Thursday, February 27, 2025
Dân chủ hóa Việt Nam
Cộng sản Bắc Việt có thể thay đổi từ một chế độ
độc tài thành một thể chế dân chủ hay không?
Nghị quyết 36 ra đời từ năm 2004 và vừa qua, 2024, Nghị quyết 1336 lại xuất hiện nhằm mục tiêu mời gọi/ru ngủ người Việt hải ngoại về đóng góp/giúp nước... Chính TBT CS vừa nhắc đến thành phố Saigon mà vào thập niên 60 ở thế kỷ trước người dân Tân gia Ba mơ ước được sang Bịnh viện Chợ Rẫy để chữa bịnh...mà tại sao ngày nay, đại gia CSBV lại chạy qua Singapore để chữa bịnh? Nhắc nhở và ca ngợi Sài Gòn phải chăng là liều thuốc độc bọc đường cho một số nhẹ dạ ở hải ngoại... mơ ước trở về đóng góp? Xin đừng ảo tưởng!
Vì sao?
Việc Đảng Cộng sản Bắc Việt chuyển đổi từ một chế độ chuyên chính vô sản sang một thể chế dân chủ là một câu hỏi lớn, một tiến trình phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế và xã hội. Về lý thuyết, không có gì là không thể, nhưng thực tế sẽ phụ thuộc vào nhiều điều kiện.
1- Những yếu tố có thể thúc đẩy sự chuyển đổi
Áp lực từ bên trong, nếu nhu cầu dân chủ hóa đến từ người dân và trong nội bộ đảng gia tăng về sự chuyển hóa sang dân chủ… việc cải cách có thể diễn ra. Các thay đổi có thể bắt đầu từ việc mở rộng quyền tự do ngôn luận, thảo luận chính trị hai chiều trong nội bộ Đảng, hoặc cho phép các tổ chức chính trị ngoài Đảng hoạt động.
Còn áp lực từ bên ngoài do Việt Nam đang có nền kinh tế hội nhập sâu với thế giới, nếu các đối tác kinh tế lớn đặt điều kiện dân chủ hóa để tiếp tục hợp tác, có thể sẽ có những thay đổi dần dần. Tấm gương từ các nước khác như một số nước từng có hệ thống chính trị tương tự đã có sự chuyển đổi, như Đài Loan hay Hàn Quốc, cho thấy mô hình chuyển đổi ôn hòa là có thể xảy ra.
2- Những yếu tố cản trở dân chủ hóa của CSBV
2.1- Tính chính danh của Đảng: Đảng Cộng sản BV từ lâu đã khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, và việc chuyển đổi sang mô hình dân chủ sẽ ảnh hưởng đến quyền lực và quyền lợi của Đảng. Đo đó, với định kiến trên, CSBV khó có thể rũ bỏ giáo điều cố hữu dù đang bị nhiều sức ép của người dân trong nước và thế giới.
2.2- Lợi ích nhóm: Nhiều nhóm lợi ích có thể không muốn thay đổi vì họ đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại. Đang thừa hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi, đa số đảng viên cao cấp khó có thể từ bỏ … miếng ăn béo bở nầy.
2.3. Sự ổn định xã hội: Hiện tại, dưới mắt người CS, xã hội đang ổn định qua trên hàng triệu công an kềm kẹp 100 triệu người dân thì những thay đổi chính trị lớn có thể kéo theo bất ổn, điều mà nhà nước CS luôn muốn tránh.
3- Xác suất có thể xảy ra cuộc dân chủ hóa ở Việt Nam
Một sự chuyển đổi ngay lập tức hoặc hoàn toàn sang một thể chế dân chủ theo kiểu phương Tây là rất khó, nếu không nói là … vô vọng. Tuy nhiên, Việt Nam có thể đi theo hướng cải cách từng bước, mở rộng quyền tự do chính trị và dần dần phát triển một hệ thống có tính cạnh tranh hơn nhưng vẫn giữ được sự kiểm soát của Đảng trong một thời gian dài. Nói như thế có nghĩa là, CSBV thỉnh thoảng có thể mở một vài “nút nghẽn” cho người dân cảm thấy … họ đang dân chủ hóa nhằm hóa giải sự uất nghẹn do chuyên chính vô sản tạo ra!
Như vậy, có phải họ đang nghĩ theo não trạng là nếu thay đổi họ sẽ bị diệt hay bị trả thù như họ đã làm với Việt Nam Cộng Hòa ngay sau 30/4/1975?
Có thể có một bộ phận (lớn/nhỏ?) trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản BV lo sợ rằng nếu họ chấp nhận một sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ đa đảng, họ có thể đối mặt với nguy cơ bị trả thù hoặc bị loại bỏ, giống như cách mà họ đã làm đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975.
4- Những lý do có thể dẫn đến nỗi sợ dân chủ hóa
Nếu xét về quá trình lịch sử và tiền lệ của đảng CSBV, sau năm 1975, chính quyền mới đã có những biện pháp mạnh tay như cải tạo tư sản, trại cải tạo tập trung, tịch thu tài sản, đổi dân ra khỏi thành phố v.v… điều này có thể khiến một số người trong bộ máy lãnh đạo tin rằng nếu phe đối lập một khi có cơ hội nắm quyền, họ cũng có thể làm điều tương tự đối với Đảng Cộng sản BV.
Chúng ta thừa biết bản chất của quyền lực độc quyền của CSBV là khi một hệ thống chính trị được xây dựng trên sự kiểm soát tuyệt đối, sự thay đổi lớn có thể kéo theo nguy cơ mất quyền lực hoàn toàn. Các lãnh đạo có thể nghĩ rằng nếu họ mất quyền lực, họ sẽ không có sự bảo vệ và tự bảo vệ làm họ có thể bị trừng phạt vì những gì họ đã làm cho miền Nam trong quá khứ.
Thêm nữa, nỗi ám ảnh lo sợ về sự bất ổn và an toàn bản thân nếu hệ thống chính trị thay đổi đột ngột, có thể xảy ra hỗn loạn hoặc trả thù chính trị mà chính họ là những nạn nhân đầu tiên. Vì vậy, một số lãnh đạo có thể tin rằng cách duy nhất để bảo đảm sự ổn định là duy trì quyền kiểm soát chặt chẽ.
Tuy nhiên, không phải ai trong nội bộ lãnh đạo cũng nghĩ như vậy
• Cũng có những người trong hệ thống muốn cải cách dần dần để thích nghi với một xã hội hiện đại và hội nhập.
• Một số nước từng có chế độ độc đảng nhưng đã chuyển đổi thành công mà không có sự trả thù lớn, chẳng hạn như Đài Loan, nơi Quốc Dân Đảng dần dần chấp nhận dân chủ hóa mà không bị diệt vong.
• Nếu có một lộ trình chuyển đổi hợp lý và có sự vận động của quốc tế, bảo đảm sự an toàn cho giới lãnh đạo hiện tại, thì sự thay đổi có thể diễn ra một cách ôn hòa hơn.
5- Chuyển đổi tiệm tiến dân chủ hóa có thể có tính cách khả thi hơn cả không?
Quả thật vậy!
Nếu có một sự thay đổi đất nước, khả năng cao nhất là nó sẽ diễn ra theo cách tiệm tiến, từng bước một, thay vì một cuộc thay đổi đột ngột và toàn diện. Lý do:
- Giảm rủi ro bất ổn: Một sự thay đổi đột ngột có thể dẫn đến hỗn loạn, trong khi thay đổi dần dần giúp xã hội và bộ máy nhà nước thích nghi mà không gây cú sốc lớn.
- Giữ được sự kiểm soát nhất định: Đảng có thể thử nghiệm những cải cách chính trị từng bước, như mở rộng quyền tự do ngôn luận, cho phép cạnh tranh chính trị trong nội bộ, hoặc cho phép một số tổ chức chính trị không thuộc Đảng hoạt động nhưng vẫn trong khuôn khổ. Chấp nhận đa nguyên đa đảng.
- Học hỏi từ các nước khác: Các quốc gia như Đài Loan, Hàn Quốc đã chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ theo cách từng bước, tránh được xung đột lớn, và có phát triển theo chiều hướng bền vững và kinh tế tiến triển nhanh. Chỉ trong vòng 50 năm hai quốc gia trên đã nằm trong danh sách 20 quốc gia “giàu” trên thế giới
- Thay đổi tiệm tiến có thể là giảm nỗi sợ của giới lãnh đạo: Nếu có một cơ chế bảo đảm cho những người đang nắm quyền rằng họ sẽ không bị trả thù hay loại bỏ hoàn toàn, họ có thể sẵn sàng chấp nhận thay đổi hơn!
6- Tiến trình thay đổi tiệm tiến có thể diễn ra như thế nào?
• Giai đoạn 1: Mở rộng quyền tự do báo chí, giảm kiểm duyệt trên truyền thông, truyền thanh, truyền hình. “Cỡi trói” trên mạng lưới toàn cầu v.v…
• Giai đoạn 2: Cải cách hệ thống bầu cử trong nội bộ Đảng, có thể có nhiều ứng viên “độc lập và ngoài đảng” hơn.
• Giai đoạn 3: Cho phép tổ chức chính trị không thuộc Đảng tham gia vào một số lĩnh vực bắt đầu từ chuyên môn, khoa học kỹ thuật. Lần lần mở rộng sang lĩnh vực quản lý kinh tế, chính trị, cùng tham gia vào việc điều hành quốc gia.
• Giai đoạn 4: Tiến tới một hệ thống cạnh tranh chính trị thực sự nhưng vẫn bảo đảm tính ổn định xã hội.
Tất nhiên, trên đây chỉ là giả thuyết. Mọi chuyện còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, từ ý chí lãnh đạo, sức ép từ xã hội đến tình hình thế giới cũng như phản ứng cứng rắn và dứt khoát của nhóm bảo thủ trong đảng.
Có thể nói dù cho dân chủ hóa một cách tiệm tiến, nhóm bảo trủ trong đảng chắc chắn sẽ ngăn chặn lại vì họ nghĩ sẽ bị mất đặc quyền đặc lợi nếu chuyển sang dân chủ và nhân quyền?
Làm sao triệt tiêu được những nhóm có suy nghĩ nầy vì trong suốt chiều dài lịch sử Đảng CS Bắc Việt từ những năm 1930 trở đi, trong hiện tại thiết nghĩ những người CS giáo điều sẽ không “đầu hàng” và sẽ dứt khoát chống lại. Đặc biệt là những người đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại, sẽ là rào cản lớn đối với bất kỳ sự thay đổi nào. Họ chống lại cải cách vì lo sợ mất quyền lực, lợi ích kinh tế và sự an toàn cá nhân.
7- Làm sao để vô hiệu hóa hoặc vượt qua nhóm giáo điều bảo thủ nầy?
7.1- Tạo áp lực từ bên trong Đảng: Trong Đảng không chỉ có nhóm bảo thủ mà còn có những người muốn cải cách để thích nghi với một xã hội đang thay đổi. Một khi số người muốn cải cách tăng cao. Từ đó có thể tăng thêm sức ép, khóa tay, và áp đảo số bảo thủ giáo điều. Nếu nhóm cải cách có đủ sức mạnh, họ có thể dần dần làm suy yếu ảnh hưởng của phe bảo thủ bằng cách thúc đẩy các chính sách đổi mới từng bước.
7.2- Áp lực từ người dân và xã hội: Một khi dân trí ngày càng cao và xã hội ngày càng cởi mở hơn, áp lực lên giới cầm quyền cũng tăng. Nếu tầng lớp trung lưu, doanh nhân, trí thức cùng đòi hỏi thay đổi, nhóm bảo thủ sẽ khó có thể hoàn toàn phớt lờ. Mạng xã hội, và truyền thông quốc tế cũng có thể giúp tạo ra áp lực gián tiếp lên chính quyền.
7.3- Lợi ích kinh tế buộc phải cải cách: Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế. Nếu các nước đối tác (Mỹ, EU, Nhật...) gây sức ép, buộc Việt Nam phải cải cách chính trị để tiếp tục hưởng lợi kinh tế, điều này sẽ làm lung lay vị trí của nhóm bảo thủ. Một số doanh nghiệp trong nước cũng có thể ủng hộ cải cách vì họ muốn một môi trường kinh doanh minh bạch hơn, không đặt trọng tâm vào sự quen biết (quyền lực) và đúc lót.
7.4- Bảo đảm an ninh/an toàn cho nhóm bảo thủ nếu chấp nhận chuyển đổi
Một trong những lý do nhóm bảo thủ chống lại cải cách là họ sợ mất tất cả. Nếu có cơ chế đảm bảo an toàn cá nhân, tài sản, họ có thể chấp nhận và ít chống cự hơn. Điển hình là Đài Loan và Chile từng có những chính sách giúp giới cầm quyền cũ giữ lại một phần ảnh hưởng hoặc không bị truy tố sau khi chuyển đổi. Và cuối cùng giới nầy cũng sống trong xã hội an toàn trong những ngày cuối đời của họ!
7.5- Sử dụng chiến lược "chia để trị"
Nên nhớ, nhóm bảo thủ giáo điều không phải là một khối đồng nhất. Nếu có thể làm suy yếu họ bằng cách chia rẽ thành các phe nhóm nhỏ hơn (ví dụ: một số người có thể bị thuyết phục tham gia cải cách để giữ vị trí), thì sự kháng cự sẽ giảm lần lần và đi đến bị triệt tiêu.Hình ảnh TBT Nguyễn Phú Trọng đã được Tô Lâm “so kè” ... theo đuôi như kẻ thừa hành. Rốt cục rồi chính Tô Lăm du81t điểm NPT (?) và mỡ ra con đường cải cách theo ý ông ta.
8- Vậy có thể "triệt tiêu" hoàn toàn nhóm bảo thủ giáo điều cực đoan không?
"Triệt tiêu" theo nghĩa loại bỏ hoàn toàn có thể không khả thi và cũng có thể gây ra hỗn loạn. Tuy nhiên, có thể làm suy yếu ảnh hưởng của họ, cô lập họ dần dần, khiến họ không còn khả năng cản trở công cuộc cải cách.
Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự như Thánh Mahatma Gandhi trong việc kích động người dân không đóng thuế muối, hay những sự việc như đình công bãi thị, sinh viên học sinh bãi khóa không đến trường, công chức không làm việc, công nhân vệ sinh không hốt rác chỉ độ vài ngày thôi...Hình dung Hà Nội hay Saigon tràn ngập hàng chục ngàn tấc rác khắp nơi trong thành phố dưới mắt thế giới, câu hỏi được đặt ra là cuộc cách mạng VN có thể xảy ra dưới các hình thức kể trên hay không?
9- Những yếu tố có thể khiến cho tranh đấu bất tuân dân sự đạt hiệu quả
9.1- Sự bất mãn xã hội gia tăng: Nếu có một sự kiện lớn khiến người dân mất lòng tin vào chính quyền (như khủng hoảng kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, đàn áp thô bạo, nhứt là đàn áp tôn giáo…), thì khả năng người dân hưởng ứng một phong trào bất tuân dân sự sẽ cao hơn. Còn những yếu tố như ô nhiễm môi trường, đất đai bị tiếm dụng, giá cả sinh hoạt tăng cao có thể là chất xúc tác đẩy mạnh tiến trình tranh đấu mà thôi.
9.2- Tính tổ chức và lan tỏa: Phong trào bất tuân dân sự chỉ thành công nếu có sự tổ chức chặt chẽ và lan tỏa rộng. Nếu một nhóm nhỏ thực hiện, chính quyền có thể dễ dàng kiểm soát. Nhưng nếu nhiều tầng lớp xã hội cùng tham gia (học sinh, sinh viên, công nhân, doanh nghiệp…), áp lực sẽ rất lớn.
9.3- Sự ủng hộ của giới trí thức, doanh nhân, công nhân: Một cuộc đình công lớn trong ngành công nghiệp, bãi thị của giới thương gia, hoặc bãi khóa của sinh viên có thể gây ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế và đời sống hàng ngày. Yếu tố nầy có thể được xem như là một yếu tố quyết định vì sự phối hợp trên thể hiện mọi tầng lớp trong dân chúng, một sức mạnh tổng lực cho cuộc tranh đấu.
9.4- Tác động tâm lý: Nếu người dân thấy phong trào bất tuân dân sự có thể đạt được kết quả mà không cần bạo lực, họ sẽ có động lực tham gia nhiều hơn. Hiện nay, nhiều người còn mang tâm lý sợ hãi vì lo sợ bị đàn áp. Nhưng nếu có một phong trào được tổ chức rộng rãi, tập hợp đông đảo nhân sự tham gia, nỗi sợ hãi trên sẽ biến đi…
10- Những rào cản lớn đối với sự tranh đấu bất tuân dân sự ở Việt Nam
Sự kiểm soát chặt chẽ về anh ninh - chính trị của chính quyền: Chính quyền có kinh nghiệm đối phó với các phong trào phản kháng. Họ có thể nhanh chóng đàn áp, chia rẽ, hoặc vô hiệu hóa các cuộc đình công, bãi khóa bằng cách bắt giữ người tổ chức, tạo sức ép lên doanh nghiệp, trường học...Internet và truyền thông xã hội cũng bị kiểm soát, gây khó khăn cho việc lan truyền thông tin và tổ chức phong trào. Cộng thê, sự thụ động của dân chúng. Không phải ai cũng sẵn sàng tham gia một phong trào đòi thay đổi, vì nhiều người vẫn còn tâm lý "an phận" hoặc lo sợ bị trừng phạt". Nếu không có một sự kiện lớn gây chấn động xã hội, rất khó để huy động số đông cùng tham gia.
Kinh tế cá nhân bị ảnh hưởng: Nếu công nhân đình công, bãi thị kéo dài, họ cũng sẽ mất thu nhập, ảnh hưởng đến nồi cơm của gia đình họ. Đây là một lý do khiến nhiều người do dự khi tham gia. Nếu không có một nguồn hỗ trợ tài chính, phong trào dễ bị suy yếu. Nhiều người tin rằng dù bất mãn, nhưng hệ thống cầm quyền hiện tại chưa "đủ yếu để sụp đổ", nên họ không muốn mạo hiểm.
11- Kết luận: Bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam không?
- Có thể xảy ra, nhưng không dễ và cần một sự kiện đột biến lớn để kích hoạt.
- Nếu có đủ sự phẫn nộ xã hội, sự tổ chức chặt chẽ, và sự lan tỏa rộng rãi, một phong trào bất tuân dân sự có thể tạo áp lực rất lớn lên nhà cầm quyền.
- Tuy nhiên, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, khả năng đàn áp của cường quyền vẫn rất mạnh, và phong trào có thể bị dập tắt từ trong trứng nước.
Bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam trong điều kiện hiện tại (2025) nầy không?
Câu trả lời là có thể, nhưng không dễ dàng và cần nhiều điều kiện thuận lợi để có thể thành công.
• Bất tuân dân sự có thể xảy ra, nhưng chỉ khi có một sự kiện đủ lớn để kích hoạt sự phản kháng tập thể và một tổ chức đứng ra lãnh đạo phong trào.
• Nếu không có tổ chức và kế hoạch cụ thể, phong trào có thể bị dập tắt nhanh chóng.
• Hiện tại, phong trào bất tuân dân sự ở Việt Nam vẫn còn manh mún và chưa có đủ điều kiện để thành công.
Công cuộc dân chủ hóa Việt Nam vào thời điểm hiện tại là một câu hỏi lớn, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chính trị, xã hội, kinh tế và quốc tế. Dưới góc nhìn thực tế, có một số lý do khiến tiến trình này khó xảy ra ngay lập tức, nhưng cũng có những động lực có thể thúc đẩy thay đổi trong dài hạn.
Dân chủ hóa Việt Nam ngay lúc này là khó xảy ra vì hệ thống kiểm soát chính trị của cường quyền vẫn còn rất chặt chẽ và nền kinh tế tương đối đủ ổn định để duy trì tính chính danh của cường quyền. Tuy nhiên, trong dài hạn, sự phát triển công nghệ, áp lực từ xã hội và các yếu tố địa chính trị có thể thúc đẩy quá trình cải cách theo hướng mở hơn. Nếu có thay đổi, nó có thể diễn ra dần dần, dưới dạng các cải cách chính trị từng bước hơn là một cuộc chuyển đổi đột ngột.
Trừ phi có những đột biến trên thế giới như Trung Hoa cộng sản tan rã giống như Liên Xô năm 1991 vì một khủng hoảng nội tại của quốc gia nầy. Điều nầy có xảy ra vì Trung Cộng hiện đang trong tình trạng xâu xé nội bộ, và Tập Cận Bình hiện ở trong tư thế đối đầu trực diện với thành phần trẻ và sức khỏe không ổn định do bệnh hoạn, cộng thêm sức phẫn nộ của 600 triệu dân chúng đang sống trong tình trạng kinh tế đình trệ. Chính điều sau cùng sẽ là lò thuốc súng nổ chậm vì cuộc chiến kinh tế về “giá cả và thuế khóa” với Hoa Kỳ.
Tại sao chúng ta không có quyền mong ngày đó sớm xảy ra?
Mai Thanh Truyết
Con đường dân chủ hóa Việt Nam
Houston – 3/1/2025
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment