Sunday, May 11, 2025

Từ Nội Chiến Hoa Kỳ đến Cuộc chiến Việt Nam Bài học về thể chế, hòa giải và tương lai dân tộc Lời người viết: Bài viết dưới đây đã được manh nha từ rất lâu, có thể nói ngay từ những ngày đầu tiên người viết đặt chân đến đất nước tạm dung nầy. Gần đây, sau nhiều đêm không ngủ, mới quyết định viết nên những suy nghĩ rốt ráo trong bài viết. Kính mong độc giả đọc với một cõi lòng rộng mở, đứng trên mọi chánh liến, để soi rọi và hy vọng cho một tương lai Việt Nam tươi sáng hơn. Xin cảm ơn. Vào ngày mồng 9 tháng tư năm 1865, một cuộc đầu hàng vô tiền khoáng hậu xảy ra trong cuộc nội chiến Bắc – Nam ở Hoa Kỳ. • Một bên, quân đội miền Bắc chiến thắng do Tướng Ulysses Grant, chỉ huy trường; • Một bên, quân đội miền Nam chiến bại do tướng Robert E. Lee, người cầm đầu quân đội miền Nam. Đây không phải là một cuộc đầu hàng với bên chiến bại buông nộp súng và …đi “học tập cải tạo” và bên chiến thắng với những tiệc liên quan sau những trận đánh đẫm máu. Trong lịch sử hiện đại, cuộc nội chiến Nam – Bắc Hoa Kỳ (1861–1865) là một trong những bước ngoặt định hình vận mệnh không chỉ của nước Mỹ, mà còn để lại những bài học mang tính toàn cầu về quyền con người, thể chế dân chủ, đạo đức chính trị và hòa giải dân tộc. Khi nhìn lại con đường phát triển của Việt Nam sau năm 1975 – một quốc gia thống nhất về địa lý nhưng còn nhiều chia rẽ về tâm lý, thể chế và công lý – ta không thể không liên hệ đến những gì nước Mỹ đã trải qua hơn 160 năm trước. Cuộc đầu hàng diễn ra trong nước mắt, trong tình tự dân tộc, cả hai ông Tướng và quân đội hai bên gặp nhau với biên bản “đầu hàng” như sau: • 1. Không bị coi là phản quốc và không phải ở tù. • 2. Chính phủ coi binh lính miền Nam là những công dân bình thường nếu họ chấp hành tốt luật lệ. • 3. Được mang ngựa và lừa về nhà để giúp gia đình cày cấy vào mùa xuân. Và một mùa xuân dân tộc trong sự hòa giải hòa hợp…Từ đó Hoa Kỳ xóa tan vết thương chiến tranh chỉ trong một thời gian ngằn khoảng 10 năm sau đó và tiếp tục phát triển trong thịnh vượng. Cuối cùng là một cường quốc thế giới sau Đệ nhứt Thế chiến 1918. Nếu các Tướng CSBV và Đảng CSBV học được bài học của Tướng Grant, có lẽ nước Việt Nam thân yêu của chúng ta không đứng gần cuối bảng về NGHÈO-ĐÓI so với trên 200 quốc gia trên thế giới sau 50 năm “chiến thắng” và “thống nhứt” Đất và Nước! 1- Câu chuyện tại làng Appomattox Cách đây 160 năm, vào ngày 09/04/1865, Tướng Robert E. Lee của quân đội miền Nam đầu hàng Tướng Ulysses Grant của quân đội miền Bắc, đánh dấu kết thúc cuộc nội chiến Hoa Kỳ đã làm hơn 7 trăm ngàn người thiệt mạng. Sở dĩ gọi là chiến tranh Nam Bắc là vì cuộc chiến diễn ra giữa hai phe: phe miền Bắc (còn gọi là phe liên bang) đứng đầu là Tổng thống Lincoln chủ trương xóa bỏ buôn bán nô lệ người da đen và phe miền Nam chống lại chủ trương này. Cuộc chiến Nam Bắc của Mỹ thường được nhắc tới qua những trận đánh đẫm máu giữa quân đội của hai phe: quân miền Bắc do tướng Ulysses Simpson Grant chỉ huy và quân miền Nam do tướng Robert Edward Lee cầm đầu. Tuy tướng Lee đã nhiều lần tấn công và gây tổn thất khá nặng cho đội quân của tướng Grant nhưng quân miền Bắc được sự hỗ trợ to lớn từ ngân sách liên bang và chiêu mộ được thêm nhiều quân số từ những người nô lệ da đen vừa được giải phóng nên cuối cùng quân miền Nam của tướng Lee phải chấp nhận thua trận. Đã có những lời khuyên tướng Lee nên chia nhỏ quân của mình ra và tiến hành đánh du kích nhưng tướng Lee đã nói: “Nếu cứ tiếp tục chiến tranh gây bao chết chóc thì tội của tôi đáng chết gấp ngàn lần. Ông đã nhắn cho tướng Grant là ông chuẩn bị đầu hàng. Tướng Grant nhắn lại, đề nghị tướng Lee chọn địa điểm bàn thảo việc qui hàng. Và căn nhà của một người buôn bán tên là Wilmer Mc. Lean tại làng Appomattox đã được chọn. Ngày nay ngôi nhà này trở thành di tích lịch sử quốc gia, và được gọi là Appomattox Court House. Đến ngày hẹn, tướng Lee bận một bộ lễ phục mới tinh và đeo kiếm, còn tướng Grant xuất hiện muộn hơn trong bộ đồ tác chiến thường ngày còn dính bùn đất hành quân. Hai người ngồi trong phòng khách của ông Mc. Lean và hàn huyên thân mật về những kỷ niệm quân ngũ trong cuộc chiến tranh Mexico. Câu chuyện lâu đến nỗi tướng Lee sốt ruột, chủ động đề cập đến “mục đích buổi gặp gỡ của chúng ta ngày hôm nay là bàn về việc đầu hàng”. Tướng Grant bèn lấy cây bút chì và tờ giấy viết vội những điều khoản và trao cho tướng Lee, trong đó có những nội dung nói về binh lính miền Nam: Sau khi xem qua những điều tướng Grant vừa viết, tướng Lee nói: “Những điều này sẽ có tác động tốt đến quân sĩ của tôi. Chúng sẽ góp phần quan trọng trong việc hòa giải dân tộc chúng ta.” Tướng Lee cho biết ông sẽ trao trả những tù binh miền Bắc vì ông không có đủ lương thực cho họ. Tướng Grant đáp lại rằng ông sẽ gửi ngay cho binh lính miền Nam 25.000 phần lương thực khô. Ông cũng ra lệnh cho in 28.231 giấy phóng thích cho binh lính miền Nam. Khi nghe tin phe miền Nam đầu hàng bay đến doanh trại, quân miền Bắc định bắn đại pháo chào mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay lập tức các hoạt động ăn mừng. Ông nói với các sĩ quan dưới quyền:“Chiến tranh đã kết thúc. Giờ đây họ đã là đồng bào của chúng ta”. Ông cho rằng hai bên không còn là kẻ thù, và cách tốt đẹp nhất để bày tỏ niềm vui của miền Bắc là không vui mừng trước thất bại của miền Nam. Ngày 12 tháng 4 năm 1865, quân đội của tướng Lee tiến vào ngôi làng Appomattox để giao nộp vũ khí. Tướng Joshua L.Chamberlain của miền Bắc được chỉ định tiếp nhận binh sĩ quy hàng. Trước hàng quân miền Bắc nghiêm chỉnh, ông nhìn những binh sĩ miền Nam bại trận đi vào làng với cảm xúc dâng trào. Sau này ông viết lại: “Giây phút đó làm tôi thực sự xúc động. Tôi quyết định đánh dấu sự kiện này bằng một hành động, không gì khác hơn là giơ tay chào kiểu nhà binh. Tôi biết có người sẽ chỉ trích tôi về cử chỉ này. Tôi đã không xin phép và cũng không yêu cầu sự tha thứ về hành động này. Đối diện với chúng tôi là những chiến binh, bại trận nhưng can trường, là biểu tượng cho tinh thần trượng phu, không rã rời, không đau khổ, bất chấp hy sinh và không có gì khuất phục được họ. Giờ đây, họ là những người ốm yếu và đói khát, nhưng họ hiên ngang nhìn thẳng vào chúng tôi, làm sống dậy những ràng buộc thiêng liêng cao cả hơn bao giờ hết. Không có lý do gì để những đấng nam nhi ấy không được hội nhập vào Hợp Chủng Quốc vững vàng của chúng ta.” Sau đó tất cả hàng ngũ quân miền Bắc thắng trận từ đơn vị này đến đơn vị khác đều nghiêm chỉnh giơ tay chào kiểu nhà binh. Vị tướng dẫn đầu đoàn quân miền Nam đầu cúi xuống trong buồn bã, chợt nhận ra và ngồi thẳng lại trên lưng ngựa, giơ tay chào đáp lễ. Ông ra lệnh cho các đơn vị theo sau tuân theo nghi lễ quân sự khi đi ngang qua đoàn quân miền Bắc. Không có kèn thắng trận, không có tiếng trống, tiếng hô, tiếng reo hò mừng chiến thắng, không một lời nói hay tiếng xì xầm… Một sự im lặng đến nghẹt thở. Từ sáng sớm đến chiều tối, những người lính miền Nam đều giơ tay chào khi đi ngang qua hàng quân miền Bắc cũng đang giơ tay chào. Họ giao nộp vũ khí, những lá cờ trận rách tơi tả của miền Nam và trở về quê. Gần 100.000 quân miền Nam đã qui hàng ở làng Appomattox. Vài ngày sau tất cả rời khỏi nơi này, ngôi làng trở lại cuộc sống bình thường. Hàng năm, có khoảng 110.000 du khách đến thăm ngôi làng này. Các du khách đến đây để tìm nguồn cảm hứng, và câu chuyện các du khách muốn nghe không phải là trận đánh cuối cùng mà là sự hòa hợp của quốc gia và những điều khoản rộng rãi do tướng Grant đưa ra. Ông Ron Wilson, sử gia của Appomattox Court House nói: “Tướng Grant và tướng Lee có một tầm nhìn rất xa. Hai ông nhận thức rằng những nỗ lực hai bên cùng dồn vào cho cuộc chiến đã gây ra sự phân hóa khắc nghiệt trong bao năm qua, giờ đây cần phải được dùng để tái thiết quốc gia. Không cần phải có hận thù.” Nghĩa trang tử sĩ được Tổ quốc Ghi ơn của hai bên chiến thắng – chiến bại được chôn chung với hai lá cờ Bắc – Nam. Bài học nào cho CSBV đây, với hơn 45 năm qua mà vẫn còn…say men chiến thắng ngày 30/4 trên khắp nước, từ thủ đô đến thành phố, từ quận huyện đến xả ấp. Bao giờ CSBV mới hết ăn mừng chiến thắng để nhìn đất nước hôm nay tang thương hơn bao giờ hết? Tướng Lee và tướng Grant đã đi vào lịch sử như những huyền thoại. Nhưng đằng sau câu chuyện ở làng Appomattox là bàn tay đạo diễn của Tổng thống Abraham Lincoln, lẽ đương nhiên cũng là một nhân vật huyền thoại. Ông thường nói rằng ông mong muốn cuộc chiến kết thúc trong sự khoan dung. Ông Ron Wilson nói rằng Tổng thống Lincoln và tướng Grant đã gặp nhau hai tuần trước đó trên chiến hạm River Queen ở sông James. Họ đã thảo luận rất lâu về hình thức kết thúc chiến tranh và những xáo trộn có thể xảy ra trong thời kỳ hậu chiến. Tổng thống Lincoln đã nói với tướng Grant: “Hãy để họ buông súng một cách thoải mái”. (Sau chiến tranh, ngày 14/4/1865, tổng thống Lincoln bị ám sát, tướng Lee trở thành Viện trưởng của Đại học Washington, tướng Grant được bầu làm Tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ (1869-1877). Còn Việt Nam thì sao? Sau năm 1975, Việt Nam thống nhất về mặt địa lý, nhưng lại thiếu vắng sự hòa giải quốc gia, công lý lịch sử, và một thể chế bao dung. Nếu không nhìn lại và học hỏi từ lịch sử thế giới, dân tộc ta có thể sẽ tiếp tục trượt dài trong chia rẽ, trì trệ, và lỡ nhịp với thời đại. 2- Việt Nam 1954–1975: Nội chiến, xâm lược hay chiến tranh ủy nhiệm? Một câu hỏi quan trọng cần được đặt ra: Liệu cuộc chiến giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc) và Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam) từ 1954 đến 1975 có phải là một cuộc nội chiến? Có ba cách nhìn chính: • Quan điểm coi đó là nội chiến: Hai chính quyền đều tuyên bố đại diện hợp pháp cho toàn lãnh thổ Việt Nam. Chiến sự chủ yếu diễn ra giữa người Việt với nhau, trên đất Việt Nam. Nhiều sử gia quốc tế xếp cuộc chiến này vào nhóm các cuộc nội chiến mang tính ý thức hệ. • Quan điểm coi đó là cuộc chiến xâm lược:Theo phía Việt Nam Cộng Hòa và nhiều người Việt hải ngoại, đây là một cuộc xâm lăng do miền Bắc phát động với sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Cộng, áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên miền Nam tự do. Miền Nam có chính phủ, quân đội, được hơn 60 quốc gia công nhận và có quan hệ ngoại giao rộng rãi. • Quan điểm trung dung – chiến tranh ủy nhiệm: Nhiều học giả cho rằng đây là cuộc nội chiến có yếu tố ủy nhiệm giữa hai khối tư bản và cộng sản trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.Dù là người Việt đánh nhau, nhưng cuộc chiến bị quốc tế hóa bởi các siêu cường, khiến nó vừa mang bản chất nội chiến, vừa mang dấu ấn địa chính trị toàn cầu. Theo nhận định của TS Nguyễn Phương Mai, Sydney, Úc trong môt bài nghiên cứu về “Yếu tố nội chiến” có nêu lên như sau:” Yếu tố nội chiến. Hơn một nửa số người được phỏng vấn cho rằng cuộc chiến 1954-1975 là sự kết hợp giữa "chiến tranh ủy nhiệm" và "nội chiến" (hoặc "có yếu tố nội chiến"). Hai giai đoạn được nhấn mạnh là trước khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam và sau khi Mỹ rút quân, "hoàn toàn chỉ có người Việt trên chiến trường". Từ khóa "nội chiến" xuất hiện trong hơn 90% buổi chia sẻ. Một số lượng lớn nhân vật có xuất thân đảng viên, chính trị gia và quân nhân cho rằng việc chấp nhận "yếu tố nội chiến" là "chỉ dấu quan trọng nhất để có thể bắt đầu hòa giải một cách thực sự". "Nhà văn Nguyên Ngọc từng kể rằng, trong chiến tranh, ông Võ Chí Công lúc ấy là chính ủy quân khu, đã họp anh em thảo luận một ngày. Ông hỏi cuộc chiến này có phải nội chiến không. Đám cán bộ anh nào cũng lên gân: Ta đánh ngoại xâm, đám miền nam là tay sai. Ông Công nói: 'Theo tôi là có tính chất nội chiến'." Và TS NPM chia xẻ quan điểm về “yếu tố ủy nhiệm trong cuộc chiến Việt Nam như sau: “Cuộc chiến ủy nhiệm - "Có sự khác biệt rất lớn giữa nội chiến và cuộc chiến ủy nhiệm." "Nội chiến anh em đánh nhau xong là giảng hòa. Song phương. Chỉ có hai đứa." "Việt Nam ngày xưa rượt thằng Tàu cũng thế, thắng xong xin triều cống để giữ hòa khí. Không có bên thứ ba liên quan." "Nó rất khác với việc hai đứa vừa đánh lộn vừa có mấy thằng đứng sau dí dao đe dọa bắt phải chọn phe: 'Mày đánh thế này mới đúng. Bây giờ tao giúp mày khẩu súng, thắng rồi mày phải nghe lời tao'." "Đen đủi là lúc đó ta nằm ngay trung tâm của một cơn bão xoáy tư tưởng trên toàn cầu. Hai phe cộng sản và tư bản đánh nhau. Việt Nam, Lào, Campuchia, Triều Tiên-Hàn Quốc… đều trở thành chiến trường, trở thành quân tốt để Xô-Mỹ đối đầu." "Yếu tố nội chiến ở Việt Nam chỉ là hệ quả của cuộc chiến ủy nhiệm ấy." Miền Bắc là tiền đồn của chủ nghĩa xã hội, miền Nam là con đê chặn làn sóng đỏ chủ nghĩa cộng sản, ngăn không cho nó lan rộng ra châu Á." "Ý này cũng được ông Tô Lâm khẳng định trong bài phát biểu hôm 30/4/2025." Tóm lại, cho dù gọi là nội chiến hay chiến tranh ủy nhiệm, cuộc xung đột 1954–1975 vẫn là bi kịch của một dân tộc chia rẽ bởi ý thức hệ, nơi người Việt đánh người Việt, nhưng cái giá phải trả lại do toàn dân tộc gánh chịu. Đã đến lúc cần phải vượt lên tranh cãi ngôn từ, để cùng nhìn lại lịch sử bằng sự trung thực và hướng tới hòa giải và dân chủ hóa dân tộc. 3- Những bài học rút ra từ cuộc nội chiến Mỹ 3.1- Nền tảng đạo lý quốc gia - Quyền con người không thể thỏa hiệp Nội chiến Mỹ khởi phát từ mâu thuẫn không thể hòa giải giữa hai mô hình đạo lý: một bên ủng hộ chế độ nô lệ vì lợi ích kinh tế và truyền thống, một bên khẳng định quyền tự do và bình đẳng của con người là tối thượng.Abraham Lincoln từng nói: "Một quốc gia không thể tồn tại lâu dài nếu vừa chấp nhận nửa tự do, nửa nô lệ." Tại Việt Nam, sau năm 1975, thay vì thống nhất dân tộc trên cơ sở các giá trị phổ quát – tự do, nhân quyền, pháp trị, chính quyền lại duy trì phân biệt đối xử với hàng triệu người bị xem là "ngụy quân, ngụy quyền", cưỡng ép cải tạo, cướp đoạt tài sản, và cấm đoán tiếng nói độc lập. Điều này tạo ra một vết thương kéo dài hàng thế hệ. Bài học được rút ra là: Quốc gia không thể trường tồn nếu xây dựng trên nền móng đạo lý phân mảnh, nơi một bộ phận công dân bị tước đoạt quyền làm người vì lý do chính trị hay lịch sử. 3.2- Thể chế và khả năng tự thanh lọc - Cải cách hay là chết Nội chiến Mỹ không chỉ là xung đột vũ trang, mà là biểu hiện cuối cùng của một quá trình bất đồng không thể giải quyết bằng thể chế hiện hành. Sau chiến tranh, Hiến pháp Mỹ được bổ sung (Tu chính án 13, 14, 15) nhằm bảo đảm quyền bình đẳng cho người da màu và củng cố vai trò của liên bang. Thể chế Mỹ cho thấy khả năng tự điều chỉnh sâu sắc. Việt Nam, sau chiến thắng năm 1975, đã có cơ hội để tái định hình thể chế theo hướng dung hợp và cải cách. Tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra. Thay vào đó là sự củng cố độc quyền lãnh đạo của một đảng, loại bỏ tam quyền phân lập, kiểm soát tư pháp và triệt tiêu báo chí độc lập. Dù Đổi Mới 1986 mang lại tăng trưởng kinh tế, nhưng bản chất thể chế không thay đổi vì quyền lực vẫn tập trung, không có cơ chế kiểm soát nội bộ hữu hiệu như check – balance của Hoa Kỳ. Bài học được rút ra là: Một thể chế nếu không có cơ chế tự sửa lỗi sẽ lặp lại sai lầm, dẫn tới suy thoái đạo đức công vụ, tham nhũng tràn lan và khủng hoảng niềm tin xã hội. 3.3- Vai trò của lãnh đạo - Khi đạo đức chính trị là sức mạnh TT Abraham Lincoln không chọn con đường thỏa hiệp với chế độ nô lệ để giữ yên lòng dân miền Nam. Ông hiểu rằng một nền hòa bình dựa trên bất công chỉ là hòa bình giả tạo. Dù biết chiến tranh sẽ gây tổn thất, ông vẫn kiên quyết bảo vệ giá trị đạo lý, và chính điều đó đã tạo nên uy tín chính trị lâu dài. Trong khi đó, tại Việt Nam, lãnh đạo sau 1975 lại chọn con đường "thắng làm vua", chính sách học tập cải tạo, cải tạo công thương, và kiểm soát tư tưởng đều phản ảnh một tư duy chính trị dựa trên trừng phạt thay vì hoà giải. Không có lãnh đạo nào đứng lên để hóa giải hận thù, mời gọi trí thức miền Nam cùng tham gia xây dựng quốc gia. Bài học được rút ra là: Chính trị không thể chỉ dựa vào quyền lực, mà phải dựa vào đạo đức. Người lãnh đạo thực sự là người dám đối mặt với sự thật và đặt tương lai dân tộc lên trên lợi ích cá nhân hay phe nhóm. 3.4- Hòa giải và công lý sau chiến tranh - Không chỉ là tha thứ, mà là tái hội nhập Sau chiến thắng, TT Lincoln không trừng trị hàng loạt quan chức miền Nam. Thay vào đó, ông kêu gọi “không ác ý với ai, bác ái với tất cả” – nhằm đặt nền móng cho một nước Mỹ thống nhất. Dù Lincoln bị ám sát, nhưng chính sách hòa giải vẫn tiếp tục trong những thập niên sau. Tại Việt Nam, thay vì hòa giải, chính quyền lại thực hiện chính sách phân biệt lý lịch kéo dài, kiểm soát gắt gao dân miền Nam, thậm chí lưu truyền tâm lý hận thù trong sách giáo khoa và truyền thông. Điều này gây tổn thương tâm lý tập thể, làm chậm quá trình hội nhập quốc gia. Bài học được rút ra là: Hòa giải không thể chỉ tuyên bố; nó cần chính sách cụ thể để đưa tất cả người dân trong và ngoài nước, bất kể nguồn gốc, trở lại làm chủ đất nước thực sự, không phải là lời nói suông như CSBV tuyên truyền trong suốt 50 năm qua như “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. 3.5- Thống nhất thể chế chứ không chỉ địa lý Mỹ sau nội chiến đã thống nhất không chỉ lãnh thổ mà cả mô hình phát triển, dựa trên nền dân chủ, thị trường tự do, giáo dục và pháp quyền. Trong khi đó, Việt Nam dù thống nhất từ 1975, nhưng đến nay vẫn chia rẽ sâu sắc về mô hình phát triển, giá trị sống, và lòng tin vào thể chế. Miền Nam, nơi từng có báo chí tự do, đại học dân tộc, nhân bản, và khai phóng, pháp quyền tương đối. CSBV hoàn toàn cai trị và kiểm soát miền Nam khiến nơi nầy trở nên câm lặng trong một trật tự mới được họ áp đặt ngay từ những ngày đầu tiến chiếm trọn miền Nam. Bài học được rút ra là: Một quốc gia không thể thực sự thống nhất nếu không thống nhất được các giá trị nền tảng như tự do, pháp quyền, và nhân phẩm. Vì vậy, Việt Nam cần một cuộc thức tỉnh đạo lý. Việt Nam không cần lặp lại bi kịch máu lửa như Mỹ. Nhưng Việt Nam cần một cuộc tự chuyển hóa, một hành trình khai phóng từ bên trong đảng. Cần chấm dứt độc quyền chân lý, mở rộng không gian dân sự, và để mọi người dân bất kể quá khứ chính trị có quyền đóng góp. Muốn thế, cần: • Sửa lại sách giáo khoa để dạy hòa giải thay vì hận thù. • Trả lại quyền tự do báo chí và ngôn luận để xã hội đối thoại thay vì đồn đoán gây hoan mang cho người dân. • Tổ chức nhiều diễn đàn quốc gia về công lý, lịch sử đa chiều tạo cho người dân biết và không sợ phản biện ngược lại với chiều hướng, chính sách của đảng. • Cải cách thể chế theo hướng dân chủ hóa có kiểm soát được giới hạn ghi trong hiến pháp. Cuộc nội chiến Mỹ kết thúc bằng máu, nhưng mở ra cho … một nước Mỹ vỹ đại. Cuộc chiến Việt Nam kết thúc bằng “nhiều máu”, nhưng hiện đang đứng trước một ngã rẽ tương tự sau 50 năm dù muộn nhưng vẫn còn đủ thời gian để điều chỉnh, hoặc là cải cách để thống nhất thực sự, hoặc là tiếp tục tồn tại trong một hình thức thống nhất giả tạo. Một dân tộc có thể chia rẽ vì quá khứ, nhưng không thể chia rẽ mãi nếu muốn có tương lai chung. 4- Làm sao giải thích chiến tranh ủy nhiệm cho thế hệ sinh sau 1975? Đối với thế hệ trẻ Việt Nam sinh sau 1975, những người lớn lên trong hòa bình nhưng ít được tiếp cận thông tin đa chiều, khái niệm "chiến tranh ủy nhiệm" có thể xa lạ. Để giúp họ hiểu rõ, cần đặt cuộc chiến Việt Nam vào bối cảnh toàn cầu của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh Việt Nam không chỉ là xung đột nội bộ giữa hai miền, mà còn là một trong những mặt trận tiêu biểu của cuộc đối đầu giữa hai khối ý thức hệ toàn cầu: tư bản do Hoa Kỳ dẫn đầu, và cộng sản do Liên Xô và Trung Cộng hậu thuẫn. Cả hai bên đều đổ vào Việt Nam những nguồn lực khổng lồ, vũ khí, tiền bạc, cố vấn, binh sĩ chiến đấu và ảnh hưởng chính trị để bảo vệ tầm ảnh hưởng chiến lược của mỗi khối. Chúng ta có thể hình dung Việt Nam vào thời điểm nầy như một "sân bóng toàn cầu", nơi người Việt là cầu thủ nhưng chiến thuật, huấn luyện viên và luật chơi lại đến từ Washington, Moscow và Bắc Kinh. Người Việt cầm súng, nhưng không được toàn quyền quyết định vận mệnh của chính mình. Điều đáng buồn là dù chiến thắng hay thất bại, cái giá phải trả không nằm ở các siêu cường, mà nằm trên vai hàng triệu người dân Việt Nam, những người mất nhà cửa, sinh mạng, tương lai và cả quyền được nói lên sự thật về lịch sử. Việc giải thích trung thực và khách quan bản chất ủy nhiệm của cuộc chiến là điều kiện tiên quyết để thế hệ trẻ hiểu rằng, dân tộc Việt Nam không chỉ cần hòa bình, mà còn cần một nền độc lập thật sự, độc lập cả về chính trị, văn hóa lẫn suy nghĩ và ý thức về lịch sử dân tộc. 5- Kết luận Cuộc nội chiến Hoa Kỳ và cuộc chiến tranh Việt Nam đều để lại những vết thương sâu sắc trong lịch sử dân tộc mỗi nước. Tuy nhiên, cách mà hai quốc gia ứng xử với quá khứ đã dẫn đến những kết quả rất khác biệt trong hiện tại. Mỹ đã vượt lên sự chia rẽ dân tộc bằng một thể chế có khả năng tự điều chỉnh, bằng đạo đức chính trị của lãnh đạo, và bằng chính sách hòa giải có chiều sâu. Trong khi đó, Việt Nam sau 1975 đã bỏ lỡ cơ hội lịch sử để kiến tạo một thể chế bao dung và đồng thuận xã hội, thay vào đó là mô hình thống trị mang tính trừng phạt, kéo dài phân hóa trong lòng dân tộc trong suốt 50 năm qua. TS NPM nhận định:“ Những kẻ đứng sau hai anh em đánh nhau - Đúng là Mỹ chống lưng và kiểm soát chính quyền Sài Gòn. Nhưng Liên Xô và Trung Quốc cũng gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến miền Bắc Việt Nam." Nếu "Sài Gòn là con rối trong tay Mỹ thì Hà Nội cũng đâu thoát vòng kiềm tỏa của Xô, Trung?" "Nếu Mỹ có hơn 500.000 quân thì Trung Quốc cũng có 310.011 lính tại Việt Nam. Lính nhé, không phải chuyên gia. Thông tin này chỉ mới được tiết lộ gần đây trên báo chính thống. Lính Trung Quốc đã đánh 1.659 trận, chết gần 800 người [Vietnamnet ngày 20/4/2025, Sự giúp đỡ của Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước]. Khoảng 30 nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc vẫn còn ở Việt Nam. Và lãnh đạo Việt Nam vẫn hằng năm thắp hương đầy đủ." Rồi "chính họ đã ép Việt Nam làm cải cách ruộng đất, phản đối Việt Nam thống nhất, điều hướng Việt Nam phát triển kinh tế tập trung bao cấp, khiến hàng triệu người dân chết oan và đẩy lùi đất nước tụt hậu cho đến khi Liên Xô sụp đổ." Về cơ bản, "Mỹ-Trung-Xô đã dùng máu của người Đông Dương để đánh đối thủ. Thậm chí Mỹ và Trung Quốc còn đi đêm với nhau đến mức Lê Duẩn phải kêu lên rằng: 'Các đồng chí bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả giá với Mỹ'." "Tên gọi đúng bản chất nhất của cuộc chiến này phải là Cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai." "Ta phải xác định Việt Nam chỉ là một yếu tố trong trận đồ quốc tế." "Nếu chỉ là nội chiến thì hòa hợp dân tộc cũng nhanh thôi. Nhưng vì có bao nhiêu thế lực lớn đằng sau nên cứ bung bét mãi". "Nếu chúng ta còn tranh cãi, hận thù nhau về việc đó là 'nội chiến', 'kháng chiến chống Mỹ', hay 'cuộc chiến chống cộng' thì muôn đời ta không thể hòa hợp được. Bởi những cái tên đó đúng, nhưng chưa đủ. Nó không lột tả được gốc rễ của bất hòa chủ yếu đến từ bên ngoài." Vì vậy bài học cốt lõi cần rút ra là: một đất nước không thể phát triển bền vững nếu không có thể chế chính trị dung hợp, không có nền đạo lý chung làm điểm tựa, và không có tinh thần hòa giải thực chất sau chiến tranh. CSBV vô hình chung tạo ra hai “dân tộc”: dân tộc của “kẻ chiến thắng thống trị”, và dân tộc của “kẻ thua trận bị trị”. Chình vì vậy mà Việt Nam vẫn còn èo uột trong kinh tế, và không có thế đứng trên bình diện thế giới. Để hướng tới một tương lai chung, Việt Nam cần thực hiện một cuộc thức tỉnh đạo lý và tái lập nền tảng thể chế, không phải bằng thù hận hay phủ nhận quá khứ, mà bằng sự trung thực lịch sử, đối thoại xã hội, và cam kết xây dựng một quốc gia của tất cả người Việt, không phân biệt nguồn gốc hay lập trường chính trị. Thực hiện điều trên, người cộng sản Bắc Việt cần phải đủ can đảm để sám hối, cải sửa những sai lầm trong quá khứ hầu mong Việt Nam có thể chuyển mình theo chiều hướng dân chủ hóa đất nước trong những ngày sắp đến Mong lắm thay! Tương lai dân tộc không nằm trong sự lặp lại quá khứ, mà nằm trong khả năng học hỏi từ nó để làm khác đi, và làm tốt hơn. Mai Thanh Truyết Suy nghĩ về 50 Năm Khát Vọng Tự Do Houston – Tháng 5-2025

No comments:

Post a Comment