Xin
chuyển một bài viết hết sức giản dị nhưng rất chuyên sâu và thâm thúy của Huynh
Từ Chơn, một tín hữu Cao Đài về mối tương duyên độc đáo của hai nguồn ĐẠO.
***
Ẩn ý của
Chúa Jesus dưới ánh sáng của triết lý Cao Đài
Từ
Chơn
Kính
thưa quý đạo hữu, nhớ lại cách nay gần 96 năm, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã
giáng cơ dạy rằng "Đêm nay, 24 Décembre phải vui mầng vì là ngày của Ta xuống
trần dạy đạo bên Thái Tây". Nay mùa Giáng Sinh sắp trở lại trên toàn quả địa
cầu 68, kính mời quý vị cùng đọc lại đôi lời dạy quý báu của Ngài, qua lời của
Chúa Jesus, Giáo Chủ Thánh Giáo.
Khởi
Đã sắp
vào mùa Giáng Sinh 2020, tín đồ Cao Đài trên toàn thế giới cùng toàn thể nhân
loại vui mừng chào đón một ngày lễ lớn. Nhân dịp này nhớ lại, cũng vào một đêm
Giáng Sinh cách đây chín mươi sáu năm, Thượng Đế Chí Tôn (tín đồ Thiên Chúa gọi
là Đức Chúa Trời) đã giáng cơ tại một đất nước nhỏ bé là Việt Nam để tuyên bố
khởi đầu một kỷ nguyên mới: Tam Kỳ Phổ Độ.
Nhân kỷ
niệm này, xin mời quí vị đồng đạo cùng đọc lại một vài lời dạy của chúa Jesus,
bậc đại giáo chủ đã giáng phàm truyền giảng lời của Đức Chí Tôn ở đất nước
Israel, vốn cách xa Việt Nam ngàn dặm nhưng cũng có một lịch sử đầy sóng gió
tương tự.
Lời giảng
của chúa Jesus
Kể từ
lúc Chúa Jesus rời khỏi gia đình đi giảng đạo, Chúa đã thu mười hai môn đồ đầu
tiên, làm rất nhiều phép lạ, và chữa trị cho rất nhiều người bị bệnh nan y.
Chính vì thế, mà số tín đồ cũng như số người đi theo Ngài càng lúc càng đông.
Nhưng chính những lời giảng dạy của Ngài mới là nền tảng của một nền Tân Tôn
Giáo so với thời bấy giờ. Xin đương cử một số tiêu biểu.
*“Đừng chống cự kẻ hung dữ …”
“Đừng chống cự kẻ hung dữ ; nếu ai vả má bên
phải của ngươi, hãy đưa luôn má bên kia cho họ; nếu ai kiện ngươi muốn lấy chiếc
áo ngắn, hãy cho họ luôn chiếc áo dài; nếu ai muốn bắt ngươi đi bộ một dặm đường,
hãy đi hai dặm với họ …” (Tân Ước –
Matthew).
Về mặt
Thể Pháp Cao Đài, có thể hiểu đây là lời dạy về nguyên tắc bất bạo động, dùng
tình thương đối phó với hận thù. Trong lịch sử đầy sóng gió của quả địa cầu 68,
con người, vì cuộc sống, phải tranh dành liên tục nên xem trọng sức mạnh vật chất.
Bạo lực được đề cao là hệ quả tất yếu. Người ta sử dụng bạo lực hằng ngày. Kết
quả, nhân loại tạo ra một thế giới đầy bạo lực. Bạo lực không biết đến tình
thương và chỉ sinh ra đau khổ, mất mát.
Chúa Jesus dạy nguyên tắc
bất bạo động để lập lại sự cân bằng, để nhắc nhở con người điều họ vốn đã biết
nhưng không bao giờ thực hiện được. Cho đến
nay, hơn hai ngàn năm qua đi mà loài người vẫn chưa thực hiện được bài học bất
bạo động, trừ một vài cá nhân lẻ loi mà trong đó Thánh Mahatma Gandhi là một.
Thậm chí có người còn biến bạo lực thành một “học thuyết” nhằm cổ vũ cho tính
hung bạo của mình. Đại khái như là : Cần phải dùng bạo lực để trấn áp cái ác,
khi diệt hết cái ác rồi thì điều còn lại sẽ là cái thiện. Lý thuyết nghe rất hay, nhưng suy cho cùng thì họ chỉ mặc
một chiếc áo đẹp đẽ cho tính hung hăng của họ mà thôi. Rõ ràng, họ đã mắc sai lầm
nghiêm trọng! Bởi vì lịch sử loài người đã chứng minh rằng bạo lực không thể
tiêu diệt được cái ác, mà chỉ nuôi dưỡng thêm một cái ác mới – đó là cái-ác-diệt-cái-ác.
Chỉ khi nào số người làm điều thiện nhiều hơn số người làm điều ác (chứ không
phải người thiện diệt hết người ác!) thì điều ác mới không còn đất để phát
sinh. Vì thế, nghe và làm theo lời dạy của chúa Jesus là nuôi dưỡng, bổ sung điều
tốt đẹp, tạo ra càng ngày càng nhiều điều thiện trong xã hội.
Đối với
Bí Pháp Cao Đài, đưa má bên trái cho kẻ đã tát tôi vào má bên phải là một hành
động phi nhị nguyên. Hành động nhị nguyên thông thường là: trả
đủa kẻ đã tát mình bằng một hành động nào đó; tát lại hắn, chẳng hạn. Hành động
phi nhị nguyên là một hành động rất khó thực hiện. Bởi vì nếu tôi thật sự đưa
má bên trái cho kẻ đã tát tôi vào má bên phải; thì đó cũng lại là một hành động
nhị nguyên khác. Thực hiện lời Chúa dạy sát theo từng câu chữ chỉ mới làm trọn
phần Thể Pháp trong Cao Đài. Hiểu rõ lời dạy của Chúa để có được hành động phi
nhị nguyên mới trọn phần Bí Pháp trong Cao Đài. Thể Pháp và Bí Pháp sóng đôi
thì hành động mới tròn đầy, và sự tròn đầy sẽ tự thân hóa giải mọi niềm đau
nhân thế, đưa con người trở về vườn Eden hạnh phúc (thuật ngữ Cao Đài gọi là Cực
Lạc Thế Giới) .
Thế
nào là hành động phi nhị nguyên?
Xin kể
lại một câu chuyện đượm màu Thiền học trong những ngày mở đạo. Lúc bấy giờ,
ngoài các vị tiền bối được thiêng liêng chỉ định phò loan ra thì nhiều người
khác cũng lén cầu cơ, chấp bút. Điều đáng nói là cũng có các đấng giáng, thậm
chí có cả Đức Chí Tôn giáng cơ. Ngày 7/11/1933
trong một đàn cơ ở Phạm Nghiệp, Đức Hộ Pháp hỏi Đức Chí Tôn:
“Dạ thưa Thầy,con không biết tại sao
các nơi đều có cơ bút, mà mỗi lần đều xưng danh Thầy, không lẽ Thầy đến với cơ
bút ấy?”
Đức Chí Tôn trả lời:
“Thầy đã nói rằng duy có ngôi của Thầy
chúng nó không dám dựa, chớ danh Thầy nó được phép dùng. Nên Thầy đã dặn rằng đừng
nghe Cao Đài nơi này, Cao Đài nơi khác,
rồi tin theo mà thất thệ. ….”
Đức Hộ Pháp bạch:
“Dạ thưa Thầy, nói vậy Thầy không có đến
với cơ bút ấy?”
Đức Chí Tôn trả lời:
“Tắc, con tối trí quá!”
(Xin
phép được biên tập phần trích dẫn trên vài chỗ cho dễ hiểu – Nguyên văn trong
Thánh Ngôn Sưu Tập của Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng)
Xin
lưu ý câu trả lời cuối cùng của Đức Chí Tôn. Tại sao Đức Chí Tôn không khẳng định
hoặc phủ định mà lại trả lời bằng một câu chệch đi chỗ khác, thậm chí làm tối
nghĩa thêm? Tuyệt đối không có chuyện tránh né ở đây, bởi vì ở vị trí của Đức
Chí Tôn thì Ngài chẳng có việc gì phải tránh né. Nhưng khẳng định hay phủ định
là một trong hai mặt của nhị nguyên. Câu trả lời của Ngài đã đi ra ngoài vòng
nhị nguyên đối đãi: đó là một hành động phi nhị nguyên!
Dù thí
dụ như thế, nhưng hành động phi nhị nguyên không có công thức, không thể na ná,
giông giống với thí dụ đã nêu. Mỗi một
hành động phi nhị nguyên là cả một thế giới mới mẽ chưa từng có. Hành động phi
nhị nguyên chỉ phát sinh ở người nào đạt được sự thông suốt trong tư tưởng và
hiểu rõ ràng đôi đường thiện ác. Trong Cao Đài, một người học đạo muốn đạt được
sự thông suốt trong tư tưởng thì phải thể hiện đầy đủ Thể Pháp, nghĩa là phải
rèn luyện tam bửu không ngừng nghỉ trong cuộc sống. Có như thế thì Bí Pháp mới vận hành. Có như thế mới mong
có được hành động phi nhị nguyên - nói theo ngôn ngữ của người xưa là đắc đạo,
hay nói theo ngôn ngữ Cao Đài là hiệp một cùng Đức Chí Tôn.
*“ …
hãy yêu kẻ thù nghịch …”
“Ta nói cùng các ngươi rằng: hãy yêu kẻ thù
nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi …” (Tân Ước – Matthew).
Về mặt
Thể Pháp Cao Đài, đây là một lời dạy rất khó thực hiện. Bởi tình yêu là một
tình cảm rất đặc biệt. Không thể cưỡng ép bất cứ một ai yêu mến một người khác.
Nếu tôi yêu mến một người nào đó bởi vì Chúa đã dạy như thế, thì tình yêu mến
kia chẳng có giá trị gì! Đó chỉ là lừa dối chính mình và cả Chúa nữa! Yêu mến một
người đã khó, Chúa Jesus lại dạy rằng nên yêu thương kẻ thù nghịch của mình.
Đây là điều còn khó khăn hơn nữa!!
Có thể
lý giải rằng Chúa dạy như vậy là để bắt tôi suy nghĩ lại những tình cảm của
mình vốn vẫn phóng túng theo bản năng. Tôi chỉ yêu mến những gì đem lại lợi
ích, và ghét bỏ những gì gây tổn hại cho mình. Tình cảm này vô cùng tự nhiên và
không có gì đáng trách. Nhưng rồi lợi ích của người này lại là tổn hại của người
khác và cứ như thế nhân rộng ra mà thế giới trở nên xung khắc hằn thù. Phải
chăng còn một cách khác ngược lại với thói quen của tôi - ấy là làm theo lời
Chúa Jesus: yêu mến kẻ thù nghịch của mình -
để làm cho thế giới này bớt thù hận, thêm thương yêu, giúp nhân loại sống
hoà đồng hơn, có ý nghĩa hơn?
Yêu mến
kẻ thù nghịch của mình có vẻ rất khó thực hiện. May thay, vẫn có thể có hành động
này nếu xét lời dạy này dưới cái nhìn của Bí Pháp Cao Đài. Đối với Bí Pháp Cao
Đài, đây là một động tác tuyệt vời để từ thế giới nhị nguyên bước vào thế giới
nhất nguyên kỳ ảo. Muốn yêu mến kẻ thù nghịch với
mình thì phải hiểu rõ tình cảm thù hận và yêu thương chỉ là một.
Tại Đền Thánh Tây Ninh, đã có lời dạy của Đức Chí Tôn về điều này: hai bên cửa
vào Đền có tạc tượng Ông Thiện và Ông Ác, và chính giữa hai tượng này là Cân
Công Bình. Muốn bước vào Đền Thánh, tức là bước vào Bạch Ngọc Kinh tại thế phải
biết “cân” Thiện Ác cho bằng nhau. Hay nói khác đi, phải hiểu Thiện Ác vốn
không khác.
Tưởng cũng nên nhắc lại chuyện Ông Thiện,
Ông Ác để tiện tham khảo. Ông Thiện và Ông Ác vốn là hai hoàng tử (Tỳ Văn và Tỳ
Võ), con của một vị vua Ấn Độ. Ông Thiện tính tình hiền lành hay thương yêu
giúp đỡ mọi người; trái lại Ông Ác tính tình nóng nảy rất dễ nổi giận. Cũng
chính vì thế nên khi vua cha băng hà, vua cha nhường ngôi lại cho Ông Thiện.
Ông Ác biết được liền nổi giận vì cho rằng, với tính tình hiền lành như thế,
Ông Thiện sẽ không thể cai trị được dân trong nước. Thế nên Ông Ác đi tìm Ông
Thiện để bảo ông nhường ngôi lại cho mình.
Sợ nhường ngôi cho Ông Ác là trái với ý nguyện của cha, hơn nữa sợ Ông Ác sẽ
cai trị người dân quá hà khắc nên Ông Thiện bỏ trốn. Thấy thế, Ông Ác bèn đuổi
theo để giải thích. Đến một ghềnh đá cao, Ông Thiện sơ ý nên té xuống vực chết.
Ông Ác đến nơi, vô cùng hối hận nên cuối cùng cũng xuống tóc đi tu theo cha.
Câu
chuyện trên là một dẫn đạo cơ bản để người học đạo có cái nhìn chính xác về Thiện
Ác, Đúng Sai. Nếu Ông Thiện, Ông Ác là hai anh em ruột, thì Đúng Sai cũng xuất
phát từ một gốc là nhận thức của từng cá nhân. Ông Thiện có lý do để không nhường
ngôi lại cho em. Ông Ác cũng có lý do khi muốn dành lấy ngôi vua. Không thể nói
rằng ai đúng hơn ai. Nói rộng ra toàn thế gian này, thì Đúng Sai; Thiện Ác cũng
như thế. Cân Công Bình nằm giữa cửa vào Đền Thánh không có nghĩa là phải đong đếm
Thiện và Ác cho bằng nhau mà ngụ ý tư tưởng của mỗi con người gồm có hai thành
phần như thế. Không thể xóa bỏ bất cứ một thành phần nào vì chúng vốn là anh em
ruột. Từ cái nhìn đó người học đạo Cao Đài
sẽ quen dần với khái niệm Thiện là Ác hay Đúng là Sai . Thế rồi trong một tích tắc phù du nào đó trong đời, người tu học
sẽ bừng ngộ chân lý trong câu truyện Ông Thiện, Ông Ác kia; lúc đó mới có thể
yêu mến được kẻ thù nghịch một cách tự nhiên bằng tình cảm nồng nàn của mình chứ
không phải yêu vì Chúa Jesus đã dạy như thế. Có như vậy thì mới đúng là làm
theo lời Chúa Jesus dạy:
*“Ai
trong các ngươi là người vô tội …
“Bấy
giờ, các thầy thông giáo và người Pharisee dẫn lại cho chúa Jesus một người đàn
bà đã bị bắt đang khi phạm tội tà dâm; họ nói cùng Chúa rằng: Thưa Thầy, luật
Moses dạy rằng chúng ta phải ném đá những hạng người như vậy. Còn Thầy, Thầy
nghĩ sao? Chúa Jesus phán rằng: Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy ném đá
trước. Sau khi nghe lời này, mọi người lần lượt bỏ đi.” (Tân Ước – Jean).
Phải
xét bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ thì mới thấy hết ý nghĩa của câu truyện nói
trên. Thời nào cũng vậy, khi có một đấng cao trọng giáng thế thì loài người
luôn luôn gây ra đủ thứ thử thách khó khăn. Chuyện xưa vẫn kể rằng Phật Thích
Ca bị các giáo sĩ Bà La Môn vặn vẹo bắt bẻ không biết bao nhiêu lần. Chúa Jesus
cũng vậy. Cụ thể là người Pharisee. Đây là một hệ phái của người Do Thái xưa chủ
trương thực hành theo sát từng câu chữ trong cổ luật, cụ thể là luật Moses (Xin
đọc Cựu Ước). Nên biết rằng lúc bấy giờ số người tin tưởng Chúa Jesus rất đông
và mọi người đều xưng tụng Chúa Jesus là đấng Christ giáng sanh. Thế nên người
Pharisee lợi dụng câu truyện của người phụ nữ kia để tìm cách bắt bí Chúa
Jesus. Nếu Chúa Jesus đồng ý để họ ném đá người phụ nữ đến chết, thì Chúa cũng
chỉ là người bình thường như họ, không phải là đấng Christ. Nếu ngược lại thì
Chúa chống lại luật Moses, nghĩa là chống lại Đức Chúa Trời về mặt Đạo; về mặt
Đời là chống lại dân tộc Do Thái, đàng nào họ cũng có thể qui tội phạm luật cho
Chúa. Câu trả lời của Chúa Jesus vừa cứu được người phụ nữ đáng thương kia vừa
làm cho người Pharisee thất bại thảm hại trong âm mưu hãm hại Chúa. Cũng giống
như câu truyện kể ở phần trên, câu trả lời của Chúa không phải chỉ đơn giản là
một cách đối phó khéo léo; đó chính là một bài học về đạo pháp rất quí giá mà
Chúa Jesus muốn để lại cho loài người.
Dựa
vào triết lý Cao Đài, chúng ta có thể hiểu rõ bài học này hơn. Theo Cao Đài, phần
ý thức của con người là phần bán hữu hình (hai phần kia là phần xác thịt và
linh hồn). Ý thức hoạt động theo nguyên tắc của vũ trụ; ấy là: Vô cực sanh Thái
Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái
… Lưỡng Nghi chính là hai cực chấp nhận và phủ nhận của ý thức. Trong
tình trạng phân hai, nghĩa là chấp nhận và phủ nhận khác nhau, đối chọi nhau,
thì đó là cuộc đời với toàn thể những yếu tố sanh diệt, đau khổ, chết chóc …Nếu phủ nhận và chấp nhận là một – nói theo ngôn ngữ thiền
học cho chính xác hơn là “Nếu phủ nhận và chấp nhận chẳng phải hai mà cũng chẳng
phải một,” thì đó là trạng thái người tu học Cao Đài gọi là hiệp một với Đức Chí Tôn. Trong trạng
thái này, con người có những suy nghĩ, phán đoán thông suốt phi thường mà người
xưa gọi là đoạt Đạo, ngộ đạo, trí huệ đáo bỉ ngạn, thành Phật …vv.
Đức
Chúa Jesus đã dạy một bài học về Thái Cực. Lời Chúa phán khi ấy xuất phát từ trạng
thái Thái Cực, do đó đã thoát ra khỏi hai trạng thái phủ nhận và chấp nhận của
Lưỡng Nghi. Không chấp nhận mà cũng không phủ nhận luật Moses, lời Chúa đã ra
ngoài quĩ đạo của những hành vi tầm thường thế tục, nằm ngoài suy luận thông
thường của loài người.
Thế nhưng, cần phải xác định rõ một điều
để tránh ngộ nhận. Xin đừng cho rằng trạng thái không phân hai (Thái Cực) là tốt
hơn rồi phủ nhận trạng thái phân hai (Lưỡng Nghi), bởi vì hành vi phủ nhận đó
cũng chính là ý thức phân hai!! Ý thức phân hai thuộc về đời, cho nên rất cần
thiết trong đời sống thường nhật. Con người cần ý thức phân hai để bảo vệ xác
thân của mình. Ví dụ như tôi cần phải phân biệt rõ ràng điều
nào là nguy hiểm cho bản thân để tránh xa và ngược lại. Khi một xe tải đang tiến
thẳng đến chỗ tôi thì không cần thiết phải “dùng ý thức không phân hai”. Hay
khi bị tiêu chảy vì thức ăn nhiễm khuẩn thì một viên thuốc bao giờ cũng hay hơn
là “lý với lẽ”. Chỉ khi nào suy nghĩ đi vào chỗ cùng lý, thì Thái Cực mới là cứu
tinh đích thực.
*“Các
ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét. Vì các ngươi đoán xét người
ta thể nào thì họ cũng đoán xét lại thể ấy…
Sao
ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt
mình? Hỡi kẻ giả hình! Trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi, rồi mới thấy
rõ mà lấy cái rác ra khỏi mắt anh em mình được.” (Mathew)
Đây là
lời dạy thuộc về tâm pháp (hay Bí Pháp nếu dùng ngôn ngữ Cao Đài) của Chúa
Jesus. Trước khi bàn tiếp, thiển nghĩ nên định nghĩa lại danh từ Bí Pháp trong
Cao Đài để làm nền tảng cho những lý lẽ tiếp theo.
Bí
Pháp, theo nghĩa thường dùng từ trước đến nay, là những phương pháp đặc biệt
trong một tôn giáo nào đó, chỉ truyền riêng cho một số người nhất định nhằm đạt
mục đích của việc tu hành. Chẳng hạn như những phương pháp ngồi thiền, tịnh tâm
của các hệ phái Phật Giáo ở Tây Tạng hầu như chỉ truyền cho một số đệ tử đặc biệt.
Nếu hiểu
Bí Pháp theo nghĩa này, thì trong đạo Cao Đài không có “Bí Pháp”. Đức Hộ Pháp
nhiều lần nói rằng Đức Chí Tôn đã bày bửu pháp tại thế gian cho con cái của
Ngài tự do chọn lựa. Vấn đề chỉ là con cái của Ngài muốn nhìn thấy hay không mà
thôi. Trong những bài thuyết đạo của mình lúc còn tại thế, Đức Hộ Pháp đã chỉ dạy
rất cẩn thận về danh từ Bí Pháp. Ngài dạy rằng đây là điều quan trọng trong kiếp
tu hành và các tín đồ Cao Đài phải tìm tòi để hiểu rõ những ẩn ý trong lời dạy
của Ngài.
Danh từ
Bí Pháp trong Cao Đài không thể xác định bằng nghĩa đen của tự điển. Đây là một
cách dùng chữ đặc trưng của triết lý Cao Đài. Trước hết, Bí Pháp không tự thể
hiện mà thiếu Thể Pháp; nói cho rõ là khi
và chỉ khi Thể Pháp tồn tại thì mới có Bí
Pháp. Bí Pháp và Thể Pháp vốn là một-mà- hai-và-hai-mà-một. Vậy phải hiểu Thể
Pháp trước khi muốn hiểu Bí Pháp. Thể Pháp Cao Đài chính là những nghi thức tôn
giáo có thể nhìn thấy và thực hiện được. Nghi thức thờ phượng, kinh sách, giáo
luật … tất cả đều là Thể Pháp. Ngoài ra, Bí Pháp còn có ý nghĩa là nội dung của
một hình thức bất kỳ. Theo nghĩa này thì tất cả các lời dạy đạo của các đấng
thiêng liêng đều có nội dung - nghĩa là Bí Pháp. Bí Pháp có thể dễ hiểu; có thể
khó hiểu. Có thể nhìn thấy ngay; có thể cả đời cũng không nhìn thấy.
Khi một
tín đồ Cao Đài thực hiện bất kỳ một nghi lễ tôn giáo hằng ngày nào (nghĩa là Thể
Pháp) cũng là lúc Bí Pháp vận hành. Vì thế, quan niệm cho rằng khi nào thực hiện
xong phần Thể Pháp rồi mới vào Tịnh Thất để luyện Bí Pháp là không đúng. Thực sự
mà nói, vào Tịnh Thất thì điều kiện thể hiện Thể Pháp dễ dàng hơn lúc ở bên
ngoài. Trong Tịnh Thất người ta thu xếp sao cho môi trường yên tĩnh hơn, hạn chế
những ảnh hưởng của đời sống vật chất bên ngoài. Người học đạo chỉ còn tập
trung vào một chỗ duy nhất là vun bồi đời sống tâm linh.
Tuy
nhiên, những phương pháp các tín đồ thực hiện trong Tịnh Thất, nói cho cùng,
cũng là vẫn là Thể Pháp. Những phương pháp ấy vẫn còn liên quan đến phần nhục
thân, nghĩa là phần hữu hình có thể sờ mó ngắm nhìn … Bí Pháp là phần nằm ngoài
suy luận bàng bạc quyện theo Thể Pháp. Khi Thể Pháp được thực hiện đúng mức thì
Bí Pháp vận hành bên trong người học đạo và chỉ có duy nhất bản thân người ấy
nhận biết điều này.
Bây giờ
xin trở lại lời Chúa Jesus dạy: đừng phán đoán người; mà hãy phán đoán bản thân
mình trước. Đây chính là một pháp môn (cách tu tập) mà triết lý Đông Phương gọi
là “quán tâm”. Thông thường, tâm lý con người là thích nhận xét về người khác.
Những nhận xét ấy đa số là nói về khuyết điểm; nếu có nói về ưu điểm đi nữa thì
cũng chỉ là gượng ép. Đây là bản chất tự nhiên của loài người. Để tự vệ, ý thức
con người luôn luôn phóng ngoại, truy tìm những yếu tố tiềm ẩn sự nguy hiểm cho
bản thân mình. Nếu phát hiện điều gì có thể ảnh hưởng xấu đến bản thân, ý thức
sẽ tìm phương né tránh, chống đỡ hoặc tấn công đối tượng. Có thể thấy rõ điều
này qua các mối giao tiếp của con người trong xã hội hoặc một phóng ảnh của xã
hội là thế giới hiện nay. Người ta lo sợ một ngày kia, ngoại bang sẽ xâm chiếm
nước mình, chiếm đoạt tất cả những của cải tài nguyên của dân tộc mình, do đó
người ta lập ra quân đội. Và theo “cái-gọi-là-binh-pháp” thì: tấn công là cách
phòng thủ hay nhất(!).Cho nên, người ta
đem bom đạn ném xuống đất nước của người khác; không đợi đến khi bị tấn công!
Thử tưởng tượng một chút, nếu tất cả các quốc gia trên thế giới này đều có khả
năng tấn công quân sự như nhau và đồng loạt áp dụng cái tư tưởng binh pháp quái
đản kia, thì quả địa cầu 68 này sẽ ra sao?
Chúa
Jesus dạy phải làm ngược lại điều đó; nghĩa là phải tự nhìn lại bản thân, tự nhận
xét bản thân thay vì bươi móc những khuyết điểm của người khác. Khi nhìn ra
mình cũng có những khuyết tật tâm hồn như bao người thì cõi lòng sẽ mở rộng, dễ
tha thứ. Những tình cảm tích cực, đẹp đẽ tích lũy trong tâm hồn ngày một nhiều
sẽ giúp cho con người sống có ý nghĩa. Thế giới sẽ bớt phần bạo tàn, địa cầu 68
sẽ chuyển hóa thành một thế giới khác đáng sống hơn nhiều. Vậy, hãy nghe lời
chúa Jesus “lấy cây đà trong mắt mình để
thấy rõ hơn trước khi lấy rác trong mắt anh em mình”.
Thúc
Những
lời dạy của chúa Jesus, cũng như các vị giáo chủ khác như Đức Phật Thích Ca, Đức
Lão Tử vv … luôn chứa đựng những ý nghĩa sâu xa. Nếu dùng thuật ngữ của Cao Đài
thì: lời của các bậc giáo chủ dạy luôn hàm chứa Bí Pháp. Vấn đề của tín đồ Cao
Đài hiện nay, thiết nghĩ, nên tập trung tìm học những ý nghĩa của triết lý mênh
mông trong Cao Đài Giáo, rồi đem ra thực hành trong đời sống thường ngày. Mong
sao qua đó Đức Chí Tôn thương tình ban ân cho trí não được phát triển phần nào.
Tóm lại, hãy lo lấy cây đà trong mắt mình, đừng bận tâm đến “ông này tu thiệt,
bà kia tu giả, tôi tu đúng, anh tu sai nữa”. Bởi vì một kiếp người suy ra vô
cùng ngắn ngủi, có khi chưa kịp làm được chút gì thì đã phải phủi tay!
TỪ
CHƠN
Sài
gòn, Giáng Sinh 2007
Bản
revised Giáng Sinh 2020
No comments:
Post a Comment