực. Tất cả đòi hỏi sự quyết tâm, mức thành tín, và sự đoàn kết của người trong và ngoài nước. Cái ngã và sự nghi kỵ chính là hai kẻ thù của bất cứ tổ chức dân sự độc lập nào. Mời đọc tiếp: Phần II - Thúc đầy xã hội dân sự Phần III- Giáo dục công dân như thế nào? Phần IV – Đẩy mạnh hợp tác quốc tế Phần V – Tạo ra đối thoại với CSBV Phần VI – Xây dựng và Kết hợp các lực lương chánh trị trong và ngoài nước Phần VII – Có thể thực hiện cải cách từ bên trong hay không> Phần VIII – Làm sao thay đổi/thay thế tư duy người cộng sản? Mai Thanh Truyết Con đường Dân chủ hóa Việt Nam – 2025

Thursday, August 21, 2025

An ninh Sinh học Toàn cầu Chuẩn bị Cho Đại dịch kế tiếp: WHO, GERM COVID-19, do virus SARS-CoV-2 gây ra, được ghi nhận và báo cáo lần đầu tiên tại Phòng Thí nghiệm Sinh học Wuhan, Trung Cộng, vào tháng 12 năm 2019. Virus sau đó đã lan rộng ra toàn cầu, dẫn đến đại dịch COVID-19. Chợ hải sản Hoa Nam ở Wuhan được coi là trung tâm chấn đoán đầu tiên của đại dịch, nhưng sau đó đã được chứng mình là virus phát tán từ “bên trong” Phòng thí nghiệm. Đại dịch do sự lây lan của virus đã ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới. Đại dịch COVID-19 là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng cho nhân loại. Hơn 6 triệu người chết, kinh tế toàn cầu suy sụp, chuỗi cung ứng tê liệt, y tế quá tải, và lòng tin công dân vào nhà nước lung lay. Nhưng nếu cho rằng cơn ác mộng này đã qua, chúng ta đang tự trấn an mình trong ảo tưởng. Xin thưa, cơn ác mộng Covid Wuhan chưa kết thúc. Dịch bệnh mới là định kỳ, không còn là một ngoại lệ. Trong thế giới toàn cầu hóa, với giao thông dày đặc trên bộ, sông ngòi, đại dương, đường hàng không, cộng thêm sự biến đổi khí hậu, và buôn bán động vật hoang dã, các đại dịch trong tương lai gần như là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Vấn đề còn lại là chúng ta có chuẩn bị gì không? 1- WHO - Trung tâm y tế toàn cầu, nhưng bị trói tay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trực thuộc Liên Hiệp Quốc, là định chế cao nhất về y tế công cộng toàn cầu. Vai trò của WHO gồm: - Cảnh báo dịch bệnh (như SARS, Zika, COVID-19); - Đưa ra hướng dẫn y tế toàn cầu; - Phối hợp vaccine, dược phẩm, và phản ứng kỹ thuật tại các nước nhược tiểu. Tuy nhiên, WHO chỉ có “tư cách” khuyến cáo, nhưng không có quyền lực ràng buộc như không thể buộc một quốc gia nào phải khai báo dịch, không thể cưỡng chế chính sách y tế, và bị lệ thuộc tài chính vào các quốc gia và nhà tài trợ tư nhân. Điều sau nầy dễ bị ảnh hưởng nghị trình do ảnh hưởng của những nhà tài trợ lớn! Trong đại dịch COVID-19, WHO bị chỉ trích vì phản ứng chậm với Trung Cộng, cũng như có thuyết âm mưu liên quan đến Ông TGĐ WHO có dự phần vào “việc phát tán” Coronavirus đi khắp thế giới qua hành động quá chậm trễ trong việc cung cấp dữ kiện khoa học công khai cho toàn thế giới lúc đầu. 2- Sáng kiến Ứng phó và Huy động Dịch bệnh toàn cầu - GERM: Một quân đội y tế cho thế giới? Trước thực tế WHO bị hạn chế, Bill Gates đề nghị một sáng kiến mang tính cấp bách qua phát biểu và thành lập:“Chúng ta cần một đội quân phòng vệ sinh học toàn cầu, được huấn luyện, tài trợ, và luôn ở tư thế sẵn sàng.” Đó là GERM – Global Epidemic Response and Mobilization team. Nhiệm vụ của GERM • Một đội 3.000 chuyên gia liên ngành: dịch tễ, mô hình, truyền thông, hậu cần (logistics). • Giám sát dữ liệu dịch bệnh toàn cầu 24/7 (thông qua AI, vệ tinh, hệ thống cảnh báo trên toàn thế giới). • Khi có dấu hiệu nguy cơ, GERM sẽ kích hoạt phản ứng nhanh: cách ly, xét nghiệm, phân phối thiết bị và khuyến nghị chính phủ hành động. Tổ chức của GERM • Không thuộc riêng WHO hay bất kỳ quốc gia nào. • Cần ngân sách khoảng 1 tỷ USD/năm, hoạt động độc lập. • Có thể phối hợp với dân quân y viện, hệ thống viện trợ y tế nhân đạo, CDC của các quốc gia. Đây không chỉ là mô hình y tế toàn cầu, mà là cấu trúc phòng thủ sinh học toàn cầu lần đầu tiên có tính định chế. 3- Những thách thức và rào cản của GERM Dù là ý tưởng mang tính bộc phát do một tỷ phú gợi ý, GERM và các sáng kiến tương tự đang đối mặt với nhiều rào cản: • Liệu các nước có cho phép một đội y tế toàn cầu can thiệp vào nội bộ của chính quốc? Nhất là trong các quốc gia độc tài, đóng cửa, hay dễ tổn thương chính trị. • Ai sẽ tài trợ 1 tỷ USD/năm cho một đội không trực thuộc quốc gia? Và do ai(?) điều hành? • Khi các nước còn chưa bảo đảm y tế cho dân mình, liệu họ có sẵn sàng đầu tư vào một hình thức “bảo hiểm” quốc tế? • Từ COVID-19, nhiều nơi bùng phát thuyết âm mưu, chống vaccine, chống WHO, gây phân hóa xã hội, đã tạo ra sự nghi ngờ và niềm tin vào khoa học và các định chế quốc tế. Vì vậy, bất kỳ sáng kiến nào như GERM cũng cần truyền thông minh bạch, hướng dẫn bởi những nhà khoa học có uy tín trên thế giới, không thể do một “quyền lực mềm” nào đó áp đặt. 4- Bài học từ COVID-19: Đầu tư y tế công không còn là lựa chọn Đại dịch COVID-19 cho thấy, những quốc gia có hệ thống y tế cộng đồng vững mạnh (như Hàn Quốc, New Zealand) phản ứng tốt hơn. Sự phối hợp toàn cầu (vaccine COVAX, chia xẻ dữ liệu dịch tễ) là vũ khí quan trọng hơn cả vũ khí quân sự. Qua kinh nghiệm trên, An ninh sinh học giờ đây quan trọng không kém an ninh quốc phòng. Nhưng có khác với quân đội, là lực lượng này cần được huấn luyện không phải để đánh chiếm, mà là để cứu người. 5- Kết luận: Sống chung với dịch, nhưng không đầu hàng số phận Chúng ta không thể ngăn hoàn toàn đại dịch, nhưng có thể giảm thiểu thiệt hại, ngăn dịch nhỏ thành đại dịch. Điều này đòi hỏi, một định chế toàn cầu mạnh mẽ hơn WHO hiện nay. Những sáng kiến như GERM sẽ là một bước tiến đáng kể trong việc phòng bị và ngăn ngừa, và giảm thiểu thiệt hại nếu có được thể chế hóa, minh bạch và có một ban giám sát vô tư và khách quan. Thế kỷ 21 có thể là thế kỷ của dịch bệnh, hoặc là thế kỷ của hợp tác y tế toàn cầu để bảo vệ sự sống. Sự lựa chọn nằm trong tay chúng ta, bắt đầu từ hôm nay, không phải chờ khi một dịch bịnh mới tới. Nên nhớ, Phòng Thí nghiệm Sinh học Wuhan vẫn còn đó, “con siêu vi khuẩn Covid” phát xuất từ nơi nầy dù vô tình hay cố ý, vẫn còn nằm trong thuyết âm mưu? Một đại dịch toàn cầu do một âm mưu thâm độc nào đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong giai đoạn toàn thế giới đang đảo điên hiện tại, sáng kiến thành lập tổ chức “Ứng phó và Huy động Dịch bệnh toàn cầu” là thích hợp và cần thiết ngay từ lúc nầy. Mai Thanh Truyết Houston-Tháng 8-2025

Tuesday, August 19, 2025

Triết lý Vô Thường trong đời sống hiện tại ở Việt Nam – Phần V Câu hỏi được đặt ra làm tiền đề cho bài viết là, nếu ứng dụng triết lý vô thường vào giáo dục đạo đức, sinh thái học, hoặc đời sống hiện đại ở Việt Nam... có thích hợp với hiện trạng xã hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa không? Đây là một câu hỏi rất sắc bén và quan trọng, bởi vì nó đòi hỏi phải soi chiếu một triết lý văn hóa và tâm linh truyền thống (vô thường) vào một xã hội hiện đại hóa dưới hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa với nhiều mâu thuẫn nội tại và ngoại tại. Muốn trả lời rốt ráo câu hỏi: “triết lý vô thường có thể ứng dụng được vào giáo dục đạo đức, sinh thái học và đời sống hiện đại ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa không”, thiết nghĩ chúng ta cần tách bạch và thêm một “vế phụ” vào câu hỏi. Đó là “trong điều kiện xã hội đó chấp nhận một quá trình “tự tỉnh” và “tự chuyển hóa” về văn hóa và chính sách”. 1- Triết lý vô thường là một lối vào cho sự tỉnh thức. Nếu được hiểu và xử dụng đúng, có thể trở thành một phương tiện giáo dục sâu sắc và không đối đầu, vì nó không lên án mà chỉ ra quy luật tự nhiên, khơi dậy nơi con người sự tỉnh thức từ bên trong, chứ không ép buộc từ bên ngoài. Vô thường mang tính triết lý sống mềm dẻo, từ bi, rất phù hợp với nền văn hóa Việt đã quen với cách "luồn lách" và "ẩn nhẫn" trong hoàn cảnh chính trị phức tạp của đặc quyền đặc lợi của xã hội chủ nghĩa. Do đó, dù sống trong một xã hội còn đầy áp lực tư tưởng, vô thường vẫn có thể đi vào giáo dục và đời sống như một hình thức "đạo lý nhân sinh" hơn là một hệ tư tưởng đối kháng. Và có lẽ, cũng chính vì tính vô thường vô hình chung đã thấm vào lòng dân tộc, vì thế cho nên .. sẽ rất khó, sẽ rất khó để xóa đi sự “trói buộc” của xã hội chủ nghĩa hiện tại ở Việt Nam. Và sự chuyển hóa của Đất và Nước có thể xảy ra, nhưng rất chậm! 2- Triết lý vô thường ứng dụng vào giáo dục đạo đức Xã hội Việt Nam hiện nay đang khủng hoảng giá trị đạo đức, nhất là ở giới trẻ sống thực dụng, vô cảm, đua chen vật chất. Triết lý vô thường giúp giáo dục lòng vị tha, buông bỏ, tỉnh thức trước danh lợi, mà không cần những giáo điều khô cứng. Việt Nam có thể đưa triết lý Vô thường vào chương trình giáo dục như là một cung cách sống văn minh hiện đại qua những kỹ năng sống có văn hóa, có đạo đức như một hình thức công dân giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa. Dạy học sinh, sinh viên hiểu rằng: “Thành công không mãi mãi – Thất bại cũng không vĩnh viễn – Trong cuộc sống, nên học cách sống sâu sắc, nhân hậu và biết ơn.” Tuy nhiên, nhìn về giáo dục xhcn hiện nay đang còn nặng về khuôn mẫu ý thức hệ, ít không gian cho tư duy phản tỉnh. Quả thật rất khó để con người “hấp thụ và tiêu hóa” được triết lý Vô thường! 3- Vô thường trong tình trạng môi trường sống hiện tại ở Việt Nam Cũng cần nên biết, Vô thường nhấn mạnh rằng thiên nhiên luôn biến đổi, nếu con người can thiệp quá mức, sẽ gây mất cân bằng, khổ đau cho thiên nhiên. Phải hiểu rằng, đây chính là nền tảng của sinh thái học sâu (deep ecology) của thiên nhiên, con người không là trung tâm, mà chỉ là một phần của vòng sinh – diệt của trời đất. Hiện tại. thực trạng môi trường Việt Nam rất tệ hại. Việt Nam đang bị suy thoái môi trường nghiêm trọng qua ô nhiễm không khí, rác thải nhựa, mất rừng, ngập lụt đô thị… Chính sách phát triển của nhà cầm quyền nhiều khi coi thiên nhiên là tài nguyên để khai thác, chứ không phải là một hệ sinh thái hài hòa. Chính vì vậy, mà chúng ta có thể xem đất nước đang trải qua những cơn “bất thường”, rất khó cho triết lý Vô thường chen chân vào! Chính vì vậy, cần phải khai triển triết lý Vô thường trong lòng dân tộc trong lúc nầy. Vì sao? Vì chúng ta không dễ thay đổi hệ thống kinh tế, chính trị, và cả chế độ. Vì vậy, nên cần thay đổi nhận thức trước. Đây là một cuộc chiến tâm linh, không tiếng súng giữa dân tộc và cường quyền. Dạy cho học sinh, sinh viên, công chúng hiểu rằng, nếu không tôn trọng vô thường thì giới hạn sinh thái học sâu (deep ecology) của chúng ta sẽ bị vô thường trừng phạt bằng thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng sinh học. (Sinh thái học sâu là một triết lý và phong trào xã hội thách thức quan điểm lấy con người làm trung tâm về môi trường. Nó nhấn mạnh giá trị nội tại của tất cả các sinh vật sống và sự kết nối của mọi sự sống, ủng hộ sự thay đổi trong nhận thức của con người và cấu trúc xã hội để ưu tiên phúc lợi sinh thái. Sinh thái học sâu không chỉ là một lý thuyết về môi trường; nó là lời kêu gọi một sự chuyển đổi căn bản trong cách con người liên hệ với nhau trong hành tinh nầy.) Nhiều người trẻ ở Việt Nam bị stress, trầm cảm, có nếp sống vô nghĩa vì bị kẹp giữa áp lực kinh tế, lối sống công nghiệp hóa, thiếu định hướng tinh thần. Thêm nữa, xã hội chủ nghĩa hiện nay không cung cấp được một hệ giá trị nhân văn đủ sâu nhằm bù đắp sự khủng hoảng trên, một khi chủ nghĩa Mác – Lênin đã đánh mất tính hấp dẫn tinh thần của người dân. Vì vậy, Vô thường sẽ là lời giải cho Việt Nam hiện tại. Vô thường không dạy người ta đầu hàng, mà dạy buông bỏ những gì không thật, sống với cái gì đang có, biết trân quý hiện tại. Vô thường có thể kết hợp với thiền, chánh niệm, tinh giản hóa lối sống (minimalism) vốn đang lan rộng trong giới trẻ Việt Nam qua các mạng xã hội. Vô thường sẽ là lời giải cho cuộc xung đột tiềm ẩn, chia cách dân tộc qua chủ thuyết xã hội chủ nghĩa Marxist-Leninist vốn đặt nặng “biến đổi xã hội”, “xây dựng chủ nghĩa cộng sản hoàn hảo” tức là theo đuổi một lý tưởng bất biến. Điều này mâu thuẫn với tinh thần vô thường, vốn coi mọi hệ thống, kể cả bộ máy nhà nước hay đảng phái, cũng chỉ là tạm bợ, phải thay đổi theo quy luật thời gian. Nếu chúng ta biết vận dụng vô thường triệt để, sẽ đi đến chỗ phê phán mô hình hiện tại, chấp nhận thay đổi, điều này có thể bị coi là đe dọa ổn định tư tưởng dưới cặp mắt của những đệ tử Mác Lê. 4- Kết luận Triết lý vô thường, nếu được ứng dụng một cách khéo léo, văn hóa hóa và phi chính trị hóa, hoàn toàn có thể trở thành một công cụ giáo dục đạo đức, sinh thái và tinh thần rất hữu hiệu trong xã hội Việt Nam hiện tại kể cả trong môi trường xã hội chủ nghĩa hiện tại. Triết lý vô thường, nếu đi vào học đường và cộng đồng với ngôn ngữ văn hóa – đạo đức – sinh thái – nghệ thuật, sẽ không làm đối đầu mà còn giúp hàn gắn xã hội, nâng cao phẩm chất sống, và phục hồi chiều sâu văn hóa Việt Nam. Vô thường có thể được “đóng gói lại” như một triết lý đạo đức – nhân sinh – thẩm mỹ, tránh khía cạnh chính trị, để tránh bị đàn áp do cường quyền vì không đối đầu. Vô thường cũng có thể dùng như một “liều thuốc mềm” để nuôi dưỡng sự tỉnh thức âm thầm trong lòng xã hội, chờ ngày trưởng thành và cùng đồng tâm chuyển hóa những con người khô cằn, cứng ngắt trong văn hóa xã hội chủ nghĩa’. Tuổi trẻ Việt Nam hiện tại cần Sống chậm – Sống sâu – Sống hiểu. Mai Thanh Truyết Đường về chân tâm Houston – Tháng 8-2025

Thursday, August 14, 2025

Vô thường trong Cộng đồng Việt – Phần IV Trong văn hóa Á Đông, đặc biệt là Phật giáo và tư tưởng Nhật Bản, khái niệm vô thường (無常 – mujō) biểu hiện cho một chân lý sâu sắc: mọi sự vật hiện tượng đều biến đổi không ngừng, không có gì trường tồn vĩnh viễn. Ở phương Đông, vô thường thường được tiếp cận như một sự tỉnh thức nội tâm, dẫn đến thái độ buông xả, an trú trong hiện tại. Nhưng khi đưa khái niệm này vào xã hội Mỹ, một nơi sôi động, thực dụng, đổi mới liên tục và đề cao bản ngã cá nhân, liệu vô thường có còn “sống được”? Hay nó chỉ là một triết lý mơ hồ, đối lập với thực tiễn phương Tây? Câu trả lời, không nằm ở sự xung đột, mà ở sự chuyển hóa sâu sắc của khái niệm vô thường, phù hợp với tinh thần thời đại. Đối với cộng đồng Việt ở hải ngoại, với nhịp sống năng động, xã hội chạy theo kim đồng hồ, chính vì thế mà người Việt ít có thì giờ để cảm nhận được … vô thường. Nhứt là tuổi trẻ, thiết nghĩ họ cũng không nghĩ đến từ ngữ vô thường, thậm chí không hình dung được vô thường là gì? Càng chạy đua với cuốc sống, áp lực (strees) càng đè nặng lên con người. Vì vậy, đôi khi dừng lại một chút, nói đến vô thường, khơi dậy vô thường để từ đó…khơi dậy ý thức về sự biến đổi, vô thường của cuộc sống để nuôi dưỡng tinh thần thích nghi, khiêm tốn, nhân ái và bảo vệ môi trường. Thiết nghĩ, cũng cần tích hợp triết lý vô thường như một hạt nhân đạo đức, tâm lý, sinh thái học, tránh giáo điều, không đối kháng hệ tư tưởng hiện hành. Và từ đó góp phần làm giàu bản sắc văn hóa Việt, kết nối với truyền thống Phật giáo dân tộc và hướng đến phát triển bền vững. Làm sao nghĩ về Vô thường - Mujõ ở một xã hội năng động như ở Hoa Kỳ? Triết lý vô thường (無常 – mujō trong tiếng Nhật, anicca trong Pāli, và vô thường trong Hán Việt) vốn được xem như là một chân lý trung tâm trong Phật giáo và nhiều truyền thống Đông phương. Nhưng khi đặt trong bối cảnh một xã hội năng động, thực dụng và hướng ngoại như Hoa Kỳ, cần nên có cách tiếp cận linh hoạt và đa chiều hơn. Dưới đây là một số cách để nghĩ và sống với vô thường trong xã hội Mỹ hiện đại. Vô thường như động lực thay đổi, không phải chấp nhận hay cam chịu: Ở xã hội phương Tây, nhất là Mỹ, sự thay đổi thường được nhìn như cơ hội. Cũng vậy, vô thường có thể được hiểu không chỉ là sự "mất mát" hay "tan biến", mà còn là sự chuyển hóa từ thất bại đến thành công, từ nghèo đói đến sung túc, từ bệnh tật đến hồi phục. Trong môi trường kinh doanh hoặc khởi nghiệp, vô thường có thể được nhìn như: ”Không có gì là vĩnh viễn – vì vậy hãy tiếp tục lặp lại” - "Nothing is permanent – so keep iterating!". Một người Mỹ có thể nhìn vô thường như một nguyên lý để không tự mãn với thành công cũng như không tuyệt vọng khi thất bại. Vô thường sẽ hỗ trợ thái độ “tư duy phát triền” - “growth mindset” như… tôi có thể thay đổi, vì vạn vật đều đang thay đổi. Vô thường giúp nhân thân kháng lại chủ nghĩa vật chất và định danh cá nhân quá mức: Hoa Kỳ là một nơi “tự xây dựng thương hiệu” và “chính trị bản sắc” - “self-branding” và “identity politics” lên ngôi, vô thường có thể là liều thuốc giải độc cho sự tự mãn và sự dính mắc vào cái ngã "tôi là ai", "tôi sở hữu gì", "tôi được bao nhiêu người ái mộ". Cũng như cuộc sống ở một xã hội quay cuống khiến cho người dân luôn có tâm trạng lo âu, một sự lo âu vì không kiểm soát được các biến động xã hội, công nghệ, kinh tế, và nhứt là tài chánh cá nhân và gia đình…Có trước đó, và cũng có thể mất ngay chính sau đó! Nhưng tâm lý người Mỹ rất khác với tâm lý người Việt. Đối với một doanh nhân Mỹ sau khi bị phá sản vẫn có thể nhẹ nhàng nói: “Well, everything changes. Let’s begin again.” Nhưng người Việt thì khác, trước một khoảnh khắc thất bại, tiếp theo là những chuỗi dài lo âu…Rất nhiều người trong cộng đồng Việt bị trầm cảm, nhưng chính họ cũng không nhận ra được, không chấp nhận thực trạng và ôm lấy đau buồn…không biết học cách củ người Mỹ là “ngồi trực diện với hiện tại”, để rồi tìm hướng gải quyết. Viết cho người hay viết cho …ta Trong cõi sống ta bà đầy biến dịch nầy, vô thường không còn là một triết lý xa vời của Đông phương nữa, mà là chân lý sống còn cho nhân loại hiện đại – đặc biệt trong xã hội như Hoa Kỳ, nơi con người bị giằng co giữa tốc độ, áp lực thành công, và sự cô đơn nội tại. Vô thường không phải là một lời an ủi, càng không phải là một lời khuyên buông xuôi. Trái lại, nó là một lời nhắc tỉnh thức đầy dũng cảm rằng, không có gì chúng ta đang nắm giữ từ tiền bạc, danh vọng, tình yêu cho đến bản ngã … là vĩnh viễn. Và chính trong sự vô thường đó, chúng ta mở ra khả năng giải thoát khỏi mọi dính mắc. Sống với vô thường, trong bối cảnh nước Mỹ, là: • Biết yêu thương không điều kiện, vì mọi cuộc gặp gỡ đều có thể là lần cuối. • Biết sống trọn vẹn trong hiện tại, vì “ngày mai” không bao giờ là bảo đảm chắc chắn cả. • Biết tha thứ, vì người khác, cũng như chính ta, đều là những sinh mệnh đang biến đổi, không ai mãi là kẻ gây tổn thương hay là nạn nhân. Khi ta chấp nhận vô thường như một người bạn, chứ không như kẻ thù, ta sẽ bước vào đời sống không bằng sự kiểm soát, mà bằng tâm thế mở lòng. Và chính tâm thế đó sẽ cứu rỗi xã hội đầy cạnh tranh, cô lập và bất an mà chúng ta đang sống. Như vậy, Vô thường trong xã hội Mỹ không phải là một triết lý buông xuôi, mà là một khả năng thích ứng cao, một sự tỉnh thức sâu, và một cái nhìn toàn thể về sự sống đang vận hành. Ở nước Mỹ, nơi những kỳ vọng thành công, tốc độ đổi mới công nghệ và văn hóa khởi nghiệp chi phối xã hội, người ta không xa lạ với sự chuyển dịch, thậm chí xem đó là cốt lõi của sự phát triển. Vì thế, vô thường không nhất thiết bị nhìn như một “mất mát”, mà là sự luân chuyển sáng tạo. Văn minh phương Tây đang dần hấp thụ vô thường như một nguồn cảm hứng sáng tạo, thay vì chỉ xem nó là triết lý Đông phương khép kín. Ở xã hội năng động như Mỹ, vô thường không nên hiểu là một lời kêu gọi rút lui khỏi cuộc sống, mà là lời mời sống trọn vẹn với hiện tại, hiểu sâu về quy luật thay đổi, để thích nghi, yêu thương và sáng tạo tốt hơn. Đó không phải là một triết lý “trốn chạy” khỏi thực tế, mà là cách sống cùng thực tại một cách bao dung và tỉnh thức, như Thiền sư Suzuki từng nói:” Mọi thứ đều thay đổi. Mọi thứ đều vô thường. Đó là lý do tại sao mọi thứ đều có thể”. - “Everything changes. Everything is impermanent. That’s why everything is possible.” Vô thường là sự thật của đời. Khi ta chấp nhận nó, ta bớt sợ, bớt giận, và dễ bao dung hơn. Cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại cần chiêm nghiệm suy nghĩ nầy để hồi phục niềm tin, và phát triển bền vững. Và xin đừng quên: Vô thường không phải là sự kết thúc. Mà là… lời mời sống sâu hơn, đẹp hơn, người hơn ngay từ giờ phút nầy! Mai Thanh Truyết Đường về Chân tâm Houston – Tháng 7-2025

Friday, August 8, 2025

Kế Hoạch Hóa Dân Số Thế giới 1- Mở đầu: Dân số không phải là con số – mà là con người Khi thế giới vượt mốc 8 tỷ người vào năm 2022, câu hỏi về dân số lại trở thành tâm điểm tranh luận: Làm sao để nuôi sống toàn nhân loại mà không hủy hoại trái đất? Làm sao để cân bằng giữa tăng trưởng dân số và phát triển bền vững? Kiểm soát dân số thế giới đề cập đến những nỗ lực nhằm tác động hoặc điều chỉnh tốc độ tăng trưởng dân số. Trong lịch sử, điều này bao gồm các chiến lược như kế hoạch hóa gia đình, tiếp cận các biện pháp tránh mang thai và chính sách của các chính phủ. Mặc dù một số quốc gia đã thực hiện các biện pháp cưỡng chế, nhưng trọng tâm đang ngày càng chuyển sang kế hoạch hóa gia đình tự nguyện và trao quyền cho phụ nữ thông qua giáo dục và các cơ hội kinh tế. Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ dự báo dân số sẽ là 8.092.034.511 người vào ngày 1 tháng 1 năm 2025. Worldometer ước tính dân số sẽ là 8.231.613.070 người vào ngày 30 tháng 6 năm 2025. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới dự kiến sẽ đạt 9,8 tỷ người vào năm 2050. Báo cáo cũng dự báo dân số thế giới sẽ tiếp tục tăng lên 11,2 tỷ người vào năm 2100. Trong bối cảnh trên, cụm từ “kế hoạch hóa dân số” thường bị bóp méo thành một công cụ kiểm soát, thậm chí là “âm mưu giảm dân số” từ các thế lực toàn cầu. Nhưng nếu nhìn lại thực chất, kế hoạch hóa dân số nhân đạo không phải là mệnh lệnh từ trên xuống, mà là quyền được lựa chọn của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ. 2- Kế hoạch hóa dân số là trao quyền, không cưỡng bức Theo WHO và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc - UNFPA, kế hoạch hóa dân số nhân đạo gồm 3 yếu tố cốt lõi: - Tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và thai nhi - Tự do quyết định thời điểm và số lượng con cái - Không bị cưỡng ép, ép buộc, hay phân biệt đối xử. Một nghiên cứu khác, dực vào “kế hoạch hóa” và sự tự nguyện kế hoạch hóa của quý bà… thành thử tổng dân số vào năm 2050 sẽ chỉ ở mức độ 7,1 tỷ mà thôi! Qua ba yếu tố trên, rõ ràng kế hoạch hóa dân số hoàn toàn không có nghĩa là "giảm dân số". Nó giúp các gia đình chủ động sinh con trong khả năng nuôi dưỡng, phụ nữ có cơ hội tiếp tục học hành, làm việc và cống hiến, và trẻ em được sinh ra theo ý muốn trong điều kiện an toàn, đủ dinh dưỡng và giáo dục. 3- Lịch sử nhân đạo và bài học sai lầm Các mô hình thành công trên thế giới trong việc tự nguyện kế hoạch hóa ở các quốc gia đông dân số và có mức sinh sản cao: - Nhờ kết hợp y tế cơ sở, giáo dục phụ nữ, và hỗ trợ cộng đồng, tỷ lệ sinh ở Bangladesh giảm từ 6,3 còn 2 con/phụ nữ trong giai đoạn 1975 đến 2020 mà không dùng biện pháp cưỡng bức. - Ethiopia, Indonesia, Tunisia, Việt Nam thời Đổi mới: Kế hoạch hóa kết hợp với nâng cao dân trí, tạo ra dân số ổn định và bền vững. Riêng Trung Cộng và Ấn Độ đã áp dụng một chính sách kế hoạch hóa cưỡng bức, vi phạm nhân quyền và đạo đức xã hội như:: - Trung Cộng với chính sách một con triệt để từ năm 1979 cho đến 2015 như cưỡng bức phá thai, triệt sản, theo dõi sinh sản bằng công an, gây mất cân bằng giới tính và khủng hoảng nhân khẩu học. Và hiện nay, bất bình đẳng giới tính ở Tc là một trong những vấn đề phức tạp trong xã hội Tàu, trong 100 phụ nữ có đến 130 nam giới. - Ấn Độ (1976): Giai đoạn khẩn cấp, chính phủ tiến hành hàng loạt vụ triệt sản cưỡng ép, dẫn đến phẫn nộ dân chúng và sụp đổ chính trị của quốc gia nầy. Tất cả những sai lầm đó không đại diện hay đổ lỗi cho kế hoạch hóa dân số nhân đạo, mà là một biến tướng chính trị của một chính sách độc đoán. 3- Mục tiêu nhân đạo và bền vững toàn cầu LHQ đã xếp kế hoạch hóa gia đình vào 17 mục tiêu phát triển bền vững – Sustainable Development Goals - SDGs. Đó là Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững, được tất cả các quốc gia thành viên LHQ thông qua vào năm 2015, cung cấp một kế hoạch chung cho hòa bình và thịnh vượng cho con người và hành tinh, hiện tại và tương lai. Trọng tâm của chương trình là 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), một lời kêu gọi hành động khẩn cấp từ tất cả các quốc gia, cả phát triển và đang phát triển trong một liên quan đối tác toàn cầu. Họ nhận thức rằng việc chấm dứt đói nghèo và các bất bình đẳng khác phải song hành với các chiến lược cải thiện sức khỏe và giáo dục, giảm bất bình đẳng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và bảo tồn đại dương và rừng của chúng ta. Xin đan cử các mục tiêu chính như giúp: • Xóa đói giảm nghèo (SDG 1) • Bình đẳng giới (SDG 5) • Giảm tử vong trẻ sơ sinh và người mẹ (SDG 3) • Giáo dục có phẩm chất (SDG 4) Ngoài ra, khi phụ nữ có thể kiểm soát sinh sản, họ thường có ít con hơn, nhờ đó, giảm áp lực dân số và môi trường. Và gia đình có thu nhập và đầu tư nhiều hơn cho con, từ đó phẩm chất. 4- Những lời vu khống và thuyết âm mưu sao cần cảnh giác Nhiều thuyết âm mưu cáo buộc các tổ chức như Bill Gates Foundation, UNFPA, WHO... là công cụ “diệt chủng ngầm”, thông qua vaccine, thuốc tránh thai hoặc dịch bệnh nhân tạo. Những lời vu cáo này: • Không có bằng chứng, thường dựa trên phát biểu bị cắt xén hoặc trích sai ngữ cảnh. Trường hợp Bill Gates phát biểu trên diễn đàn Event 201 năm 2019 về việc giảm dân số toàn cầu, và thuyết âm mưu đưa ra nhận định Bill Gates cần giảm dân số từ 8 tỷ xuống còn 7 tỷ vì quả địa cầu đã quá tải! • Gây nguy hiểm khi làm mất lòng tin vào vaccine, y tế cộng đồng và quyền của phụ nữ. Bill Gates cũng đã gây ra ngộ nhận là vaccine để ngừa Ebola chỉ là một loại thuốc “triệt sản” để kiểm soát dân số ở Phi châu! • Phản ánh một nỗi sợ bản năng về kiểm soát sinh sản, nhất là trong các xã hội nam quyền, độc đảng, dân túy hoặc thiếu minh bạch. Vì vậy, minh bạch, truyền thông chính xác và giáo dục công dân là then chốt để bảo vệ một chính sách nhân đạo khỏi bị xuyên tạc. 5- Việt Nam và tương lai dân số có trách nhiệm Việt Nam từng là quốc gia đi đầu về kế hoạch hóa gia đình từ cuối thập niên 1980, nhờ đưa dịch vụ y tế sinh sản về tận thôn xã, đẩy mạnh giáo dục cộng đồng về hôn nhân, sức khỏe, dinh dưỡng và khoảng cách sinh con. Trong giai đoạn 1980 – 2000, chính phủ kiểm soát sinh sản rất chặt chẽ qua khẩu hiệu nổi bật: "Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1–2 con". Qua năm 1989, thành lập Ủy ban Dân số và Kế Hoạch Hóa Gia đình Quốc gia và áp dụng mạnh các biện pháp tránh thai, vận động qua mạng lưới y tế cơ sở và cộng tác viên dân số. Bước sang giai đoạn 2000 – 2020, Việt Nam chuyển hướng từ cưỡng chế sang tự nguyện. Vào năm 2003, ban hành Pháp lệnh Dân số với chính sách bắt đầu mang tính khuyến khích, tôn trọng quyền cá nhân hơn, thay vì áp chế và tăng cường tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản và giáo dục giới tính. Dân số Việt Nam hiện nay. 2025 ước tính khoảng khoảng 103 triệu người với tỷ lệ sinh sản 1,95 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế (2,1). Tuy nhiêm, mức sinh không đồng đều giữa các vùng: - Thành thị, đồng bằng: sinh thấp (1,4–1,6) - Vùng núi, Tây Nguyên, dân tộc thiểu số: sinh cao hơn (2,5–3,2). Tỷ số giới tính khi sinh khoảng 112 bé trai/100 bé gái (mức bình thường là 105/100), có nguy cơ thừa nam thiếu nữ trong tương lai Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đối diện với nguy cơ già hóa dân số nhanh, tỷ lệ sinh ở nhiều tỉnh (như TP.HCM, Đồng bằng sông Hồng) đã xuống dưới mức thay thế (1.6 con/phụ nữ). Đây là lúc kế hoạch hóa dân số phải chuyển từ “giảm sinh” sang “cân bằng và chất lượng”. Năm 2025, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 13–14%. Dự báo Việt Nam bước vào giai đoạn “già hóa dân số” hoàn toàn vào năm 2036. Chính sách dân số Việt Nam đã chuyển mình từ một mô hình “kiểm soát bắt buộc” sang mô hình “quản lý mềm và thích ứng”. Trong bối cảnh dân số bắt đầu già hóa và mức sinh xuống thấp, bài toán hiện nay không chỉ là kiểm soát số lượng, mà là nâng cao phẩm chất dân số và duy trì cơ cấu dân số vàng lâu dài. Điều này đòi hỏi phải một kế hoạch quản lý dân số kết hợp với giáo dục, y tế, lao động, bảo hiểm xã hội và phát triển kinh tế toàn diện. Chúng ta đã đi qua một giai đoạn phát triển dân số đặc biệt, từ thừa sang thiếu, từ tăng quá nhanh sang già hóa nhanh chóng. Tư duy chính sách vì vậy cũng cần thay đổi căn bản, từ áp đặt sang hỗ trợ, từ kiểm soát sang thích ứng, từ số lượng sang phẩm chất lượng. Nếu không có chính sách dân số đúng đắn, Việt Nam sẽ không có tương lai kinh tế xã hội bền vững. 6- Thay lời kết - Kế hoạch hóa dân số là quyền, không phải công cụ Dân số không phải là vấn đề “quá nhiều người”, mà là vấn đề quản trị con người và cơ hội sống của họ. Kế hoạch hóa nhân đạo không giới hạn sự sống, mà cho phép con người được sống đúng nghĩa, an toàn, tự do và có phẩm giá. Thế giới không cần kiểm soát dân số bằng áp đặt, mà cần trao quyền sinh sản trong tự do, kiến thức, và lựa chọn. Đó là nhân đạo – không phải “âm mưu”. Riêng tại Hoa Kỳ, Tư bản và các quyền lực mềm, Big Pharma… độc quyền kiểm soát kỹ nghệ dược phẩm Mỹ, nâng giá thuốc nhiều loại mắc hơn Liên Âu gấp 10 lần, từ đó tạo ra gánh nặng cho những người trung lưu và có lợi tức thấp. Hy vọng hành pháp 47 có biện pháp kếm chế các thế lực trên, qua tuyên bố của TT Trump:” Bạn sẽ không tin những gì mình sắp nghe. Trong nhiều thập kỷ, người Mỹ đã phải trả giá thuốc theo toa cao nhất thế giới. Cao hơn bao nhiêu? Một loại thuốc điều trị ung thư vú có giá 16.000 đô la một chai ở Mỹ chỉ có giá bằng MỘT PHẦN MƯỜI MỘT so với giá đó ở Thụy Điển. Cùng một loại thuốc. Cùng một nhà máy. Cùng một công ty. Một loại thuốc hen suyễn thông thường có giá gần 500 đô la ở Mỹ nhưng chưa đến 40 đô la ở Anh.” Mai Thanh Truyết Houston – Tháng 8-2025

Wednesday, August 6, 2025

Tài phiệt Toàn cầu Trong Y tế và Môi trường Trong một thế giới trong đó, khủng hoảng khí hậu, đại dịch, và bất bình đẳng y tế ngày càng đe dọa sự ổn định toàn cầu. Sự phân bổ toàn cầu trong lãnh vực y tế và môi trường, thể hiện sự bất bình đẳng rõ nét nhứt cho dú khách quan hay chủ quan đối với trên 8 tỷ sanh linh. Hoa Kỳ xử dụng nguồn nước tính trung bình cho trên 330 triệu dân là 200Gal/người; trong lúc đó đa số người Phi châu hưởng chưa tới 1lít nước/ngày. Các qu1o6c gia Âu châu, Bắc Mỹ v.v…hưởng một nền ý tế tối tân, ngược lại đa số người dân sống ở Phi châu, Á châu, Á rập, rất nhiều người chưa từng thấy một giọt thuốc “xức ghẻ”, thuốc đỏ Iodine! Câu trả lời “huề vốn” về những lý do tại sao, tại sao…có sự bất cân bằng trên toàn cầu cho hai lý do trên là do dân trí thấp, nghèo, người dân chưa ý thức được vai trò của y tế và môi trường v.v… Nhưng sự thật có phải như vậy hay không? Mời quý độc giả suy nghĩ… Ngay cả, tại Hoa Kỳ là một quốc gia có thể nói văn minh, dân chủ, và tiến bộ nhựt toàn cầu, sự bất bình đẳng về hai phương diện trên cũng vẫn là một đề tài cần tranh cãi. Theo người viết, tất cả chỉ vì chữ … TIỀN! Nói về nước mỸ, xin nói ngay là, vai trò của các chính phủ thay đổi mỗi nhiệm kỳ tổng thống 4 năm, vốn chậm chạp, phân tán và thường bị giới hạn ngân sách; từ đó được/ đang dần bị thay thế bởi một thế lực khác: giới tài phiệt toàn cầu. Những tỷ phú như Bill Gates, Michael Bloomberg, Jeff Bezos, hay những tập đoàn đầu tư như BlackRock, Vanguard, giờ đây không chỉ sở hữu cổ phần trong nền kinh tế mà còn can thiệp sâu vào các lĩnh vực thiết yếu nhất của nhân loại về y tế và môi trường. Nhưng sự hiện diện ngày càng lớn này đang tạo ra một câu hỏi hệ trọng:” Họ là ân nhân đang cứu nhân loại, hay là những kẻ thao túng nghị trình toàn cầu vượt khỏi sự kiểm soát dân chủ?” Và quan trọng hơn nữa:”Chúng ta cần làm gì? 1- Khi chính phủ rút lui, tư nhân bước vào Sau thảm họa Ebola 2014 ở Phi Châu, đại dịch COVID-19 ở Wuhan và nhiều cuộc khủng hoảng y tế tại châu Phi, thế giới chứng kiến một thực tế là nhiều chính phủ không đủ nguồn lực về chuyên môn hay tài chính, hoặc quyết tâm đối phó khủng hoảng y tế công cộng. Chính trong khoảng trống ấy, các quỹ tư nhân đã bước vào. • Quỹ Bill & Melinda Gates đã chi hơn 50 tỷ USD trong 20 năm cho các chương trình chống sốt rét, tiêm chủng, nghiên cứu HIV, và hỗ trợ hệ thống y tế ở các nước nghèo. • Michael Bloomberg chi hơn 10 tỷ USD để thúc đẩy cấm thuốc lá, chống biến đổi khí hậu, và hỗ trợ các thành phố chuyển đổi sang năng lượng sạch. • Jeff Bezos với Bezos Earth Fund cam kết 10 tỷ USD cho các giải pháp khí hậu, từ tái trồng rừng đến công nghệ carbon. Đáng lưu ý, một số tổ chức như WHO, UNICEF, GAVI, CEPI... đã trở thành đối tác lớn của giới tài phiệt. Một mặt, nguồn lực tài chính này giúp họ hoạt động hiệu quả và nhanh chóng hơn, đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng. Nhưng mặt khác, mối quan hệ tài trợ này cũng gây ra sự lệ thuộc chính sách. Và cũng chính vì lý do sau cùng nầy, vị Tổng thống thứ 47 đã hạn chế hay chấm dứt ngân sách tài trợ cho các tổ chức trên. 2- Mặt trái của các quyền lực tài phiệt phi dân chủ Sức mạnh của giới tài phiệt không đến từ lá phiếu của người dân, cũng không chịu sự ràng buộc chặt chẽ như các thể chế công quyền. Điều này dẫn đến một thực trạng nguy hiểm: • Thiếu cơ chế kiểm soát dân chủ: Không ai bầu Bill Gates để quyết định chiến lược tiêm chủng ở châu Phi, hay chọn Jeff Bezos làm người điều phối chuyển đổi khí hậu toàn cầu. • Thiếu khả năng điều nghiên kế hoạch hành động: Giới tài phiệt có thể có ưu tiên cho các giải pháp công nghệ nơi họ đầu tư, nhưng điều đó không có nghĩa là họ/nhóm họ “đưa ra” các giải pháp xã hội căn bản như công lý khí hậu, cải cách hệ thống thuế, quyền lao động...nhưng không thông qua hệ thống hành chánh của từng quốc gia. Họ quyết định thay cho toàn cầu…nhân danh ai? Giới tài phiệt hay là Nhóm Globalists toàn cầu, hoặc cải hai? • Tập trung quyền lực tri thức: Khi họ/nhóm sở hữu không chỉ vốn mà cả dữ liệu, nhân sự, và ảnh hưởng truyền thông, sự mất cân bằng quyền lực tri thức trở thành hiện thực. Vô hình chung, chính phú bị…cho đứng ngoài lề.. Một ví dụ rõ ràng là vai trò của Quỹ Gates trong WHO, nơi quỹ này từng là nhà tài trợ lớn thứ hai, chỉ sau chính phủ Mỹ, và từng chi phối mạnh các chương trình ưu tiên (như vaccine) hơn các vấn đề mang tính cấu trúc (như hệ thống y tế công cộng của từng quốc gia). 3- Trường hợp Bill Gates và WHO - Cộng tác hay chi phối? OSLO/ GENEVA, ngày 30 tháng 5 - Liên minh Đổi mới Sẵn sàng Phòng chống Dịch bệnh (CEPI) và Gavi, Liên minh Vắc-xin (Gavi), hai đồng lãnh đạo của COVAX, cơ chế đa phương thúc đẩy tiếp cận công bằng với vắc-xin COVID-19 trên toàn cầu, đã mở rộng quan hệ đối tác nhằm tăng cường phát triển, triển khai và... Gavi là viết tắt của Gavi, Liên minh Vaccine. Trước đây, Gavi được gọi là Liên minh Toàn cầu về Vaccine và Tiêm chủng. Gavi là một cơ quan đối tác y tế toàn cầu công-tư tập trung vào việc tăng cường tiếp cận tiêm chủng ở các nước đang phát triển. Trong đại dịch COVID-19, Quỹ Gates đóng vai trò chủ động trong việc tài trợ cho hai dự án chính: • Phát triển vaccine qua Liên minh Đổi mới Sẵn sàng Phòng chống Dịch bệnh - The Coalition for Epidemic Preparedness Innovations – CEPI, và Liên minh Vaccine Gavi - The Vaccine Alliance Gavi. Đây là hai cơ chế đa phương thúc đẩy tiếp cận công bằng với vaccine COVID-19 trên toàn cầu, đã mở rộng mối kết nối với các đối tác liên chính phủ nhằm tăng cường phát triển, triển khai.Trước đây, Gavi được gọi là Liên minh Toàn cầu về Vaccine và Tiêm chủng. Đã từng hỗ trợ WHO về kỹ thuật và hậu cần. • Mua và phân phối vaccine cho các nước nghèo. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia y tế toàn cầu cảnh báo rằng việc WHO lệ thuộc quá nhiều vào nguồn tài trợ tư nhân, nhứt là Bill Gates khiến họ mất đi tính độc lập, dễ bị buộc phải ưu tiên chương trình theo lợi ích nhà tài trợ thay vì theo nhu cầu y tế công. Dù không có bằng chứng rằng Gates “ép buộc” hay thao túng WHO một cách bất chính, việc một cá nhân hoặc nhóm nhỏ có ảnh hưởng đến một tổ chức quốc tế vốn dĩ nên phục vụ toàn thể nhân loại là một nguy cơ mà cần được theo dõi rốt ráo! 4- Cần giải pháp minh bạch, dân chủ hóa và phân quyền Thay vì loại trừ hay nghi ngờ mọi đóng góp từ giới tài phiệt, thế giới cần xây dựng các cơ chế để hợp tác mà không bị lệ thuộc hay ảnh hưởng vào khuynh hướng chính trị của tài phiệt. Đối với WHO và các tổ chức công, cần công khai minh bạch và đầy đủ mọi nguồn tài trợ tư nhân, cùng với điều kiện đi kèm nếu có. Nhứt là không thể để các chính sách y tế/môi trường toàn cầu bị vạch ra theo chiều hướng của giới tài phiệt từ phương Tây, mà không theo hướng phục vụ chung cho toàn cầu. Vai trò xã hội dân sự của các quốc gia nghèo rất cần thiết trong giai đoạn nầy.Q Có được như vậy, các quy định về lobby, xung đột lợi ích, hay giới hạn tỷ lệ tài trợ cá nhân đối với định chế công quốc tế sẽ tương đối đi vào nề nếp nhờ luật hóa ảnh hưởng tư nhân trong chính sách công. 5- Kết luận Thế giới ngày hôm nay thể hiện đầy bất ổn khắp nơi, chính vì những cơ quan đại diện không còn có tư thế minh bạch, công minh, và có “tâm lành” như trước kia. Chỉ cần lấy cơ quan Liên Hiệp Quốc làm thí dụ. Trong những năm đầu của tên gọi Hội Quốc Liên và sau đó LHQ, mỗi tiếng nói hay quyết định của cơ quan nầy đều được tất cả quốc gia tuân thủ hầu như tuyệt đối. Nhưng ngày hôm nay, Putin của Nga xuất quân đi xâm lăng một nước có chủ quyền, thành viên của LHQ như Ukraina; thế mà, LHQ đành bất lực, Hội đồng Bảo An LHQ chỉ ra được vài nghị quyết mà Putin vẫn phớt lờ! Và còn rất nhiều điều nghịch lý/phi lý hiện đang xảy ra trên trái đất mà LHQ vẫn… thờ ơ vì bất lực! Xin có vài lời báo động, đánh thức thế giới cần chấn chỉnh lại vai trò của những cơ quan đại diện cho các quốc gia có chủ quyền trên thế giới. Chúng ta đều biết, giới tài phiệt, dù là người tốt hay xấu, không thể bị loại bỏ khỏi bàn cờ toàn cầu. Họ sở hữu vốn, công nghệ, và ảnh hưởng thực sự. Nhưng nếu chúng ta muốn một thế giới công bằng, phát triển bền vững, họ không thể là người viết luật và thi hành luật. Nhân loại cần họ như những đối tác chịu trách nhiệm, chứ không phải như ông chủ đứng trong bóng tối để chia phần ảnh hưởng lên thế giới, hay hướng thế giới đi theo hướng đi của họ, Họ là Nhóm Globalists toàn cầu. Mai Thanh Truyết Houston – Tháng 8-2025