Thursday, May 1, 2025
Việt Nam giữa hai Ảnh hưởng: Hoa Kỳ – Trung Cộng
Chiến lược Phát triển Tự chủ
Chúng ta đang chứng kiến một thời kỳ chuyển dịch mạnh mẽ của trật tự thế giới. Cạnh tranh giữa HK và TC không chỉ là chuyện của hai siêu cường mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến các nước trung gian, đặc biệt là các quốc gia có vị trí địa chính trị chiến lược như Việt Nam. Trong khi đó, bên trong Việt Nam, các nhóm chính trị cũng đang tranh thủ ảnh hưởng quốc tế để củng cố vị thế và định hình hướng đi cho đất nước trong tương lai.
Trong phần trình bày hôm nay, xin chia sẻ ba nội dung chính:
• Bản chất và xu hướng ảnh hưởng của Hoa Kỳ và TC tại Việt Nam.
• Tác động của các ảnh hưởng này đến chiến lược phát triển đất nước.
• Diễn biến gần đây trong nội bộ chính trị Việt Nam và khả năng cân bằng chiến lược.
1. Mối liên quan với Hoa Kỳ
Hoa Kỳ: Hướng đến cải cách và hội nhập công nghệ
Sau nhiều thập niên thăng trầm, quan hệ Việt - Mỹ đã có một bước ngoặt quan trọng khi được nâng lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 9 năm 2023. Đây là một mốc quan trọng, không chỉ mang tính biểu tượng mà còn có hàm ý chiến lược sâu sắc. Sự hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện nay tập trung vào ba trụ cột: công nghệ cao, giáo dục, và thương mại toàn cầu. Mỹ không tìm cách can thiệp vào chính trị nội bộ Việt Nam một cách trực tiếp, nhưng sự hiện diện của các tập đoàn công nghệ, viện nghiên cứu, và trường đại học lại mang theo tư duy cải cách, quản trị minh bạch và hệ giá trị phương Tây – trong đó có chính sách pháp trị, tự do phát biểu, tự do trong học thuật và cạnh tranh bình đẳng.
• Mỹ nhìn thấy Việt Nam là một đối tác chiến lược quan trọng ở Biển Đông, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh với TC ở Đông Nam Á.
• Tuy nhiên, sự thận trọng của Việt Nam khiến Mỹ đôi lúc thiếu kiên nhẫn, vì không dễ thiết lập liên minh sâu sắc như với Nhật Bản, Hàn Quốc hay Phi Luật Tân.
• Chiến lược “Indo-Pacific” của Mỹ xem Việt Nam là “trụ cột mềm,” nhưng chưa hoàn toàn tin cậy được.
Nhóm cải cách trong chính trường Việt Nam nhìn nhận quan hệ với Hoa Kỳ như một cơ hội để mở rộng không gian chính sách, nâng cao năng lực quản trị và giảm phụ thuộc vào mô hình kiểm soát hành chính tập trung. Nhưng có lẽ vì chưa đủ sức mạnh để tạo nên thế cân bằng với nhóm bảo thủ chăng (?)
Kết quả của chính sách “cây tre” trong mối quan hệ Việt – Mỹ
Việt Nam đã thể hiện khả năng “đi dây” khá linh hoạt giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới. Kết quả cụ thể:
Về phía Hoa Kỳ:
- Về việc tăng cường hợp tác kinh tế – công nghệ, Mỹ đã trở thành một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2023, thương mại hai chiều đạt hơn 124 tỷ USD. Các tập đoàn công nghệ lớn của Mỹ như Intel, Apple, Google đã đầu tư mạnh vào Việt Nam, hỗ trợ quá trình chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu.
• Về việc hợp tác an ninh – chiến lược, hai nước nâng cấp liên lạc lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vào năm 2023, bao gồm cả hợp tác quốc phòng, đào tạo sĩ quan, và chuyển giao công nghệ quốc phòng nhẹ. Chính việc tăng cường mối liên quan nầy giúp Việt Nam có “bảo hiểm chiến lược” trong tranh chấp Biển Đông và giảm lệ thuộc vào TC.
2. Mối liên quan với Trung Cộng
Ngược lại, mối liên quan Việt–Trung được định hình từ rất sớm – từ năm 2008 với khuôn khổ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện. Tuy nhiên, trọng tâm của mối liên lquan này không nằm ở công nghệ hay thị trường, mà là ở khía cạnh chính trị nội bộ: đào tạo cán bộ, cải cách hệ thống pháp luật theo hướng kiểm soát xã hội, phòng chống tham nhũng và củng cố bộ máy.
TC thường chia sẻ kinh nghiệm về mô hình “chủ nghĩa xã hội đặc sắc” với một Đảng cầm quyền mạnh, bộ máy kiểm soát chặt chẽ, và không gian chính trị hạn chế. Mô hình này đặc biệt thu hút các nhóm bảo thủ trong nội bộ Việt Nam, những người dành ưu tiên cho ổn định và an ninh chính trị trên hết.
Ảnh hưởng của TC vì thế ít trực tiếp hơn nhưng thấm sâu vào cấu trúc tổ chức và tư duy quản trị của một bộ phận lãnh đạo Việt Nam – nhất là trong ngành công an, nội chính và các cơ quan kiểm tra, thanh tra. Tất cả nhằm:
• Giữ ổn định quan hệ kinh tế – chính trị, TC vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Việt Nam nhập cảng nhiều máy móc, nguyên vật liệu và thiết bị từ Trung Quốc phục vụ sản xuất.
• Việc hợp tác hai đảng sâu rộng, từ đó mối liên quan mật thiết giữa hai Đảng Cộng sản vẫn được duy trì ở mức cao, với nhiều hội nghị cấp cao, việc hợp tác, trao đổi, thực tập quân sự khắng khít.
• Và nhứt là tránh đối đầu trực tiếp cho dù có tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam vẫn duy trì “ngoại giao song phương” thay vì đa phương hóa xung đột (trái với Philippines), tránh làm Bắc Kinh mất mặt.
TC chấp nhận Việt Nam “đa phương hóa, đa dạng hóa” đối ngoại nhưng vẫn tìm cách giữ Việt Nam trong “quỹ đạo ảnh hưởng truyền thống.” Bắc Kinh có thể khó chịu khi Việt Nam xích lại gần Mỹ, nhưng vẫn duy trì hợp tác chặt về kinh tế và chính trị nội bộ, giúp họ không mất kiểm soát hoàn toàn. Dù muốn dù không, TC vẫn là nguồn đầu tư hạ tầng lớn, đặc biệt qua sáng kiến “Vành đai - Con đường” biến Việt Nam thành một con nợ quan trọng hiện nay.
3. Đi với Mỹ hay Hoa, nước nào có lợi hơn cho Việt Nam?
Về lâu dài, hợp tác với Hoa Kỳ đem lại nhiều lợi ích bền vững hơn vì công nghệ cao, thị trường rộng, chuẩn mực minh bạch, và tạo không gian phát triển kinh tế – xã hội ổn định hơn.
Tuy nhiên, không thể hoàn toàn “thoát Trung” vì khoảng cách địa lý, phụ thuộc chuỗi cung ứng, và ảnh hưởng chính trị, văn hóa đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm qua.
Vì vậy, “cây tre” là lựa chọn thực tế và hiệu quả nhất hiện nay — tận dụng cái mạnh của mỗi bên để xây dựng nội lực: vừa “hợp tác” vừa “cảnh giác,” vừa “mềm mỏng” vừa “kiên định.”
4. Chiến lược nào cho Việt Nam?
Việt Nam trong hai thập niên qua đã có bước phát triển ngoạn mục, tuy nhiên vẫn đang đứng trước một ngã ba đường: tiếp tục cải cách để hội nhập sâu hơn với thế giới bên ngoài, hay quay về mô hình kiểm soát tập trung để duy trì ổn định nội bộ?
Chiến lược phát triển theo hướng hội nhập
Có hai khuynh hướng phát triển Việt Nam, khuynh hướng cải cách và khuynh hướng bảo thủ. Khuynh hướng cải cách thường thúc đẩy chính sách phát triển dựa trên:
• Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số;
• Tăng cường liên kết với thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật, Hàn;
• Xây dựng nhà nước pháp quyền hiện đại, minh bạch hóa hệ thống quản lý công.
Những chương trình hợp tác như CHIPS Act, Indo-Pacific Economic Framework (IPEF) hay các quỹ hỗ trợ giáo dục đại học của Mỹ được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam tăng cường nội lực mà không rơi vào phụ thuộc.
Ngược lại, khuynh hướng bảo thủ thường tập trung vào việc:
• Kiểm soát rủi ro chính trị từ bên ngoài;
• Tăng cường kiểm duyệt thông tin và quản lý truyền thông xã hội;
• Củng cố bộ máy chống tham nhũng để làm “công cụ thanh lọc” nội bộ.
Chiến lược này gắn liền với mô hình phát triển “phi dân chủ nhưng hiệu quả” mà TC từng áp dụng thành công trong hai thập niên đầu thế kỷ 21. Tuy nhiên, nó mang theo rủi ro là triệt tiêu sáng tạo và hạn chế không gian dân sự, vốn là động lực lâu dài của đổi mới.
Chính sách “bốn không”: nỗ lực trung lập hóa chiến lược
Việt Nam hiện vẫn kiên nhẫn duy trì chính sách “bốn không” trong quốc phòng: - Không liên minh quân sự - Không liên kết với nước này để chống nước kia - Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự - Không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực.
Chính sách này vừa là thông điệp ngoại giao, vừa là công cụ để trung hòa ảnh hưởng đối kháng từ cả Hoa Kỳ và TC, duy trì tự chủ trong chiến lược phát triển và chính trị nội bộ.
5. Chính sách cây tre và chiến lược đu dây của Việt Nam
Hình ảnh cây tre được TBT cs Nguyễn Phú Trọng ví như biểu tượng cho đường lối đối ngoại của Việt Nam: “Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển.” Trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa Hoa Kỳ và TC, chính sách này cho thấy một cách tiếp cận khôn ngoan: giữ được chủ quyền, mở rộng được cơ hội hợp tác, nhưng vẫn không rơi vào vòng xoáy của bất kỳ cực nào.
Cây tre Việt Nam, trong bối cảnh đó, là sự tự chủ trong quan hệ đa phương, vừa kiên định mục tiêu độc lập dân tộc (?) và phát triển bền vững, vừa linh hoạt thích ứng với những cơn gió lớn của thời đại.
Đối với Hoa Kỳ - Mở ra cửa ngõ phát triển công nghệ và chiến lược lâu dài
• Kinh tế – thương mại: Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn hàng đầu của Mỹ tại Đông Nam Á. Năm 2023, kim ngạch song phương vượt 124 tỷ USD. Mỹ không chỉ là thị trường xuất khẩu lớn mà còn là điểm đến của các sản phẩm có giá trị gia tăng cao từ Việt Nam.
• Công nghệ – chuỗi cung ứng: Việt Nam đang trở thành trung tâm sản xuất linh kiện điện tử và thiết bị công nghệ trong chiến lược “China +1” của các tập đoàn Mỹ. Điều này không chỉ mang lại việc làm mà còn nâng cao năng lực công nghệ nội địa.
• An ninh – quốc phòng: Qua đối tác chiến lược toàn diện năm 2023 đánh dấu bước ngoặt. Việt Nam được tiếp cận các chương trình huấn luyện, chia sẻ thông tin, và thậm chí là hợp tác nghiên cứu quốc phòng, ở mức vừa đủ để tăng vị thế, không gây phản ứng đối đầu từ Trung Quốc.
Đối với Trung Cộng - Vẫn giữ vị thế hợp tác chiến lược đặc biệt
• Thương mại – đầu tư: Trung Quốc vẫn là nguồn cung chính về nguyên liệu và máy móc. Kim ngạch thương mại song phương năm 2023 đạt trên 170 tỷ USD, trong đó Việt Nam nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu trung gian phục vụ cho xuất khẩu.
• Chính trị – đảng phái: Mối quan hệ giữa hai Đảng vẫn là “trụ cột” của ngoại giao song phương. Các hội nghị lý luận, giao lưu cán bộ cao cấp, và hợp tác an ninh biên giới được duy trì đều đặn, cho thấy Việt Nam giữ được thế ổn định với một láng giềng lớn.
• Biển Đông: Dù có tranh chấp, Việt Nam vẫn kiên trì đấu tranh bằng con đường hòa bình, không để vấn đề biển đảo phá vỡ toàn bộ quan hệ, đồng thời tránh xa các liên minh quân sự mà TC có thể xem là đe dọa.
Việt Nam dưới mắt Hoa Kỳ: Việt Nam được xem là một đối tác chiến lược tiềm năng, đặc biệt trong vai trò “neo giữ ổn định Đông Nam Á.” Tuy nhiên, sự thận trọng của Hà Nội khiến Washington có phần thiếu kiên nhẫn trong việc xây dựng liên minh sâu. Hiện tại, trong cuộc thương chiến Mỹ - Trung, Việt Nam lại trở thành điểm đến lý tưởng cho đầu tư chuyển dịch chuỗi cung ứng khi các cty Hoa Kỳ rời khỏi TC cùng với sự ổn định chính trị và vị trí địa lý thuận lợi của nước nầy.
Việt Nam dưới mắt Trung Cộng: TC coi Việt Nam là quốc gia “anh em” có quan hệ lịch sử, nhưng cũng không giấu sự cảnh giác khi Việt Nam tiến gần hơn với Hoa Kỳ. Anh em nhưng luôn luôn cảnh giác. Lịch sử đã chứng minh rằng, TC luôn đề cao cảnh giác Việt Nam, không hoàn toàn tin tưởng vì sự tráo trở của của lãnh đạo Việt. Bắc Kinh vẫn có lợi ích sâu sắc trong việc duy trì Việt Nam như một “vùng đệm hòa bình”, không để rơi vào tay liên minh phương Tây.
6. Việt Nam nên “nghiêng” về đâu để có lợi hơn?
Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng câu trả lời lại nằm trong chính tư duy “cây tre” tức là không nghiêng hẳn, cũng không đứng yên.
• Đi với Mỹ, Việt Nam được tiếp cận khoa học – công nghệ, thị trường toàn cầu, và một trật tự pháp lý quốc tế. Đây là nền tảng phải đạo cho sự phát triển bền vững, hiện đại hóa và nâng cao năng suất lao động.
• Đi với Trung, Việt Nam duy trì sự ổn định nội địa, tránh xung đột lớn, và bảo đảm được nguồn cung ứng nguyên vật liệu chiến lược trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, nếu phải chọn một định hướng lâu dài, Việt Nam nên ưu tiên xây dựng quan hệ bền vững với Hoa Kỳ và các nước dân chủ phát triển. Lý do là những quốc gia này tôn trọng chủ quyền, luật pháp quốc tế, và khuyến khích sự minh bạch. Đó là những yếu tố giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế và củng cố nền tảng phát triển tự chủ. Trên thực tế, sau cuộc hội đàm giữa Tập Cận Bình và Tô Lâm ngày 14/4 vừa qua với hơn 40 ký kết giữa hai nước đã cho thấy chính sách trung lập cây tre đã nghiêng về phía TC. Chính vì vậy, Mỹ đã cứng rắn hơn với Việt Nam bằng cách “khuyến cáo” viên chức HK tham gia vào các sinh hoạt 30/4 ở Việt Nam và thắt chặt chính sách thuế quan cho Việt Nam hơn nữa. Người viết tiên đoán có thể HK sẽ cấm người Việt hải ngoại gửi tiền về Việt Nam hang năm với con số lên đến gần 20 tỷ US$.
Nhiều lãnh đạo cao cấp từng được xem là gương mặt cải cách, đã bị bắt hoặc kỷ luật trong chiến dịch đốt lò từ năm 2021 trở đi, các địa phương năng động về kinh tế như Saigon, Đà Nẵng hay Bình Dương, vốn là căn cứ quyền lực chính yếu của nhóm đổi mới ở miền Nam đều có các thành phần lãnh đạo thậm chí nằm trong tứ trụ vẫn bị loại trừ. Trong khi đó, các nhân sự từ ngành công an nội chính lại ngày càng có mặt nhiều hơn trong Bộ Chính trị và giữ vai trò chủ chốt ở nhiều tỉnh thành như hiện nay.
Như vậy, có thể nói, chiến dịch chống tham nhũng, dù mang lại hiệu ứng làm sạch bộ máy, cũng đồng thời dẫn đến việc tái cấu trúc cán cân quyền lực nghiêng hẳn về phía bảo thủ có bóng dáng tương tự như mô hình quản trị nội bộ của TC.
Về vai trò của quân đội và công an:
- Quân đội có truyền thống chống TC mạnh mẽ hơn do ảnh hưởng từ chiến tranh 2/1979, thường có lập trường cải cách, độc lập quốc phòng. Lãnh đạo quân đội có xu hướng ủng hộ hợp tác với phương Tây và mô hình tự chủ về công nghệ.
- Còn đối với công an, vì luôn gắn chặt với an ninh chính trị, kiểm soát thông tin, đào tạo theo mô hình TC cho nên, lực lượng này ngày càng có vai trò trung tâm trong đời sống chính trị có nhằm thắt chặt việc kiểm soát đời sống chính trị của người dân.
Và sự đối trọng giữa hai lực lượng này cũng là một phần quan trọng trong việc duy trì cân bằng nội bộ. Một điều đáng chú ý là, dù có sự khác biệt sâu sắc, các nhóm chính trị ở Việt Nam không đối đầu công khai mà cạnh tranh trong khuôn khổ “đồng thuận có kiểm soát”. Việc một số nhân sự cải cách tạm thời bị thất thế không có nghĩa là xu hướng cải cách bị chặn đứng hoàn toàn.
Trái lại, sự cạnh tranh giữa hai nhóm bảo thủ và cải cách, nếu được quản lý tốt không có các đột biến bất thường xảy ra, có thể tạo ra động lực đổi mới và điều chỉnh chính sách phù hợp hơn với bối cảnh quốc tế đang thay đổi hiện nay.
7. Thay lời kết
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn bản lề. Sự cạnh tranh chiến lược giữa hai siêu cường Mỹ - Trung không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để Việt Nam định hình lại bản lĩnh tự chủ và năng lực chiến lược của chính mình.
Việt Nam không thể phát triển bền vững nếu không cải cách thể chế, nâng cao năng lực quản trị và tăng cường nội lực công nghệ. Nhưng cũng không thể bảo vệ ổn định chính trị nếu bỏ qua các rủi ro từ việc chuyển hóa xã hội, từ mạng xã hội, từ tư tưởng cực đoan hoặc can thiệp mềm của các thế lực bên ngoài.
Việt Nam không thể chọn phe, nhưng bắt buộc phải chọn hướng đi. Và hướng đi ấy thiết nghĩ cần phải dựa trên ba trụ cột:
• Giáo dục và trí thức hóa xã hội.
• Cải cách thể chế theo khuynh hướng trọng pháp quyền, minh bạch và có trách nhiệm.
• Phát triển một nền kinh tế tự chủ về công nghệ và nhân lực.
Trong hành trình khẳng quyết chiến lược phát triển tự chủ, Việt Nam đã và đang vận dụng khéo léo tinh thần “cây tre”, mềm dẻo trong đối ngoại, nhưng “thiếu kiên cường” trong nguyên tắc vì đôi khi đi chệch hướng như chuyến viếng thăm vừa qua của Tập Cận Bình là một bước “faux pas” tồi tệ nhứt của Việt Nam, làm cho TT Trump nổi giận. Trong thế kỷ 21, thế lưỡng nan giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng không thể được lược giải bằng chọn một để chống lại một. Thay vào đó, Việt Nam cần:
• Giữ mối liên quan hữu nghị và hợp tác thiết thực với TC dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và bảo vệ chủ quyền.
• Thúc đẩy quan quan chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ dựa trên lợi ích phát triển bền vững, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường và tăng cường sức mạnh quốc gia.
• Giữ liên lạc mật thiết với các liên minh kinh tế, an ninh đa phương như CPTPP, IPEF, ASEAN+, QUAD+ hay Liên minh EVFTA, để tránh thế bị kềm kẹp song phương giữa Hoa Kỳ và TC.
• Tái định nghĩa lại “tự chủ chiến lược” không phải là trung lập thụ động, mà là chủ động định hình luật chơi và vị thế trong trật tự khu vực.
Việt Nam không cần phải chọn đứng hẳn về phía nào, nhưng phải chọn rõ cho mình một con đường, con đường phát triển độc lập, công bằng và nhân bản, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc trên mọi ràng buộc ý thức hệ hay sức ép của nước ngoài.
Mai Thanh Truyết
50 Năm Khát Vọng Tự Do
Houston – Tháng Tư 2025
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment