Saturday, May 20, 2023

 

Công hàm Phạm Văn Đồng & Thế trận Biển Đông – Phần I

                                                                                     


Sự việc Alliance for Việt Nam’s Democracy – Liên Minh Vì Dân Chủ Cho Việt Nam, có trụ sở ở Dallas, US, mang công hàm Phạm Văn Đồng ra Tòa án Quốc tế trong thời điểm hiện tại (2023) là một việc làm đúng lúc. Việt Nam cần phải bảo vệ Biển Đông nói riêng và đất nước nói chung phải hiểu rõ tham vọng và chiến lược xâm lăng của Trung cộng (TC), hiểu rõ lập trường của các thế lực ngoại quốc mà VN có thể nhờ cậy và nhất là sự điều hành bảo vệ đất nước của ĐCSBV. Tìm hiểu ba yếu tố của TC như: - Tham vọng đường lưỡi bò, - Chiến lược tiến chiếm Biển Đông, và – Tìm cách chia rẻ ASEAN; từ đó, toàn cảnh mối nguy bị xâm lăng mà dân tộc Việt Nam đang phải đối diện sẽ hiện rõ ra, đồng thời lối thoát cũng sẽ dễ thấy hơn cho chúng ta.

I. Âm mưu xâm lược của Trung cộng

1. Tham vọng đường lưỡi bò



Trong vài năm trở lại đây, Biển Đông bỗng trở nên quan trọng vì giàu tài nguyên hải sản, dầu khí và là hải lộ vận chuyển thiết yếu cho các nước trong vùng. Đối với Trung cộng, Biển Đông đặc biệt góp phần vào sự phát triển và còn trở nên không thể thiếu trên con đường đi tới ngôi vị cường quốc thế giới. Vì thế TC đã cả quyết tuyên bố tất cả vùng biển bên trong đường lưỡi bò, bao gồm các hải đảo, là ‘lợi ích cốt lõi’ của họ, với tổng diện tích bao trùm 80% Biển Đông.

Thoạt đầu khi TC trưng ra đường lưỡi bò thì tưởng chừng như chỉ là “tham vọng” và TC hoàn toàn không có khả năng đạt được mục tiêu. Nhưng nếu suy xét kỹ lưỡng thì có thể nhận ra âm mưu độc chiếm Biển Đông ẩn hiện trong mọi lãnh vực địa lý, ngoại giao, quân sự của họ và được tiến hành chậm rãi từng bước. Từ năm 1956 khi TC chiếm đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) tới nay, họ đã lợi dụng thời cơ từng bước lấn chiếm các hòn đảo ở Biển Đông mà kết quả là đã chiếm hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa và tới nay, đã kiểm soát ¾ khu vực Trường Sa! (theo nguồn tin của Philippines). Ngày nay TC càng tỏ ra ‘quyết đoán’ trong mọi lãnh vực quân sự, kinh tế, ngoại giao để xác định chủ quyền ‘không thể chối cãi’ của họ vùng lưỡi bò. Điều này chứng tỏ họ đang thực hiện kế hoạch bá quyền khu vực: họ muốn là cường quốc duy nhất trong vùng Biển Đông và biển Hoa Đông.

Vấn đề chủ quyền hay sở hữu các đảo nhỏ, bãi đá thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chưa bao giờ được phân định rõ ràng trên bản đồ các quốc gia lân cận trên bình diện quốc tế. Có lẽ vì các đảo quá nhỏ, không có nước ngọt, quá xa bờ hay dân cư không thể sinh sống nên không có mấy nước để ý chiếm đóng. Nhưng kể từ khi kinh tế TC và các nước trong vùng phát triển mạnh thì nhu cầu dầu khí trở nên yếu tố sống còn, mà Biển Đông lại có khối dự trữ lớn. Bỗng nhiên các hòn đảo nhỏ xíu ở Biển Đông trở nên quan trọng. Tuy nhiên đối với TC, Biển Đông còn mang 2 ý nghĩa quan trọng hơn:

  • Là con đường hàng hải vận chuyển đa số nguyên liệu sản xuất và hàng hóa cho nền kinh tế TC và bàn đạp đầu tiên cần phải chinh phục để trở thành một cường quốc biển.
  • Về quân sự, ý nghĩa chiến lược của việc chiếm hữu các hòn đảo ở Biển Đông là để đẩy lực lượng hải quân Mỹ ra khỏi khu vực, vì một khi TC xây dựng hàng loạt các cơ sở quân sự với các dàn hỏa tiễn chống hạm trên nhiều hòn đảo ở Biển Đông, thì hàng không mẫu hạm của Mỹ sẽ không dám mạo hiểm đi vào. Như thế là đã đẩy Mỹ ra khỏi khu vực và hải quân TC sẽ làm chủ tình hình.

Do cần thiết phải chinh phục Biển Đông nên TC đã bất chấp luật lệ quốc tế (UNCLOS-UN Convention on the Law of the Sea), ngang nhiên vẽ ra vùng lưỡi bò bao trùm toàn khu vực và dựa vào sức mạnh để lấn chiếm, hay nói cách khác TC chỉ dùng luật rừng. Đó là lý do tại sao TC luôn luôn tránh né các cuộc thảo luận quốc tế đa phương về Biển Đông để phân chia chủ quyền, thay vào đó họ khăng khăng lập trường đối thoại song phương; viện dẫn sự tranh chấp lãnh thổ là giữa TC với nước nào thì chỉ cần giải quyết riêng rẽ với nước đó. Bằng cách này, TC có thể dùng sức mạnh vượt trội của họ để lấn át đối phương.

Từ nhiều năm qua, ASEAN và Mỹ đã cố gắng lôi kéo TC vào bàn hội nghị đa phương để giải quyết vấn đề Biển Đông nhưng tới nay vẫn chưa có kết quả. Chủ đích của TC là mua thời gian để thực hiện công việc lấn chiếm từng bước, để đến khi, giả sử, nếu bị áp lực quốc tế tới mức bắt buộc phải ngồi vào bàn hội nghị đa phương thì quân đội TC đã có mặt trên hầu hết các hòn đảo, bãi đá ở Hoàng Sa, Trường Sa và hàng chục tàu hải giám TC ngang nhiên đi lại trên khắp vùng Biển Đông như vùng biển của họ, tới lúc này, thì dù có thương thảo cũng đã muộn, cuộc chiến cũng đã chấm dứt với toàn thể Biển Đông nằm gọn trong vòng kiểm soát của TC!

Khi đẩy được tàu chiến của Mỹ ra khỏi khu vực chưa hẳn là công việc đã hoàn tất vì Mỹ còn các mối liên minh quân sự, kinh tế với các nước trong vùng. Để loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi mọi lãnh vực, nếu đương đầu trực tiếp với Mỹ thì sẽ không phải là lựa chọn khôn ngoan, TC chọn phương pháp gián tiếp là nhắm vào các nước nhỏ lân bang, để dễ đè bẹp hơn. Vì khi đã làm chủ về lãnh hải, kinh tế vùng Biển Đông thì TC sẽ lợi dụng sức mạnh và ảnh hưởng của mình để áp lực những nước nhỏ phải từ bỏ liên minh với Mỹ. Khi Mỹ không thể liên minh với các nước trong khu vực thì coi như là sẽ mất dần ảnh hưởng và bị loại khỏi khu vực. Chiến thuật này cũng khá khả thi vì điển hình Úc hiện đang có giao thương kinh tế lớn lao với TC và do áp lực của TC, Mỹ đã không thể đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Úc được (chỉ được mượn tạm căn cứ quân sự của Úc thôi), cho dù Úc là đồng minh thân thiết nhất của Mỹ ở Á Châu.   

2. Chiến lược tiến chiếm Biển Đông của TC



Từ khi kinh tế TC đạt được vị thế thứ nhì thế giới sau Mỹ vào năm 2010, phong cách và lời ăn tiếng nói của lãnh đạo TC đã thay đổi dần sang thế đàn anh nước lớn, răn đe các nước nhỏ trong khu vực và không còn che dấu tham vọng trở thành cường quốc đứng đầu thế giới. Đối với khu vực Đông Nam Á, mưu đồ bá quyền được thực hiện dưới hình thức thực dân kinh tế với sự phụ họa của lực lượng hải quân đóng vai trò hăm dọa. Đầu tư ngoại quốc của TC chú trọng vào vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên như: ở Miến Điện với các loại quặng mỏ và đập thủy điện, hay Việt Nam với dự án Bauxite do Nguyễn Tấn Dũng phê chuẩn. Cách thức TC thực hiện các công trình khai thác tại ngoại quốc thường là dùng công nhân người Hoa (di dân sang) là chính. Phương cách này nhằm thỏa mãn hai mục tiêu là giải tỏa áp lực nạn nhân mãn trong nước và ‘cấy’ người để gây ảnh hưởng ở nước sở tại cho các nhu cầu về sau. Mặt khác, TC còn tìm cách đạt được những thỏa thuận thương mại có lợi để tiêu thụ hàng hóa thành phẩm từ TC bán sang. Đây là chính sách thực dân với chiếc áo mới nhưng cũng cùng mục đích cũ của chính sách thực dân là khai thác nguyên liệu sản xuất và bán lại thành phẩm. Những bước này là chính sách chung mà ta thấy TC áp dụng đối với tất cả các nước trên thế giới, ngay cả Mỹ! Riêng đối với VN thì, ngoài chuyện bị TC khai thác tài nguyên mọi mặt này, VN còn phải đối đầu với tham vọng chiếm hữu toàn vùng Biển Đông của TC.

Chiếm hữu Biển Đông là một chuyện không phải dễ dàng vì có sự hiện diện của Mỹ. Vì vậy TC đã phải ẩn mình một thời gian dài chuẩn bị để hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân, không quân và thành lập đội tàu tuần duyên hùng hậu cho kế hoạch lấn chiếm Biển Đông. Ngày nay, hải quân TC là đội hải quân mạnh nhất Châu Á và đang trên đường cạnh tranh với Mỹ. Cho dù với quân lực hùng mạnh nhưng giải pháp quân sự là giải pháp nguy hiểm, tốn kém và còn có thể gây hại cho nền kinh tế đang trên đường đi lên. Bằng một cách “giảo hoạt” hơn, chưa có tiền lệ, TC sử dụng lực lượng hải giám bán quân sự. Với phương cách này, TC tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với hải quân Mỹ mà vẫn có thể đạt mục tiêu. Bắt nguồn từ chủ trương của Mỹ là chỉ quan tâm vấn đề an ninh hàng hải, miễn là không có xung đột quân sự thì Mỹ sẽ không nhúng tay vào. Hay nói cách khác, TC dùng phương pháp bán dân sự sẽ dễ dàng gạt Mỹ ra khỏi các cuộc tranh chấp biển đảo, như trường hợp bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân vừa qua.

Âm mưu độc chiếm Biển Đông của TC qua chính sách biển bằng đường lối bán quân sự được thực hiện bằng chiến lược mà giới ngoại giao quốc tế thường gọi dưới tựa đề ‘chín con rồng khuấy động Biển Đông’. Chín con rồng là những lực lượng bán dân sự như bộ hải giám, bộ tuần duyên, biên giới, hải quan (kiểm soát tàu bè ra vào cảng), ngư chính hay các cơ phận tuần tiễu bờ biển của các tỉnh ven biển như Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam. Các bộ phận riêng lẻ này tự cho mình (hay có chỉ thị ngầm) quyền bảo vệ chủ quyền biển đảo mà không thông qua bộ ngoại giao trung ương. Mục đích của TC trong ý đồ này là để tránh bị quốc tế lên án về một kế hoạch có tính toán trong tham vọng bá quyền. Mặt khác, việc đối đầu với các nước yếu kém như Việt Nam hay Phi Luật Tân thì không cần đến tàu chiến quân sự mà chỉ với đội tàu hải giám hay lực lượng tuần duyên của một tỉnh là cũng dư sức lấn át.

Chiến lược sử dụng các loại tàu dân sự trong vấn đề tranh chấp còn được lồng với chiến thuật được đặt tên là ‘tằm ăn dâu’ (salami slicing); bằng cách giới hạn tầm mức tranh chấp ở phạm vi nhỏ và lấn chiếm từng miếng nhỏ một, với từng nước một. Cách này sẽ cho phép TC chủ động về địa điểm cũng như thời điểm gây hấn và tầm mức va chạm cũng có thể kiểm soát được để không lớn đến mức phải làm thế giới phải báo động. Chiến lược này chỉ có một khuyết điểm là phải mất thời gian dài mới chiếm trọn Biển Đông.

Thử điểm lại tiến trình xâm chiếm trong quá khứ để hiểu rõ chiến thuật này. Về vấn đề Hoàng Sa, TC đã chiếm Hoàng Sa từ năm 1974 từ VNCH; sau đó tiến hành bắt bớ và xua đuổi tàu ngư dân VN lai vãng gần vùng Hoàng Sa, từ dấu diếm (với sự đồng lõa của CSVN không dám nêu tên mà gọi là “tàu lạ”) tới công khai ra lệnh cấm như hiện nay; tới việc thành lập cái gọi là ‘thành phố Tam Sa’, đặt bản doanh quân sự và xây dựng cơ sở hành chính trên đảo Phú Lâm, và tới ngày nay quần đảo Hoàng Sa đã trở thành trung tâm hành chánh của ‘huyện Tam Sa’ với hàng ngàn quân lính (khoảng 6,000 binh lính) có mặt trên khắp các đảo. Một ví dụ khác với Phi Luật Tân, trong xung đột ở bãi cạn Scarborough năm 2012, TC đã chỉ điều tàu hải giám và tàu cá tới khu vực theo kiểu lấy thịt đè người để xác lập chủ quyền, sau vài tuần lễ căng thẳng giữa hai bên, lực lượng Phi Luật Tân yếu thế không thể ‘đuổi’ tàu hải giám và tàu cá TC ra khỏi khu vực nên đành phải rút lui, trong khi đó thì Mỹ không muốn can thiệp vào vì tầm mức xung đột chỉ ở hạng thấp, cho dù Phi có hiệp ước an ninh với Mỹ.

Về ngoại giao, TC cho in hình lưỡi bò vào thẻ thông hành, cho đấu thầu 9 lô dầu khí trong thềm lục địa của VN, nộp lên LHQ bản đồ lãnh hải tuyên bố chủ quyền toàn vùng lưỡi bò ở Biển Đông bao gồm các hải đảo, cho phép nhà cầm quyền đảo Hải Nam ‘chặn và lục soát tàu nước ngoài’ vùng Biển Đông.

Về kinh tế, TC còn dùng mãnh lực kinh tế mua chuộc vài nước trong khối ASEAN để tạo mối chia rẽ giữa các nước, ngăn cản sự kết hợp thành khối đoàn kết để đối đầu với họ, như thái độ thân TC của Cam Bốt và Thái Lan hiện nay.

Về quân sự, TC tiến hành các cuộc tập trận dưới nhiều hình thức để đe dọa các nước trong vùng, gia tăng ngân sách quốc phòng, sản xuất các loại tàu chiến và máy bay mới, gia tăng xây dựng hạm đội tàu hải giám, hoàn chỉnh chiến lược chống tiếp cận (anti-access) với mục đích đe dọa hạm đội Mỹ cũng như hải quân các nước lân cận.

TC đã và đang thành công với chiến lược lấn chiếm dưới hình thức bán quân sự này và một điều nguy hiểm hơn nữa là TC muốn biến vùng Biển Đông thành ‘vùng tranh chấp’, có nghĩa là vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của VN biến thành ‘vùng tranh chấp’ với TC! Điển hình trên các báo chí quốc tế và dư luận Mỹ hiện nay cũng đang bắt đầu xem vùng Biển Đông thuộc loại vùng tranh chấp chứ không phải vùng đặc quyền kinh thế của VN hay Phi Luật Tân theo tiêu chuẩn UNCLOS. Vì xem là vùng tranh chấp nên sự đòi hỏi chủ quyền toàn Biển Đông của TC cũng tự nhiên được chấp nhận và TC đi từ chỗ không có gì trở nên có phần chủ quyền phải được giải quyết. Cụ thể là: dư luận quốc tế đang đề nghị giải pháp cho Biển Đông là ‘cùng khai thác’ (joint management) khu vực tranh chấp, dĩ nhiên TC cũng có phần!

3. Tìm cách chia rẽ ASEAN

Chiến lược ‘tằm ăn dâu’ còn kèm theo một chi tiết khác là nguyên tắc ‘song phương’ mà TC luôn nhấn mạnh và cương quyết theo đuổi thay vì đa phương. Nhưng làm thế nào chủ động trong chủ trương song phương? Về tổ chức ASEAN, TC đã lợi dụng sự khác biệt quyền lợi giữa 10 nước thành viên để lôi kéo đồng minh. Trong chuyện Biển Đông, chỉ có 4 nước liên hệ có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai và Brunei; trong đó hai nước có phần bờ biển dài nhất là Việt Nam và Phi Luật Tân. VN và Phi là hai nước muốn đưa vấn đề tranh chấp Biển Đông ra bàn thảo ở hội nghị ASEAN hàng năm, nhưng TC đã dùng món mồi kinh tế để gây chia rẽ; như đã diễn ra vào năm 2012 ở Nam Vang dưới sự chủ tọa của Cam Bốt. Kết quả là quy tắc ứng xử COC vẫn chưa đạt tới và TC thoát khỏi việc phải đàm phán đa phương (với các nước ASEAN) về chuyện Biển Đông.


 Trong khi đó ở Biển Đông, TC thực hiện tấn công từng nước một để cô lập hóa sự kháng cự, như khi TC lấn chiếm Scarborough của Phi, chẳng nước nào trong ASEAN lên tiếng bênh vực vì không ai muốn bị rắc rối với TC trong giao thương kinh tế. Trường hợp tương tự cũng sẽ xảy nếu TC xâm lấn biển đảo của VN, sẽ chỉ có một mình VN phải tự phòng thủ. Chúng ta đã thấy chuyện nầy đã xảy ra từ năm 2014, từ khi TC cho đặt giàn khoan HD981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng như đánh chìm và cướp các tàu đánh cá Việt từ đó đến nay. TC đã lợi dụng từng khe hở giữa các nước ASEAN để gây chia rẽ dưới mọi hình thức.


No comments:

Post a Comment