Thân
chuyển một bài viết của tác giả Nguyễn Hoàng Quý về:
Chuyện ngôn ngữ chữ nghĩa
Sau 1975, ở miền Nam Việt Nam các Trung tâm Văn hóa ngoại quốc (Hoa Kỳ, Pháp, Ðức…) tại các thành phố lớn phải giải thể. Các trường Tây đóng cửa, học sinh vào học chương trình Việt của nhà nước mới. Nếu tính từ 1975 thì học sinh trường Pháp thời của người viết học trung học (Lasan Taberd, Marie Curie, Pétrus Ký ở Sài Gòn, Pellerin và Providence ở Huế, Lyceé Yersin, Couvent des Oiseaux (*) ở Ðà Lạt, Lyceé Pascal Ðà Nẵng…) lúc đó đang học lớp Terminale chuẩn bị thi Bac II (Baccalaureat II) tương đương Tú tài ở trường Việt nay đã gần 50 tuổi. (Sau 1975, chỉ còn trường dạy tiếng Pháp IDECAF ở Sài Gòn, việc học sinh ngữ ở các trường trung và đại học có Tiếng Pháp, tiếng Anh và Nga). Việc sử dụng tiếng Pháp hạn chế dần, nhất là không có cơ hội. Tuy nhiên, có một thực tế là những người Việt từ 70 tuổi trở lên đều có thói quen dùng một số từ tiếng Pháp được Việt hóa. Thậm chí, nếu nói tên tiếng Việt của từ đó sẽ có người không biết.
Bài viết này không có tham vọng nói đủ các từ được dùng từ lâu trong xã hội vì nhiều từ tiếng Việt đã được dùng theo thói quen, có nguồn gốc không chỉ tiếng Pháp mà có cả từ Hán Việt, từ tiếng Anh nhưng chỉ đề cập đến một số được nghe để bạn đọc “Mua vui cũng được một vài trống canh” (Nguyễn Du – Truyện Kiều).
Trong lãnh vực rau quả, dân Ðà Lạt (trên cao nguyên Lang Biang, nơi được bác sĩ Yersin tìm ra, người Việt gọi là cao nguyên Lâm Viên) quen dùng từ la ghim (legumes) để chỉ chung các loại rau. Sú hoặc bắp sú (choux), rốt hoặc cà rốt (carottes), sú lơ (choux en fleur), ba rô (poireau). (Người chuyển thêm vào Đậu Hòa Lan gọi là Bớ tý poa). Sau 1975, bắp sú được gọi thành bắp cải.
Trong lãnh vực giao thông, có từ nhà ga (xe lửa – gare), người lãnh đạo cao nhất của nhà ga là xếp ga (chef de gare). Từ chef này dùng rộng rãi để chỉ cấp trên (“xếp của tôi”). Nói về hàng hóa sản xuất trong ngoài nước, người ta không dùng các từ “nhập cảng” hay “nội địa” mà ưa dùng từ hàng rin (origine) hay hàng lô (local).
Thời VNCH, nhất là thời TT. Ngô Ðình Diệm, các bộ phận của xe đạp dùng tiếng Pháp được Việt hóa khá nhiều. Tay lái gọi là ghi đông (guidon), bộ truyền động gồm sên (chaines), nhông, đĩa, líp (rollipe) bây giờ gọi là xích, líp, đĩa. Ghế nhỏ phía sau yên chở hàng gọi là bọt ba ga (porte de bagages). Căm xe hồi đó gọi là ray dông (rayon), chắn bùn, chắn sên đều gọi là gạc đờ bu (garde de boue), gạc đờ sên (garde de chaine), bàn đạp thì gọi là bê đanh (pédale), thắng/ phanh xe (frein). Những từ này bây giờ không còn được nghe ở các tiệm sửa xe đạp như ngày xưa hoặc chỉ còn lại rất ít như vỏ ruột xe còn gọi là xăm lốp (chambre – có lẽ là buồng hơi, chứa khí) là ruột xe và lốp là envelope. Xe máy nổ thì còn dùng từ cạc bu ra tơ (carburateur – tức là bình xăng con hoặc bộ chế hòa khí), xú báp (soupape). Pít tông (piston), xy lanh (cyclin) Từ xú báp này được nói vui khi chỉ một việc làm giảm stress là “xả xú báp”!
Ðiều thú vị là những tay đua xe bây giờ truyền thông vẫn gọi là cua rơ (coureur).
Trong lãnh vực giao thông, từ được Việt hóa từ tiếng Pháp cũng khá nhiều: nhà ga, xe ba lua, ca nô (canoe), ô bo (hors bord), xe ca (car), xe buýt (bus). Thợ cơ khí gọi các cờ lê (clé) là chìa khóa (số 7, 8, 9, 10…) nhưng tuộc vít thì vẫn dùng từ tiếng Pháp (tourne vis). Tài xế hồi xưa gọi là sốp phơ (chauffeur) nay biến mất hẳn nhưng phụ xe thì còn dùng nhiều, nơi gọi là lơ (controleur – controller (tiếng Anh), cũng có nơi gọi là ét xe, có lẽ bắt nguồn từ động từ tiếng Pháp (aider- giúp đỡ).
Chuyện
Việt hóa từ tiếng ngoại quốc khiến tôi nhớ lại hồi 1968 ở Sài Gòn, khi ghé tiệm
bán đồ điện mua một “con chuột” cho bóng đèn néon, anh chủ không hiểu nói là ở
đây chỉ bán đồ điện chứ không bán thú vật! Tôi trả lời lại là tôi mua chuột cho
néon, anh ta biểu tôi tìm và chỉ cho anh thứ cần mua. Tôi tìm và chỉ, anh ngớ
người: “Bạn ơi món này ở đây gọi là công đăng xa tơ (condensateur) hay là tắc
te (starter)”. Hết biết!
Trước
1975, ngôn ngữ đá banh dùng nhiều, nay chỉ còn lưu lại ít từ, a ri e (arrière –
hậu vệ), cọt ne (corner – phạt góc), gôn (goal – tiếng Anh), ọt rơ (hors de jeu
– việt vị). (Trung phong – Avant centre, Hàng trung vệ/Tiếp ứng - Demi, Hàng Tiền
đạo – Avant).
Cao bồi
(cow boy), bà xơ (Soeur), phe (frère), xi nê (ciné), ô ten (ô teo – hotel), cà
phê (café), ba (bar – snack bar), rượu sâm banh (champagne), rượu uýt ki
(whiskey), bánh ba tê sô (paté chaud), bơ (beurre), phô mai (fromage), ô liu (olive),
xúc xích (saucisse), xì tin (style),
bi da (billard), xe ba lua (xe tải nặng – poids lourds). Culi (coolie), bít tết
(beefsteak), xà bong (savon), bót – bàn chải (bross), bia – lade (biere), ga
lăng (galant – nịnh đầm) là những từ dùng phổ biến đến ngày nay.
Tưởng cũng nên nhắc lại vài hàng về lịch sử đã dẫn đến việc Việt hóa này. Năm 1884, với hòa ước Giáp thân (Patenôtre), người Pháp đặt nền đô hộ trên toàn cõi Việt Nam, trong đó Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, quyền lực của triều đình Huế vẫn còn nhưng dưới sự chỉ huy của Pháp, Nam Kỳ là xứ thuộc địa (protectorat), Pháp cai trị hoàn toàn, coi toàn bộ Nam kỳ như một tỉnh của mình. Ðó là lý do vì sao Sài Gòn và Nam kỳ có nhiều người lấy quốc tịch Pháp và lý do vì sao nhiều từ tiếng Pháp được Việt hóa như đã bàn trên đây.
Sẽ là thiếu sót nếu nói chuyện chữ nghĩa, ngôn ngữ (nói và viết) mà không nhắc lại kỷ niệm một thời không mấy vui mà chắc chắn thế hệ 7x, 8x đến sau này, nếu nghe kể lại sẽ gọi là “chuyện hoang đường”. Chuyện là sau 1975, phong trào “Thực hiện trong sáng Việt ngữ” được phát động rầm rộ trên cả nước, từ Hán Việt được thay bằng từ thuần Việt. Rất nhiều từ, cụm từ được thay mới hoàn toàn lạ lẫm đối với dân miền Nam mà người viết không tiện viết ra, để độc giả tự tìm hiểu sẽ thú vị hơn. Bên cạnh đó, không hiểu sao có thêm một số từ mới được nghe ở các chợ trời ví dụ đồng hồ không người lái để chỉ đồng hồ automatic, cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc để chỉ cà phê phin (café filtre).
Qua thời gian, những từ nói trên tự động biến mất vì không thể áp đặt những tư tưởng bất cận nhân tình, những từ ngữ đã ăn sâu vào cuộc sống lên nhân dân vốn quen hưởng không khí phóng khoáng tự do nhờ hấp thụ văn hóa Ðông – Tây một thời gian dài, không thể đem văn hóa Trường Sơn áp đặt lên người dân mà level văn hóa cao hơn rất nhiều.
Thập niên 60 thế kỷ trước, chính quyền Ðệ nhị Cộng hòa ở MNVN – có lẽ vì tự ái dân tộc – cũng đã ra sắc lệnh Việt hóa tên các cơ quan, trường học (từ tên ngoại quốc thành tên tiếng Việt). Việc này được hưởng ứng sâu rộng. Do vậy, các “trường Tây” đổi thành tên Việt. Có thể kể, ở Ðà Lạt, Lycée Yersin đổi thành Trung tâm giáo dục Hùng Vương, Domaine de Marie thành Lãnh địa Ðức Bà, ở Ðà Nẵng trường Blaise Pascal thành Trung tâm giáo dục Nguyễn Hiền. Ở Huế, trường Pellerin thành Bình Linh, Providence thành Thiên Hựu...
Nhạc sĩ Phạm Duy trong bản “Tình ca” (bắt đầu bằng câu “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”) có một câu để đời, như một tiên tri: “Khóc cười theo vận nước nổi trôi”. Ðúng là người Việt “khóc cười theo vận nước nổi trôi” trong suốt dọc dài lịch sử từ thời Hùng Vương cho đến . . . không biết bao giờ! Mà thôi, lịch sử có những lý lẽ riêng của nó kể cả ngôn ngữ, được dùng nhiều sẽ thành phổ thông và xã hội chấp nhận. Không khen, không chê.
Nguyễn Hoàng Quý
(*)
Trường Jeanne d’Arc ở Huế, Regina Mundi, Regina Pacis Saigon & Domaine de
Marie, Couvent des Oiseaux Dalat đều do các soeurs điều hành, có nhiều soeurs dạy
ở trường, cũng như có nhiều thầy cô bên ngoài, người Việt lẫn Anh Mỹ Pháp dạy.
No comments:
Post a Comment