Thursday, August 21, 2025
An ninh Sinh học Toàn cầu
Chuẩn bị Cho Đại dịch kế tiếp: WHO, GERM
COVID-19, do virus SARS-CoV-2 gây ra, được ghi nhận và báo cáo lần đầu tiên tại Phòng Thí nghiệm Sinh học Wuhan, Trung Cộng, vào tháng 12 năm 2019. Virus sau đó đã lan rộng ra toàn cầu, dẫn đến đại dịch COVID-19. Chợ hải sản Hoa Nam ở Wuhan được coi là trung tâm chấn đoán đầu tiên của đại dịch, nhưng sau đó đã được chứng mình là virus phát tán từ “bên trong” Phòng thí nghiệm. Đại dịch do sự lây lan của virus đã ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới.
Đại dịch COVID-19 là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng cho nhân loại. Hơn 6 triệu người chết, kinh tế toàn cầu suy sụp, chuỗi cung ứng tê liệt, y tế quá tải, và lòng tin công dân vào nhà nước lung lay. Nhưng nếu cho rằng cơn ác mộng này đã qua, chúng ta đang tự trấn an mình trong ảo tưởng.
Xin thưa, cơn ác mộng Covid Wuhan chưa kết thúc. Dịch bệnh mới là định kỳ, không còn là một ngoại lệ.
Trong thế giới toàn cầu hóa, với giao thông dày đặc trên bộ, sông ngòi, đại dương, đường hàng không, cộng thêm sự biến đổi khí hậu, và buôn bán động vật hoang dã, các đại dịch trong tương lai gần như là điều chắc chắn sẽ xảy ra.
Vấn đề còn lại là chúng ta có chuẩn bị gì không?
1- WHO - Trung tâm y tế toàn cầu, nhưng bị trói tay
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trực thuộc Liên Hiệp Quốc, là định chế cao nhất về y tế công cộng toàn cầu. Vai trò của WHO gồm: - Cảnh báo dịch bệnh (như SARS, Zika, COVID-19); - Đưa ra hướng dẫn y tế toàn cầu; - Phối hợp vaccine, dược phẩm, và phản ứng kỹ thuật tại các nước nhược tiểu.
Tuy nhiên, WHO chỉ có “tư cách” khuyến cáo, nhưng không có quyền lực ràng buộc như không thể buộc một quốc gia nào phải khai báo dịch, không thể cưỡng chế chính sách y tế, và bị lệ thuộc tài chính vào các quốc gia và nhà tài trợ tư nhân.
Điều sau nầy dễ bị ảnh hưởng nghị trình do ảnh hưởng của những nhà tài trợ lớn!
Trong đại dịch COVID-19, WHO bị chỉ trích vì phản ứng chậm với Trung Cộng, cũng như có thuyết âm mưu liên quan đến Ông TGĐ WHO có dự phần vào “việc phát tán” Coronavirus đi khắp thế giới qua hành động quá chậm trễ trong việc cung cấp dữ kiện khoa học công khai cho toàn thế giới lúc đầu.
2- Sáng kiến Ứng phó và Huy động Dịch bệnh toàn cầu - GERM: Một quân đội y tế cho thế giới?
Trước thực tế WHO bị hạn chế, Bill Gates đề nghị một sáng kiến mang tính cấp bách qua phát biểu và thành lập:“Chúng ta cần một đội quân phòng vệ sinh học toàn cầu, được huấn luyện, tài trợ, và luôn ở tư thế sẵn sàng.” Đó là GERM – Global Epidemic Response and Mobilization team.
Nhiệm vụ của GERM
• Một đội 3.000 chuyên gia liên ngành: dịch tễ, mô hình, truyền thông, hậu cần (logistics).
• Giám sát dữ liệu dịch bệnh toàn cầu 24/7 (thông qua AI, vệ tinh, hệ thống cảnh báo trên toàn thế giới).
• Khi có dấu hiệu nguy cơ, GERM sẽ kích hoạt phản ứng nhanh: cách ly, xét nghiệm, phân phối thiết bị và khuyến nghị chính phủ hành động.
Tổ chức của GERM
• Không thuộc riêng WHO hay bất kỳ quốc gia nào.
• Cần ngân sách khoảng 1 tỷ USD/năm, hoạt động độc lập.
• Có thể phối hợp với dân quân y viện, hệ thống viện trợ y tế nhân đạo, CDC của các quốc gia.
Đây không chỉ là mô hình y tế toàn cầu, mà là cấu trúc phòng thủ sinh học toàn cầu lần đầu tiên có tính định chế.
3- Những thách thức và rào cản của GERM
Dù là ý tưởng mang tính bộc phát do một tỷ phú gợi ý, GERM và các sáng kiến tương tự đang đối mặt với nhiều rào cản:
• Liệu các nước có cho phép một đội y tế toàn cầu can thiệp vào nội bộ của chính quốc? Nhất là trong các quốc gia độc tài, đóng cửa, hay dễ tổn thương chính trị.
• Ai sẽ tài trợ 1 tỷ USD/năm cho một đội không trực thuộc quốc gia? Và do ai(?) điều hành?
• Khi các nước còn chưa bảo đảm y tế cho dân mình, liệu họ có sẵn sàng đầu tư vào một hình thức “bảo hiểm” quốc tế?
• Từ COVID-19, nhiều nơi bùng phát thuyết âm mưu, chống vaccine, chống WHO, gây phân hóa xã hội, đã tạo ra sự nghi ngờ và niềm tin vào khoa học và các định chế quốc tế.
Vì vậy, bất kỳ sáng kiến nào như GERM cũng cần truyền thông minh bạch, hướng dẫn bởi những nhà khoa học có uy tín trên thế giới, không thể do một “quyền lực mềm” nào đó áp đặt.
4- Bài học từ COVID-19: Đầu tư y tế công không còn là lựa chọn
Đại dịch COVID-19 cho thấy, những quốc gia có hệ thống y tế cộng đồng vững mạnh (như Hàn Quốc, New Zealand) phản ứng tốt hơn. Sự phối hợp toàn cầu (vaccine COVAX, chia xẻ dữ liệu dịch tễ) là vũ khí quan trọng hơn cả vũ khí quân sự.
Qua kinh nghiệm trên, An ninh sinh học giờ đây quan trọng không kém an ninh quốc phòng. Nhưng có khác với quân đội, là lực lượng này cần được huấn luyện không phải để đánh chiếm, mà là để cứu người.
5- Kết luận: Sống chung với dịch, nhưng không đầu hàng số phận
Chúng ta không thể ngăn hoàn toàn đại dịch, nhưng có thể giảm thiểu thiệt hại, ngăn dịch nhỏ thành đại dịch. Điều này đòi hỏi, một định chế toàn cầu mạnh mẽ hơn WHO hiện nay. Những sáng kiến như GERM sẽ là một bước tiến đáng kể trong việc phòng bị và ngăn ngừa, và giảm thiểu thiệt hại nếu có được thể chế hóa, minh bạch và có một ban giám sát vô tư và khách quan.
Thế kỷ 21 có thể là thế kỷ của dịch bệnh, hoặc là thế kỷ của hợp tác y tế toàn cầu để bảo vệ sự sống. Sự lựa chọn nằm trong tay chúng ta, bắt đầu từ hôm nay, không phải chờ khi một dịch bịnh mới tới.
Nên nhớ, Phòng Thí nghiệm Sinh học Wuhan vẫn còn đó, “con siêu vi khuẩn Covid” phát xuất từ nơi nầy dù vô tình hay cố ý, vẫn còn nằm trong thuyết âm mưu?
Một đại dịch toàn cầu do một âm mưu thâm độc nào đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong giai đoạn toàn thế giới đang đảo điên hiện tại, sáng kiến thành lập tổ chức “Ứng phó và Huy động Dịch bệnh toàn cầu” là thích hợp và cần thiết ngay từ lúc nầy.
Mai Thanh Truyết
Houston-Tháng 8-2025
Tuesday, August 19, 2025
Triết lý Vô Thường trong đời sống hiện tại ở Việt Nam – Phần V
Câu hỏi được đặt ra làm tiền đề cho bài viết là, nếu ứng dụng triết lý vô thường vào giáo dục đạo đức, sinh thái học, hoặc đời sống hiện đại ở Việt Nam... có thích hợp với hiện trạng xã hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa không?
Đây là một câu hỏi rất sắc bén và quan trọng, bởi vì nó đòi hỏi phải soi chiếu một triết lý văn hóa và tâm linh truyền thống (vô thường) vào một xã hội hiện đại hóa dưới hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa với nhiều mâu thuẫn nội tại và ngoại tại. Muốn trả lời rốt ráo câu hỏi: “triết lý vô thường có thể ứng dụng được vào giáo dục đạo đức, sinh thái học và đời sống hiện đại ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa không”, thiết nghĩ chúng ta cần tách bạch và thêm một “vế phụ” vào câu hỏi. Đó là “trong điều kiện xã hội đó chấp nhận một quá trình “tự tỉnh” và “tự chuyển hóa” về văn hóa và chính sách”.
1- Triết lý vô thường là một lối vào cho sự tỉnh thức.
Nếu được hiểu và xử dụng đúng, có thể trở thành một phương tiện giáo dục sâu sắc và không đối đầu, vì nó không lên án mà chỉ ra quy luật tự nhiên, khơi dậy nơi con người sự tỉnh thức từ bên trong, chứ không ép buộc từ bên ngoài.
Vô thường mang tính triết lý sống mềm dẻo, từ bi, rất phù hợp với nền văn hóa Việt đã quen với cách "luồn lách" và "ẩn nhẫn" trong hoàn cảnh chính trị phức tạp của đặc quyền đặc lợi của xã hội chủ nghĩa.
Do đó, dù sống trong một xã hội còn đầy áp lực tư tưởng, vô thường vẫn có thể đi vào giáo dục và đời sống như một hình thức "đạo lý nhân sinh" hơn là một hệ tư tưởng đối kháng. Và có lẽ, cũng chính vì tính vô thường vô hình chung đã thấm vào lòng dân tộc, vì thế cho nên .. sẽ rất khó, sẽ rất khó để xóa đi sự “trói buộc” của xã hội chủ nghĩa hiện tại ở Việt Nam. Và sự chuyển hóa của Đất và Nước có thể xảy ra, nhưng rất chậm!
2- Triết lý vô thường ứng dụng vào giáo dục đạo đức
Xã hội Việt Nam hiện nay đang khủng hoảng giá trị đạo đức, nhất là ở giới trẻ sống thực dụng, vô cảm, đua chen vật chất. Triết lý vô thường giúp giáo dục lòng vị tha, buông bỏ, tỉnh thức trước danh lợi, mà không cần những giáo điều khô cứng.
Việt Nam có thể đưa triết lý Vô thường vào chương trình giáo dục như là một cung cách sống văn minh hiện đại qua những kỹ năng sống có văn hóa, có đạo đức như một hình thức công dân giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa.
Dạy học sinh, sinh viên hiểu rằng: “Thành công không mãi mãi – Thất bại cũng không vĩnh viễn – Trong cuộc sống, nên học cách sống sâu sắc, nhân hậu và biết ơn.”
Tuy nhiên, nhìn về giáo dục xhcn hiện nay đang còn nặng về khuôn mẫu ý thức hệ, ít không gian cho tư duy phản tỉnh. Quả thật rất khó để con người “hấp thụ và tiêu hóa” được triết lý Vô thường!
3- Vô thường trong tình trạng môi trường sống hiện tại ở Việt Nam
Cũng cần nên biết, Vô thường nhấn mạnh rằng thiên nhiên luôn biến đổi, nếu con người can thiệp quá mức, sẽ gây mất cân bằng, khổ đau cho thiên nhiên. Phải hiểu rằng, đây chính là nền tảng của sinh thái học sâu (deep ecology) của thiên nhiên, con người không là trung tâm, mà chỉ là một phần của vòng sinh – diệt của trời đất.
Hiện tại. thực trạng môi trường Việt Nam rất tệ hại. Việt Nam đang bị suy thoái môi trường nghiêm trọng qua ô nhiễm không khí, rác thải nhựa, mất rừng, ngập lụt đô thị… Chính sách phát triển của nhà cầm quyền nhiều khi coi thiên nhiên là tài nguyên để khai thác, chứ không phải là một hệ sinh thái hài hòa. Chính vì vậy, mà chúng ta có thể xem đất nước đang trải qua những cơn “bất thường”, rất khó cho triết lý Vô thường chen chân vào!
Chính vì vậy, cần phải khai triển triết lý Vô thường trong lòng dân tộc trong lúc nầy.
Vì sao?
Vì chúng ta không dễ thay đổi hệ thống kinh tế, chính trị, và cả chế độ. Vì vậy, nên cần thay đổi nhận thức trước. Đây là một cuộc chiến tâm linh, không tiếng súng giữa dân tộc và cường quyền.
Dạy cho học sinh, sinh viên, công chúng hiểu rằng, nếu không tôn trọng vô thường thì giới hạn sinh thái học sâu (deep ecology) của chúng ta sẽ bị vô thường trừng phạt bằng thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng sinh học.
(Sinh thái học sâu là một triết lý và phong trào xã hội thách thức quan điểm lấy con người làm trung tâm về môi trường. Nó nhấn mạnh giá trị nội tại của tất cả các sinh vật sống và sự kết nối của mọi sự sống, ủng hộ sự thay đổi trong nhận thức của con người và cấu trúc xã hội để ưu tiên phúc lợi sinh thái. Sinh thái học sâu không chỉ là một lý thuyết về môi trường; nó là lời kêu gọi một sự chuyển đổi căn bản trong cách con người liên hệ với nhau trong hành tinh nầy.)
Nhiều người trẻ ở Việt Nam bị stress, trầm cảm, có nếp sống vô nghĩa vì bị kẹp giữa áp lực kinh tế, lối sống công nghiệp hóa, thiếu định hướng tinh thần. Thêm nữa, xã hội chủ nghĩa hiện nay không cung cấp được một hệ giá trị nhân văn đủ sâu nhằm bù đắp sự khủng hoảng trên, một khi chủ nghĩa Mác – Lênin đã đánh mất tính hấp dẫn tinh thần của người dân.
Vì vậy, Vô thường sẽ là lời giải cho Việt Nam hiện tại.
Vô thường không dạy người ta đầu hàng, mà dạy buông bỏ những gì không thật, sống với cái gì đang có, biết trân quý hiện tại.
Vô thường có thể kết hợp với thiền, chánh niệm, tinh giản hóa lối sống (minimalism) vốn đang lan rộng trong giới trẻ Việt Nam qua các mạng xã hội.
Vô thường sẽ là lời giải cho cuộc xung đột tiềm ẩn, chia cách dân tộc qua chủ thuyết xã hội chủ nghĩa Marxist-Leninist vốn đặt nặng “biến đổi xã hội”, “xây dựng chủ nghĩa cộng sản hoàn hảo” tức là theo đuổi một lý tưởng bất biến. Điều này mâu thuẫn với tinh thần vô thường, vốn coi mọi hệ thống, kể cả bộ máy nhà nước hay đảng phái, cũng chỉ là tạm bợ, phải thay đổi theo quy luật thời gian.
Nếu chúng ta biết vận dụng vô thường triệt để, sẽ đi đến chỗ phê phán mô hình hiện tại, chấp nhận thay đổi, điều này có thể bị coi là đe dọa ổn định tư tưởng dưới cặp mắt của những đệ tử Mác Lê.
4- Kết luận
Triết lý vô thường, nếu được ứng dụng một cách khéo léo, văn hóa hóa và phi chính trị hóa, hoàn toàn có thể trở thành một công cụ giáo dục đạo đức, sinh thái và tinh thần rất hữu hiệu trong xã hội Việt Nam hiện tại kể cả trong môi trường xã hội chủ nghĩa hiện tại.
Triết lý vô thường, nếu đi vào học đường và cộng đồng với ngôn ngữ văn hóa – đạo đức – sinh thái – nghệ thuật, sẽ không làm đối đầu mà còn giúp hàn gắn xã hội, nâng cao phẩm chất sống, và phục hồi chiều sâu văn hóa Việt Nam.
Vô thường có thể được “đóng gói lại” như một triết lý đạo đức – nhân sinh – thẩm mỹ, tránh khía cạnh chính trị, để tránh bị đàn áp do cường quyền vì không đối đầu.
Vô thường cũng có thể dùng như một “liều thuốc mềm” để nuôi dưỡng sự tỉnh thức âm thầm trong lòng xã hội, chờ ngày trưởng thành và cùng đồng tâm chuyển hóa những con người khô cằn, cứng ngắt trong văn hóa xã hội chủ nghĩa’.
Tuổi trẻ Việt Nam hiện tại cần Sống chậm – Sống sâu – Sống hiểu.
Mai Thanh Truyết
Đường về chân tâm
Houston – Tháng 8-2025
Thursday, August 14, 2025
Vô thường trong Cộng đồng Việt – Phần IV
Trong văn hóa Á Đông, đặc biệt là Phật giáo và tư tưởng Nhật Bản, khái niệm vô thường (無常 – mujō) biểu hiện cho một chân lý sâu sắc: mọi sự vật hiện tượng đều biến đổi không ngừng, không có gì trường tồn vĩnh viễn. Ở phương Đông, vô thường thường được tiếp cận như một sự tỉnh thức nội tâm, dẫn đến thái độ buông xả, an trú trong hiện tại.
Nhưng khi đưa khái niệm này vào xã hội Mỹ, một nơi sôi động, thực dụng, đổi mới liên tục và đề cao bản ngã cá nhân, liệu vô thường có còn “sống được”?
Hay nó chỉ là một triết lý mơ hồ, đối lập với thực tiễn phương Tây?
Câu trả lời, không nằm ở sự xung đột, mà ở sự chuyển hóa sâu sắc của khái niệm vô thường, phù hợp với tinh thần thời đại.
Đối với cộng đồng Việt ở hải ngoại, với nhịp sống năng động, xã hội chạy theo kim đồng hồ, chính vì thế mà người Việt ít có thì giờ để cảm nhận được … vô thường. Nhứt là tuổi trẻ, thiết nghĩ họ cũng không nghĩ đến từ ngữ vô thường, thậm chí không hình dung được vô thường là gì?
Càng chạy đua với cuốc sống, áp lực (strees) càng đè nặng lên con người. Vì vậy, đôi khi dừng lại một chút, nói đến vô thường, khơi dậy vô thường để từ đó…khơi dậy ý thức về sự biến đổi, vô thường của cuộc sống để nuôi dưỡng tinh thần thích nghi, khiêm tốn, nhân ái và bảo vệ môi trường.
Thiết nghĩ, cũng cần tích hợp triết lý vô thường như một hạt nhân đạo đức, tâm lý, sinh thái học, tránh giáo điều, không đối kháng hệ tư tưởng hiện hành. Và từ đó góp phần làm giàu bản sắc văn hóa Việt, kết nối với truyền thống Phật giáo dân tộc và hướng đến phát triển bền vững.
Làm sao nghĩ về Vô thường - Mujõ ở một xã hội năng động như ở Hoa Kỳ?
Triết lý vô thường (無常 – mujō trong tiếng Nhật, anicca trong Pāli, và vô thường trong Hán Việt) vốn được xem như là một chân lý trung tâm trong Phật giáo và nhiều truyền thống Đông phương. Nhưng khi đặt trong bối cảnh một xã hội năng động, thực dụng và hướng ngoại như Hoa Kỳ, cần nên có cách tiếp cận linh hoạt và đa chiều hơn. Dưới đây là một số cách để nghĩ và sống với vô thường trong xã hội Mỹ hiện đại.
Vô thường như động lực thay đổi, không phải chấp nhận hay cam chịu: Ở xã hội phương Tây, nhất là Mỹ, sự thay đổi thường được nhìn như cơ hội. Cũng vậy, vô thường có thể được hiểu không chỉ là sự "mất mát" hay "tan biến", mà còn là sự chuyển hóa từ thất bại đến thành công, từ nghèo đói đến sung túc, từ bệnh tật đến hồi phục. Trong môi trường kinh doanh hoặc khởi nghiệp, vô thường có thể được nhìn như: ”Không có gì là vĩnh viễn – vì vậy hãy tiếp tục lặp lại” - "Nothing is permanent – so keep iterating!".
Một người Mỹ có thể nhìn vô thường như một nguyên lý để không tự mãn với thành công cũng như không tuyệt vọng khi thất bại. Vô thường sẽ hỗ trợ thái độ “tư duy phát triền” - “growth mindset” như… tôi có thể thay đổi, vì vạn vật đều đang thay đổi.
Vô thường giúp nhân thân kháng lại chủ nghĩa vật chất và định danh cá nhân quá mức: Hoa Kỳ là một nơi “tự xây dựng thương hiệu” và “chính trị bản sắc” - “self-branding” và “identity politics” lên ngôi, vô thường có thể là liều thuốc giải độc cho sự tự mãn và sự dính mắc vào cái ngã "tôi là ai", "tôi sở hữu gì", "tôi được bao nhiêu người ái mộ". Cũng như cuộc sống ở một xã hội quay cuống khiến cho người dân luôn có tâm trạng lo âu, một sự lo âu vì không kiểm soát được các biến động xã hội, công nghệ, kinh tế, và nhứt là tài chánh cá nhân và gia đình…Có trước đó, và cũng có thể mất ngay chính sau đó!
Nhưng tâm lý người Mỹ rất khác với tâm lý người Việt. Đối với một doanh nhân Mỹ sau khi bị phá sản vẫn có thể nhẹ nhàng nói: “Well, everything changes. Let’s begin again.” Nhưng người Việt thì khác, trước một khoảnh khắc thất bại, tiếp theo là những chuỗi dài lo âu…Rất nhiều người trong cộng đồng Việt bị trầm cảm, nhưng chính họ cũng không nhận ra được, không chấp nhận thực trạng và ôm lấy đau buồn…không biết học cách củ người Mỹ là “ngồi trực diện với hiện tại”, để rồi tìm hướng gải quyết.
Viết cho người hay viết cho …ta
Trong cõi sống ta bà đầy biến dịch nầy, vô thường không còn là một triết lý xa vời của Đông phương nữa, mà là chân lý sống còn cho nhân loại hiện đại – đặc biệt trong xã hội như Hoa Kỳ, nơi con người bị giằng co giữa tốc độ, áp lực thành công, và sự cô đơn nội tại.
Vô thường không phải là một lời an ủi, càng không phải là một lời khuyên buông xuôi. Trái lại, nó là một lời nhắc tỉnh thức đầy dũng cảm rằng, không có gì chúng ta đang nắm giữ từ tiền bạc, danh vọng, tình yêu cho đến bản ngã … là vĩnh viễn. Và chính trong sự vô thường đó, chúng ta mở ra khả năng giải thoát khỏi mọi dính mắc.
Sống với vô thường, trong bối cảnh nước Mỹ, là:
• Biết yêu thương không điều kiện, vì mọi cuộc gặp gỡ đều có thể là lần cuối.
• Biết sống trọn vẹn trong hiện tại, vì “ngày mai” không bao giờ là bảo đảm chắc chắn cả.
• Biết tha thứ, vì người khác, cũng như chính ta, đều là những sinh mệnh đang biến đổi, không ai mãi là kẻ gây tổn thương hay là nạn nhân.
Khi ta chấp nhận vô thường như một người bạn, chứ không như kẻ thù, ta sẽ bước vào đời sống không bằng sự kiểm soát, mà bằng tâm thế mở lòng. Và chính tâm thế đó sẽ cứu rỗi xã hội đầy cạnh tranh, cô lập và bất an mà chúng ta đang sống.
Như vậy, Vô thường trong xã hội Mỹ không phải là một triết lý buông xuôi, mà là một khả năng thích ứng cao, một sự tỉnh thức sâu, và một cái nhìn toàn thể về sự sống đang vận hành.
Ở nước Mỹ, nơi những kỳ vọng thành công, tốc độ đổi mới công nghệ và văn hóa khởi nghiệp chi phối xã hội, người ta không xa lạ với sự chuyển dịch, thậm chí xem đó là cốt lõi của sự phát triển. Vì thế, vô thường không nhất thiết bị nhìn như một “mất mát”, mà là sự luân chuyển sáng tạo. Văn minh phương Tây đang dần hấp thụ vô thường như một nguồn cảm hứng sáng tạo, thay vì chỉ xem nó là triết lý Đông phương khép kín.
Ở xã hội năng động như Mỹ, vô thường không nên hiểu là một lời kêu gọi rút lui khỏi cuộc sống, mà là lời mời sống trọn vẹn với hiện tại, hiểu sâu về quy luật thay đổi, để thích nghi, yêu thương và sáng tạo tốt hơn.
Đó không phải là một triết lý “trốn chạy” khỏi thực tế, mà là cách sống cùng thực tại một cách bao dung và tỉnh thức, như Thiền sư Suzuki từng nói:” Mọi thứ đều thay đổi. Mọi thứ đều vô thường. Đó là lý do tại sao mọi thứ đều có thể”. - “Everything changes. Everything is impermanent. That’s why everything is possible.”
Vô thường là sự thật của đời. Khi ta chấp nhận nó, ta bớt sợ, bớt giận, và dễ bao dung hơn. Cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại cần chiêm nghiệm suy nghĩ nầy để hồi phục niềm tin, và phát triển bền vững.
Và xin đừng quên:
Vô thường không phải là sự kết thúc.
Mà là… lời mời sống sâu hơn, đẹp hơn, người hơn ngay từ giờ phút nầy!
Mai Thanh Truyết
Đường về Chân tâm
Houston – Tháng 7-2025
Friday, August 8, 2025
Kế Hoạch Hóa Dân Số Thế giới
1- Mở đầu: Dân số không phải là con số – mà là con người
Khi thế giới vượt mốc 8 tỷ người vào năm 2022, câu hỏi về dân số lại trở thành tâm điểm tranh luận:
Làm sao để nuôi sống toàn nhân loại mà không hủy hoại trái đất?
Làm sao để cân bằng giữa tăng trưởng dân số và phát triển bền vững?
Kiểm soát dân số thế giới đề cập đến những nỗ lực nhằm tác động hoặc điều chỉnh tốc độ tăng trưởng dân số. Trong lịch sử, điều này bao gồm các chiến lược như kế hoạch hóa gia đình, tiếp cận các biện pháp tránh mang thai và chính sách của các chính phủ. Mặc dù một số quốc gia đã thực hiện các biện pháp cưỡng chế, nhưng trọng tâm đang ngày càng chuyển sang kế hoạch hóa gia đình tự nguyện và trao quyền cho phụ nữ thông qua giáo dục và các cơ hội kinh tế.
Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ dự báo dân số sẽ là 8.092.034.511 người vào ngày 1 tháng 1 năm 2025. Worldometer ước tính dân số sẽ là 8.231.613.070 người vào ngày 30 tháng 6 năm 2025. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới dự kiến sẽ đạt 9,8 tỷ người vào năm 2050. Báo cáo cũng dự báo dân số thế giới sẽ tiếp tục tăng lên 11,2 tỷ người vào năm 2100.
Trong bối cảnh trên, cụm từ “kế hoạch hóa dân số” thường bị bóp méo thành một công cụ kiểm soát, thậm chí là “âm mưu giảm dân số” từ các thế lực toàn cầu. Nhưng nếu nhìn lại thực chất, kế hoạch hóa dân số nhân đạo không phải là mệnh lệnh từ trên xuống, mà là quyền được lựa chọn của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ.
2- Kế hoạch hóa dân số là trao quyền, không cưỡng bức
Theo WHO và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc - UNFPA, kế hoạch hóa dân số nhân đạo gồm 3 yếu tố cốt lõi: - Tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và thai nhi - Tự do quyết định thời điểm và số lượng con cái - Không bị cưỡng ép, ép buộc, hay phân biệt đối xử.
Một nghiên cứu khác, dực vào “kế hoạch hóa” và sự tự nguyện kế hoạch hóa của quý bà… thành thử tổng dân số vào năm 2050 sẽ chỉ ở mức độ 7,1 tỷ mà thôi!
Qua ba yếu tố trên, rõ ràng kế hoạch hóa dân số hoàn toàn không có nghĩa là "giảm dân số". Nó giúp các gia đình chủ động sinh con trong khả năng nuôi dưỡng, phụ nữ có cơ hội tiếp tục học hành, làm việc và cống hiến, và trẻ em được sinh ra theo ý muốn trong điều kiện an toàn, đủ dinh dưỡng và giáo dục.
3- Lịch sử nhân đạo và bài học sai lầm
Các mô hình thành công trên thế giới trong việc tự nguyện kế hoạch hóa ở các quốc gia đông dân số và có mức sinh sản cao:
- Nhờ kết hợp y tế cơ sở, giáo dục phụ nữ, và hỗ trợ cộng đồng, tỷ lệ sinh ở Bangladesh giảm từ 6,3 còn 2 con/phụ nữ trong giai đoạn 1975 đến 2020 mà không dùng biện pháp cưỡng bức.
- Ethiopia, Indonesia, Tunisia, Việt Nam thời Đổi mới: Kế hoạch hóa kết hợp với nâng cao dân trí, tạo ra dân số ổn định và bền vững.
Riêng Trung Cộng và Ấn Độ đã áp dụng một chính sách kế hoạch hóa cưỡng bức, vi phạm nhân quyền và đạo đức xã hội như::
- Trung Cộng với chính sách một con triệt để từ năm 1979 cho đến 2015 như cưỡng bức phá thai, triệt sản, theo dõi sinh sản bằng công an, gây mất cân bằng giới tính và khủng hoảng nhân khẩu học. Và hiện nay, bất bình đẳng giới tính ở Tc là một trong những vấn đề phức tạp trong xã hội Tàu, trong 100 phụ nữ có đến 130 nam giới.
- Ấn Độ (1976): Giai đoạn khẩn cấp, chính phủ tiến hành hàng loạt vụ triệt sản cưỡng ép, dẫn đến phẫn nộ dân chúng và sụp đổ chính trị của quốc gia nầy.
Tất cả những sai lầm đó không đại diện hay đổ lỗi cho kế hoạch hóa dân số nhân đạo, mà là một biến tướng chính trị của một chính sách độc đoán.
3- Mục tiêu nhân đạo và bền vững toàn cầu
LHQ đã xếp kế hoạch hóa gia đình vào 17 mục tiêu phát triển bền vững – Sustainable Development Goals - SDGs. Đó là Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững, được tất cả các quốc gia thành viên LHQ thông qua vào năm 2015, cung cấp một kế hoạch chung cho hòa bình và thịnh vượng cho con người và hành tinh, hiện tại và tương lai. Trọng tâm của chương trình là 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), một lời kêu gọi hành động khẩn cấp từ tất cả các quốc gia, cả phát triển và đang phát triển trong một liên quan đối tác toàn cầu. Họ nhận thức rằng việc chấm dứt đói nghèo và các bất bình đẳng khác phải song hành với các chiến lược cải thiện sức khỏe và giáo dục, giảm bất bình đẳng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và bảo tồn đại dương và rừng của chúng ta. Xin đan cử các mục tiêu chính như giúp:
• Xóa đói giảm nghèo (SDG 1)
• Bình đẳng giới (SDG 5)
• Giảm tử vong trẻ sơ sinh và người mẹ (SDG 3)
• Giáo dục có phẩm chất (SDG 4)
Ngoài ra, khi phụ nữ có thể kiểm soát sinh sản, họ thường có ít con hơn, nhờ đó, giảm áp lực dân số và môi trường. Và gia đình có thu nhập và đầu tư nhiều hơn cho con, từ đó phẩm chất.
4- Những lời vu khống và thuyết âm mưu sao cần cảnh giác
Nhiều thuyết âm mưu cáo buộc các tổ chức như Bill Gates Foundation, UNFPA, WHO... là công cụ “diệt chủng ngầm”, thông qua vaccine, thuốc tránh thai hoặc dịch bệnh nhân tạo. Những lời vu cáo này:
• Không có bằng chứng, thường dựa trên phát biểu bị cắt xén hoặc trích sai ngữ cảnh. Trường hợp Bill Gates phát biểu trên diễn đàn Event 201 năm 2019 về việc giảm dân số toàn cầu, và thuyết âm mưu đưa ra nhận định Bill Gates cần giảm dân số từ 8 tỷ xuống còn 7 tỷ vì quả địa cầu đã quá tải!
• Gây nguy hiểm khi làm mất lòng tin vào vaccine, y tế cộng đồng và quyền của phụ nữ. Bill Gates cũng đã gây ra ngộ nhận là vaccine để ngừa Ebola chỉ là một loại thuốc “triệt sản” để kiểm soát dân số ở Phi châu!
• Phản ánh một nỗi sợ bản năng về kiểm soát sinh sản, nhất là trong các xã hội nam quyền, độc đảng, dân túy hoặc thiếu minh bạch.
Vì vậy, minh bạch, truyền thông chính xác và giáo dục công dân là then chốt để bảo vệ một chính sách nhân đạo khỏi bị xuyên tạc.
5- Việt Nam và tương lai dân số có trách nhiệm
Việt Nam từng là quốc gia đi đầu về kế hoạch hóa gia đình từ cuối thập niên 1980, nhờ đưa dịch vụ y tế sinh sản về tận thôn xã, đẩy mạnh giáo dục cộng đồng về hôn nhân, sức khỏe, dinh dưỡng và khoảng cách sinh con.
Trong giai đoạn 1980 – 2000, chính phủ kiểm soát sinh sản rất chặt chẽ qua khẩu hiệu nổi bật: "Mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có 1–2 con". Qua năm 1989, thành lập Ủy ban Dân số và Kế Hoạch Hóa Gia đình Quốc gia và áp dụng mạnh các biện pháp tránh thai, vận động qua mạng lưới y tế cơ sở và cộng tác viên dân số.
Bước sang giai đoạn 2000 – 2020, Việt Nam chuyển hướng từ cưỡng chế sang tự nguyện. Vào năm 2003, ban hành Pháp lệnh Dân số với chính sách bắt đầu mang tính khuyến khích, tôn trọng quyền cá nhân hơn, thay vì áp chế và tăng cường tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản và giáo dục giới tính.
Dân số Việt Nam hiện nay. 2025 ước tính khoảng khoảng 103 triệu người với tỷ lệ sinh sản 1,95 con/phụ nữ, dưới mức sinh thay thế (2,1). Tuy nhiêm, mức sinh không đồng đều giữa các vùng: - Thành thị, đồng bằng: sinh thấp (1,4–1,6) - Vùng núi, Tây Nguyên, dân tộc thiểu số: sinh cao hơn (2,5–3,2). Tỷ số giới tính khi sinh khoảng 112 bé trai/100 bé gái (mức bình thường là 105/100), có nguy cơ thừa nam thiếu nữ trong tương lai
Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đối diện với nguy cơ già hóa dân số nhanh, tỷ lệ sinh ở nhiều tỉnh (như TP.HCM, Đồng bằng sông Hồng) đã xuống dưới mức thay thế (1.6 con/phụ nữ). Đây là lúc kế hoạch hóa dân số phải chuyển từ “giảm sinh” sang “cân bằng và chất lượng”. Năm 2025, tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 13–14%. Dự báo Việt Nam bước vào giai đoạn “già hóa dân số” hoàn toàn vào năm 2036.
Chính sách dân số Việt Nam đã chuyển mình từ một mô hình “kiểm soát bắt buộc” sang mô hình “quản lý mềm và thích ứng”. Trong bối cảnh dân số bắt đầu già hóa và mức sinh xuống thấp, bài toán hiện nay không chỉ là kiểm soát số lượng, mà là nâng cao phẩm chất dân số và duy trì cơ cấu dân số vàng lâu dài. Điều này đòi hỏi phải một kế hoạch quản lý dân số kết hợp với giáo dục, y tế, lao động, bảo hiểm xã hội và phát triển kinh tế toàn diện.
Chúng ta đã đi qua một giai đoạn phát triển dân số đặc biệt, từ thừa sang thiếu, từ tăng quá nhanh sang già hóa nhanh chóng. Tư duy chính sách vì vậy cũng cần thay đổi căn bản, từ áp đặt sang hỗ trợ, từ kiểm soát sang thích ứng, từ số lượng sang phẩm chất lượng.
Nếu không có chính sách dân số đúng đắn, Việt Nam sẽ không có tương lai kinh tế xã hội bền vững.
6- Thay lời kết - Kế hoạch hóa dân số là quyền, không phải công cụ
Dân số không phải là vấn đề “quá nhiều người”, mà là vấn đề quản trị con người và cơ hội sống của họ. Kế hoạch hóa nhân đạo không giới hạn sự sống, mà cho phép con người được sống đúng nghĩa, an toàn, tự do và có phẩm giá.
Thế giới không cần kiểm soát dân số bằng áp đặt, mà cần trao quyền sinh sản trong tự do, kiến thức, và lựa chọn. Đó là nhân đạo – không phải “âm mưu”.
Riêng tại Hoa Kỳ, Tư bản và các quyền lực mềm, Big Pharma… độc quyền kiểm soát kỹ nghệ dược phẩm Mỹ, nâng giá thuốc nhiều loại mắc hơn Liên Âu gấp 10 lần, từ đó tạo ra gánh nặng cho những người trung lưu và có lợi tức thấp. Hy vọng hành pháp 47 có biện pháp kếm chế các thế lực trên, qua tuyên bố của TT Trump:” Bạn sẽ không tin những gì mình sắp nghe. Trong nhiều thập kỷ, người Mỹ đã phải trả giá thuốc theo toa cao nhất thế giới.
Cao hơn bao nhiêu? Một loại thuốc điều trị ung thư vú có giá 16.000 đô la một chai ở Mỹ chỉ có giá bằng MỘT PHẦN MƯỜI MỘT so với giá đó ở Thụy Điển. Cùng một loại thuốc. Cùng một nhà máy. Cùng một công ty. Một loại thuốc hen suyễn thông thường có giá gần 500 đô la ở Mỹ nhưng chưa đến 40 đô la ở Anh.”
Mai Thanh Truyết
Houston – Tháng 8-2025
Wednesday, August 6, 2025
Tài phiệt Toàn cầu Trong Y tế và Môi trường
Trong một thế giới trong đó, khủng hoảng khí hậu, đại dịch, và bất bình đẳng y tế ngày càng đe dọa sự ổn định toàn cầu. Sự phân bổ toàn cầu trong lãnh vực y tế và môi trường, thể hiện sự bất bình đẳng rõ nét nhứt cho dú khách quan hay chủ quan đối với trên 8 tỷ sanh linh. Hoa Kỳ xử dụng nguồn nước tính trung bình cho trên 330 triệu dân là 200Gal/người; trong lúc đó đa số người Phi châu hưởng chưa tới 1lít nước/ngày. Các qu1o6c gia Âu châu, Bắc Mỹ v.v…hưởng một nền ý tế tối tân, ngược lại đa số người dân sống ở Phi châu, Á châu, Á rập, rất nhiều người chưa từng thấy một giọt thuốc “xức ghẻ”, thuốc đỏ Iodine!
Câu trả lời “huề vốn” về những lý do tại sao, tại sao…có sự bất cân bằng trên toàn cầu cho hai lý do trên là do dân trí thấp, nghèo, người dân chưa ý thức được vai trò của y tế và môi trường v.v…
Nhưng sự thật có phải như vậy hay không? Mời quý độc giả suy nghĩ…
Ngay cả, tại Hoa Kỳ là một quốc gia có thể nói văn minh, dân chủ, và tiến bộ nhựt toàn cầu, sự bất bình đẳng về hai phương diện trên cũng vẫn là một đề tài cần tranh cãi. Theo người viết, tất cả chỉ vì chữ … TIỀN!
Nói về nước mỸ, xin nói ngay là, vai trò của các chính phủ thay đổi mỗi nhiệm kỳ tổng thống 4 năm, vốn chậm chạp, phân tán và thường bị giới hạn ngân sách; từ đó được/ đang dần bị thay thế bởi một thế lực khác: giới tài phiệt toàn cầu. Những tỷ phú như Bill Gates, Michael Bloomberg, Jeff Bezos, hay những tập đoàn đầu tư như BlackRock, Vanguard, giờ đây không chỉ sở hữu cổ phần trong nền kinh tế mà còn can thiệp sâu vào các lĩnh vực thiết yếu nhất của nhân loại về y tế và môi trường.
Nhưng sự hiện diện ngày càng lớn này đang tạo ra một câu hỏi hệ trọng:” Họ là ân nhân đang cứu nhân loại, hay là những kẻ thao túng nghị trình toàn cầu vượt khỏi sự kiểm soát dân chủ?”
Và quan trọng hơn nữa:”Chúng ta cần làm gì?
1- Khi chính phủ rút lui, tư nhân bước vào
Sau thảm họa Ebola 2014 ở Phi Châu, đại dịch COVID-19 ở Wuhan và nhiều cuộc khủng hoảng y tế tại châu Phi, thế giới chứng kiến một thực tế là nhiều chính phủ không đủ nguồn lực về chuyên môn hay tài chính, hoặc quyết tâm đối phó khủng hoảng y tế công cộng. Chính trong khoảng trống ấy, các quỹ tư nhân đã bước vào.
• Quỹ Bill & Melinda Gates đã chi hơn 50 tỷ USD trong 20 năm cho các chương trình chống sốt rét, tiêm chủng, nghiên cứu HIV, và hỗ trợ hệ thống y tế ở các nước nghèo.
• Michael Bloomberg chi hơn 10 tỷ USD để thúc đẩy cấm thuốc lá, chống biến đổi khí hậu, và hỗ trợ các thành phố chuyển đổi sang năng lượng sạch.
• Jeff Bezos với Bezos Earth Fund cam kết 10 tỷ USD cho các giải pháp khí hậu, từ tái trồng rừng đến công nghệ carbon.
Đáng lưu ý, một số tổ chức như WHO, UNICEF, GAVI, CEPI... đã trở thành đối tác lớn của giới tài phiệt. Một mặt, nguồn lực tài chính này giúp họ hoạt động hiệu quả và nhanh chóng hơn, đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng. Nhưng mặt khác, mối quan hệ tài trợ này cũng gây ra sự lệ thuộc chính sách. Và cũng chính vì lý do sau cùng nầy, vị Tổng thống thứ 47 đã hạn chế hay chấm dứt ngân sách tài trợ cho các tổ chức trên.
2- Mặt trái của các quyền lực tài phiệt phi dân chủ
Sức mạnh của giới tài phiệt không đến từ lá phiếu của người dân, cũng không chịu sự ràng buộc chặt chẽ như các thể chế công quyền. Điều này dẫn đến một thực trạng nguy hiểm:
• Thiếu cơ chế kiểm soát dân chủ: Không ai bầu Bill Gates để quyết định chiến lược tiêm chủng ở châu Phi, hay chọn Jeff Bezos làm người điều phối chuyển đổi khí hậu toàn cầu.
• Thiếu khả năng điều nghiên kế hoạch hành động: Giới tài phiệt có thể có ưu tiên cho các giải pháp công nghệ nơi họ đầu tư, nhưng điều đó không có nghĩa là họ/nhóm họ “đưa ra” các giải pháp xã hội căn bản như công lý khí hậu, cải cách hệ thống thuế, quyền lao động...nhưng không thông qua hệ thống hành chánh của từng quốc gia. Họ quyết định thay cho toàn cầu…nhân danh ai? Giới tài phiệt hay là Nhóm Globalists toàn cầu, hoặc cải hai?
• Tập trung quyền lực tri thức: Khi họ/nhóm sở hữu không chỉ vốn mà cả dữ liệu, nhân sự, và ảnh hưởng truyền thông, sự mất cân bằng quyền lực tri thức trở thành hiện thực. Vô hình chung, chính phú bị…cho đứng ngoài lề..
Một ví dụ rõ ràng là vai trò của Quỹ Gates trong WHO, nơi quỹ này từng là nhà tài trợ lớn thứ hai, chỉ sau chính phủ Mỹ, và từng chi phối mạnh các chương trình ưu tiên (như vaccine) hơn các vấn đề mang tính cấu trúc (như hệ thống y tế công cộng của từng quốc gia).
3- Trường hợp Bill Gates và WHO - Cộng tác hay chi phối?
OSLO/ GENEVA, ngày 30 tháng 5 - Liên minh Đổi mới Sẵn sàng Phòng chống Dịch bệnh (CEPI) và Gavi, Liên minh Vắc-xin (Gavi), hai đồng lãnh đạo của COVAX, cơ chế đa phương thúc đẩy tiếp cận công bằng với vắc-xin COVID-19 trên toàn cầu, đã mở rộng quan hệ đối tác nhằm tăng cường phát triển, triển khai và... Gavi là viết tắt của Gavi, Liên minh Vaccine. Trước đây, Gavi được gọi là Liên minh Toàn cầu về Vaccine và Tiêm chủng. Gavi là một cơ quan đối tác y tế toàn cầu công-tư tập trung vào việc tăng cường tiếp cận tiêm chủng ở các nước đang phát triển.
Trong đại dịch COVID-19, Quỹ Gates đóng vai trò chủ động trong việc tài trợ cho hai dự án chính:
• Phát triển vaccine qua Liên minh Đổi mới Sẵn sàng Phòng chống Dịch bệnh - The Coalition for Epidemic Preparedness Innovations – CEPI, và Liên minh Vaccine Gavi - The Vaccine Alliance Gavi. Đây là hai cơ chế đa phương thúc đẩy tiếp cận công bằng với vaccine COVID-19 trên toàn cầu, đã mở rộng mối kết nối với các đối tác liên chính phủ nhằm tăng cường phát triển, triển khai.Trước đây, Gavi được gọi là Liên minh Toàn cầu về Vaccine và Tiêm chủng. Đã từng hỗ trợ WHO về kỹ thuật và hậu cần.
• Mua và phân phối vaccine cho các nước nghèo.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia y tế toàn cầu cảnh báo rằng việc WHO lệ thuộc quá nhiều vào nguồn tài trợ tư nhân, nhứt là Bill Gates khiến họ mất đi tính độc lập, dễ bị buộc phải ưu tiên chương trình theo lợi ích nhà tài trợ thay vì theo nhu cầu y tế công.
Dù không có bằng chứng rằng Gates “ép buộc” hay thao túng WHO một cách bất chính, việc một cá nhân hoặc nhóm nhỏ có ảnh hưởng đến một tổ chức quốc tế vốn dĩ nên phục vụ toàn thể nhân loại là một nguy cơ mà cần được theo dõi rốt ráo!
4- Cần giải pháp minh bạch, dân chủ hóa và phân quyền
Thay vì loại trừ hay nghi ngờ mọi đóng góp từ giới tài phiệt, thế giới cần xây dựng các cơ chế để hợp tác mà không bị lệ thuộc hay ảnh hưởng vào khuynh hướng chính trị của tài phiệt.
Đối với WHO và các tổ chức công, cần công khai minh bạch và đầy đủ mọi nguồn tài trợ tư nhân, cùng với điều kiện đi kèm nếu có. Nhứt là không thể để các chính sách y tế/môi trường toàn cầu bị vạch ra theo chiều hướng của giới tài phiệt từ phương Tây, mà không theo hướng phục vụ chung cho toàn cầu. Vai trò xã hội dân sự của các quốc gia nghèo rất cần thiết trong giai đoạn nầy.Q
Có được như vậy, các quy định về lobby, xung đột lợi ích, hay giới hạn tỷ lệ tài trợ cá nhân đối với định chế công quốc tế sẽ tương đối đi vào nề nếp nhờ luật hóa ảnh hưởng tư nhân trong chính sách công.
5- Kết luận
Thế giới ngày hôm nay thể hiện đầy bất ổn khắp nơi, chính vì những cơ quan đại diện không còn có tư thế minh bạch, công minh, và có “tâm lành” như trước kia. Chỉ cần lấy cơ quan Liên Hiệp Quốc làm thí dụ. Trong những năm đầu của tên gọi Hội Quốc Liên và sau đó LHQ, mỗi tiếng nói hay quyết định của cơ quan nầy đều được tất cả quốc gia tuân thủ hầu như tuyệt đối. Nhưng ngày hôm nay, Putin của Nga xuất quân đi xâm lăng một nước có chủ quyền, thành viên của LHQ như Ukraina; thế mà, LHQ đành bất lực, Hội đồng Bảo An LHQ chỉ ra được vài nghị quyết mà Putin vẫn phớt lờ! Và còn rất nhiều điều nghịch lý/phi lý hiện đang xảy ra trên trái đất mà LHQ vẫn… thờ ơ vì bất lực!
Xin có vài lời báo động, đánh thức thế giới cần chấn chỉnh lại vai trò của những cơ quan đại diện cho các quốc gia có chủ quyền trên thế giới.
Chúng ta đều biết, giới tài phiệt, dù là người tốt hay xấu, không thể bị loại bỏ khỏi bàn cờ toàn cầu. Họ sở hữu vốn, công nghệ, và ảnh hưởng thực sự. Nhưng nếu chúng ta muốn một thế giới công bằng, phát triển bền vững, họ không thể là người viết luật và thi hành luật.
Nhân loại cần họ như những đối tác chịu trách nhiệm, chứ không phải như ông chủ đứng trong bóng tối để chia phần ảnh hưởng lên thế giới, hay hướng thế giới đi theo hướng đi của họ, Họ là Nhóm Globalists toàn cầu.
Mai Thanh Truyết
Houston – Tháng 8-2025
Monday, August 4, 2025
Vô thường trong Phật giáo và Văn hóa Việt – Phần III
Việc lý giải “vô thường” trong văn hóa và Phật giáo Việt Nam cần được đặt trong mối liên quan giữa:
1. Cội nguồn giáo lý Phật giáo (đặc biệt là Phật giáo Đại thừa và Phật giáo dân gian (Đạo Ông Bà));
2. Tâm thức nông nghiệp, nét văn hóa đặc thù, và cảm tính của người Việt;
3. Cách mang vô thường vào đời sống hằng ngày, gia đình, xã hội và tín ngưỡng.
1- Vô thường trong giáo lý Phật giáo truyền thống Việt Nam
Nguồn gốc: Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm (thế kỷ II–III) ở miền Bắc trước, nhưng phát triển mạnh từ thời Lý – Trần. Từ đó, theo thời gian lan dần xuống phía Nam Việt Nam. Ảnh hưởng chính là Phật giáo Đại thừa (Bắc tông), kết hợp với tín ngưỡng bản địa (thờ từ mẫu, thờ tổ tiên) và sau này là Thiền tông, Tịnh độ tông, và Mật tông. Riêng tại miền Nam, một nhánh Phật giáo Nam tông, cũng đến từ Ấn Độ, qua Thái Lan, Cambodia và xâm nhập vào dưới danh nghĩa Theravada – Phật giáo Nam tông – Phật giáo nguyên thủy.
Về ý nghĩa giáo lý: Trong Phật pháp, Vô thường (Anitya) là tính chất chánh yếu của mọi hiện tượng như:
• Không gì tồn tại mãi, tất cả đều có sinh, có diệt.
• Nguồn gốc của khổ đau vì con người chấp thủ những thứ vốn không bền.
• Vô thường giúp con người buông xả, tâm thanh tịnh, không cố chấp, không tham dục.
Trong việc tu hành, áp dụng thiền quán vô thường để đạt đến vô ngã, hầu giải thoát luân hồi. Ngoài đời, đối với Phật tử, cần sống đạo để hiểu vô thường ngõ hầu buông bỏ danh lợi, hành thiện, tránh nghiệp dữ. Thực hành hạnh bố thí, giúp tha nhân trong cơn hoạn nạn…
2- Vô thường trong tâm thức và văn hóa Việt Nam
Vô thường trong tâm thức dân gian: Người Việt tiếp nhận vô thường không như một triết lý trừu tượng, mà là trải nghiệm đời sống, nên mang tính tình cảm, cảm hoá, đạo lý rất sâu. “Ở đời chẳng có chi là bền”, “Sống gửi, thác về”, “Một mai thân xác tiêu tan - Còn đâu mà tiếc bạc vàng làm chi”.
Vô thường trở thành lời nhắc nhở sống hiền, sống có tâm, vì đời là mong manh.
Vô thường trong văn học dân gian: Trong ca dao, tục ngữ, người Việt thể hiện vô thường qua nỗi buồn thân phận, sự mất mát, và mong manh kiếp người:
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Đây không phải là sự than oán, mà là chấp nhận số phận, gắn bó với thiên nhiên và ý thức sâu xa về sự đổi thay.
Vô thường trong nghi lễ và tín ngưỡng: Trong tang lễ, các nghi thức cầu siêu, tụng kinh Di Đà, tụng kinh Vu Lan… đều đặt vô thường làm nền tảng nghĩa là… sống chết là lẽ tự nhiên, nên người khi còn sống sống cần hiếu kính, tạo phúc, hướng thiện. Cho đến khi chết đi, thân xác tiêu diêu vào cõi … cực lạc (?). Về việc thờ cúng tổ tiên cũng là cách hóa giải vô thường, giữ lại ký ức, liên kết với cội nguồn, tạo sự bền vững tinh thần giữa vô thường vật chất. Hàng năm, vào dịp Vu Lan, rằm tháng Bảy: nhấn mạnh đến mất mát, ly biệt, gợi cảm xúc sâu xa về ông bà, cha mẹ, thân nhân đã khuất – “còn mẹ thì còn tất cả, mất mẹ rồi mới thấm thía vô thường”.
3- Nhân sinh quan người Việt và Vô thường
Người Việt không phản ứng dữ dội với vô thường. Thay vào đó họ chấp nhận khổ đau như một phần của kiếp sống và tìm cách sống thuận đạo, thuận lẽ trời, thuận nhân quả.
Đây là điểm rất khác biệt với phương Tây, nơi con người Tây phương có quan niệm thường muốn kiểm soát, và chiến thắng số phận.
Tâm lý đa số người Việt muốn sống “trung đạo”, và vì hiểu và cảm vô thường như trên cho nên không quá tham vọng, không quá bi quan. Trong cuộc sống “biết đủ”, “ăn ở cho phải”, “gieo gì gặt nấy”.
Tất cả thể hiện nền tảng đạo lý dân gian gắn liền với Phật giáo.
4- Soi sáng Vô thường từ văn học, lịch sử dân gian
Về vua Trần Nhân Tông và Thiền phái Trúc Lâm, Ngài đã từng viết:“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên - Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.” (Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, đói thì ăn, mệt thì ngủ, một thái độ sống theo vô thường, nhưng an nhiên tự tại.)
Với lối kiến trúc chùa Việt thấp, gắn gần với đất, mái cong, vật liệu dễ hư mục, hầu như để nói rằng: “Chính sự phai tàn mới là vẻ đẹp vĩnh cửu”.
5- Đặc điểm riêng biệt của “Vô thường” trong văn hóa Phật giáo Việt
Tong văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam, con người miền Nam thể hiện một tâm lý tiếp nhận và đối xử với tha nhân đặt trên căn bản lấy cảm tính làm đầu, hiền hòa trong giao tiếp, nhận hậu trong đối xử. Người vùng Đồng bằng sông Cửu Long sống rất đạo đức, chấp nhận số phận và không đua đòi, nhứt là luôn luôn nghĩ đến việc làm điều thiện nhằm để lại … phúc đức cho con cháu!
Họ thường thực hành đạo Phật không qua kinh kệ nhưng qua ca dao, tục ngữ, các câu chuyện bình dân truyền khẩu, tiếng ca câu hò ru con…tất cả đặt trên căn bản về mức độ vô thường của kiếp người …để từ đó “làm lành lành dữ”.
6- Kết luận
Vô thường trong văn hóa và Phật giáo Việt Nam không chỉ là một chân lý siêu hình, mà là chất liệu sống, cách ứng xử với đau khổ, và là căn bản cho lòng nhân, chữ hiếu, và từ thiện.
Người Việt không lý giải vô thường bằng triết học trừu tượng như Trung Hoa, cũng không thi vị hóa nó như Nhật Bản, mà sống cùng nó, hóa giải nó bằng tính nhân bản, đạo đức và cái tâm lành.
Đó chính là triết lý dân gian độc đáo, vừa cảm thông, vừa bền bỉ, góp phần giữ gìn sự cân bằng đạo đức tinh thần cho một dân tộc đã trải qua nhiều khổ đau và biến động lịch sử ngay từ thời lập quốc cho đến hiện tại.
Mai Thanh Truyết
Đường về Chân Tâm
Houston – Tháng 7-2025
Saturday, August 2, 2025
"Mujõ của Nhựt" khác với Vô thường trong Phật giáo
Trung Hoa và Việt Nam như thế nào? – Phần II
Tuy cùng một gốc Phật giáo, nhưng triết lý Vô thường (Mujō) khi đi vào Nhật Bản lại phát triển một cách đặc thù, mang đậm dấu ấn văn hóa và tâm thức dân tộc Nhật, khác biệt khá rõ so với cách hiểu và ứng dụng tại Trung Hoa và Việt Nam. Có thể nói, Phật giáo đi vào Nhựt có những nét ứng dụng vào cuộc sống thực tế, vào cuộc sống đời thường nghĩa là vào “đời”; còn đối với Phật giáo Đại thừa như Trung Hoa và Việt Nam, người học Phật và nhìn Phật giáo với nhiều ý tưởng siêu nhiên hơn trong cõi ta bà.
Dưới đây là sự so sánh khái quát giữa hai lối suy nghĩ và thực hành:
1- Vô thường là cốt lõi trong Phật giáo Á Đông và cả ba nền Phật giáo đều xem vô thường là một trong ba dấu ấn (tam pháp ấn):
• Vô thường (Anitya / Mujō / 無常): Mọi sự đều thay đổi.
• Khổ (Duḥkha): Đời là đau khổ do bám víu.
• Vô ngã (Anātman): Không có bản ngã cố định.
Tuy nhiên, cách tiếp nhận và thể hiện khái niệm vô thường lại rất khác nhau ở mỗi nền văn hóa.
2- Vô thường trong Phật giáo Trung Hoa: Về triết lý, học thuật, luân lý, Phật giáo Tàu manh tính chất trừu tượng và biện chứng, gần gũi với tư duy Lão Trang, và ảnh hưởng mạnh từ hệ thống Tống, Nho học. Vì vậy, Vô thường thường được lý giải qua các khái niệm nhị nguyên như sinh - diệt, hư - thực, hữu - vô, mang màu sắc triết lý biện chứng, có chiều sâu học thuật và tư biện luận.
Về phương diện ứng xử, người học Phật Trung Hoa thiên về suy tư qua cung cách quán chiếu, và tri hành hợp nhất, qua việc tụng kinh, tu tập, tham thiền để giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Đối với họ, vô thường gắn liền với đau khổ, nên cần phải buông bỏ, diệt dục, tu hành để đạt đến Niết-bàn (!)
Ví dụ như trong Kinh Kim Cang:“nhất thiết hữu vi pháp - như mộng huyễn bào ảnh…”: nhấn mạnh đến tính không thực, phù du, dẫn đến thái độ buông bỏ thế gian. Trong chú
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong các kinh căn bản và phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa nêu ra:” Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.”nói lên phần nào cái “không” trong “vô thường.
3- Vô thường trong Phật giáo Việt Nam nằm trong văn hóa nhân bản, và dân tộc,
từ đó, bộc lộ vô thường qua cảm tính và điều kiện sống vùng miền nhiều hơn. Vô thường ở Việt Nam chịu ảnh hưởng từ cả Trung Hoa và tín ngưỡng dân gian, vì vậy thiên về tình cảm, luân lý, đạo đức sống hơn là học thuật trừu tượng. Vô thường thường được hiểu theo hướng khuyên răn luân lý, kiểu như “sống hôm nay, biết đâu ngày mai đã mất”.
Vô thường nghĩa là “không có gì tồn tại mãi mãi”, đây là một trong những quy luật của vũ trụ chi phối tất cả trên thế giới loài người. Cả người đời và người học Phật chấp nhận một cách giản dị là:”Vật thì có thành, trụ, hoại, diệt. Người thì có sinh, lão, bệnh, tử”.
Trong giao tế, người Việt thường dùng triết lý vô thường để giác ngộ về sự vô nghĩa của danh lợi, từ đó sống hiền, sống lành, sống đức độ, chứ ít mang tính thiền quán cao cấp. Vô thường cũng xuất hiện trong văn học dân gian, qua ca dao, hò vè;
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
…thể hiện nỗi buồn phận người, nhưng vẫn đầy nhân bản.
Còn thi hào Nguyễn Công Trứ quan niệm kiếp nhân sinh như :”Kiếp sau xin chớ làm người - Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.” Hay:”Ôi! Nhân sinh là thế ấy - Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao!” Và, “Chợt tỉnh giấc nồi kê chưa chín!”
Trong kinh Vu Lan, hình ảnh cha mẹ mất sớm, trôi dạt trong luân hồi… khiến người sống hiểu vô thường “là như thế…” để hiếu kính cha mẹ, và sống đạo đức.
4- Vô thường trong Phật giáo Nhựt Bổn (Mujō), người Nhựt đặt vô thường qua ba nền tảng: Thẩm mỹ, Sinh tồn, và Bi tráng
Người Nhựt thẩm mỹ hóa khái niệm vô thường: không chỉ chấp nhận mà còn trân trọng, yêu thương và làm đẹp nó. Mujō không bi lụy, không răn đe, mà như một bản hòa ca u buồn về sự sống đang tàn phai, giống như hoa anh đào rụng, lá phong rơi, hay ánh chiều tà.
Người Nhựt không cố chống lại vô thường, mà sống cùng nó bằng lòng an tĩnh, trân quý khoảnh khắc hiện tại. Họ nhắc đến Thẩm mỹ Wabi-Sabi, Mono no aware, Trà đạo, Thơ Haiku, Zen. Tất cả đều là những cung cách thể hiện, chấp nhận và yêu cái đẹp mong manh, nhất thời.
Điển hình như trong thơ Hōjōki (Phòng nhỏ cỏ tranh): "Dòng sông vẫn chảy, nhưng nước hôm nay không bao giờ là nước hôm qua." Thể hiện một thái độ ngắm nhìn vô thường với lòng nhẹ nhàng và tĩnh lặng.
Tóm lại, không so sánh đúng – sai, không khen chê hay – dở, cũng không khuyên nhủ lộ trình nào phải đi, người viết tóm tắt vô thường trong mỗi quan niệm hay tầm nhìn dưới đây:
• Đối với vô thường của Nhựt, có thể tóm tắt: Thẩm mỹ, U hoài, và hiện sinh. Người Nhựt nhìn vô thường trong chiêm ngưỡng , trân trọng, và hòa mình. Về ảnh hưởng triết học, họ có lối Thiền riêng biệt Zen. . Hình ảnh điển hình trong cuộc sống của họ là Hoa anh đào, Thơ Haiku, và trà đạo.
• Còn người Tàu, với bản chất tư biện, lý tính, và biện chứng, họ nhìn vô thường qua lăng kính buông bỏ, tu hành để rồi… vượt thoát. Kinh điển của họ là Lão, Trang, Nho học, và Thiền. Người Tàu tập chú về sinh-diệt, về hư-vô.
• Còn người Việt thì sao? Với bản chất thiên về cảm tính mang luân lý làm kim chỉ nam, lấy đạo đức làm cung cách ứng xử. Do đó, họ sống hiền lành, có đạo đức, và chấp nhận “số phận”. Triết lý sống ảnh hưởng thuận và ngả theo chiều hướng nhiều về ”Đạo ông bà” (một hình thức đạo Phât trong dân gian). Biết lo giữ đạo hiếu, khuyên nhau tu hành để tránh hay hạn chế bớt nghiệp báo. (Vì là người miền Nam cho nên các suy nghĩ trên dành cho người Việt sống ở Nam Kỳ. Vì đây là suy nghĩ chủ quan, đầy cảm tính, xin miễn tranh cãi.)
5- Tổng kết
Mặc dù cùng bắt nguồn từ giáo lý nhà Phật, triết lý Vô thường (Mujō) khi đi vào Nhựt Bổn đã trở thành một khái niệm triết học về thẩm mỹ độc đáo, mang đậm tâm hồn Nhựt như là yêu cái mong manh, cái tạm bợ, và biết sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc sắp tan biến.
Trong khi Trung Hoa nhấn mạnh vào lý luận, Việt Nam chú trọng đạo lý, trong lúc đó, người Nhựt lại thi vị hóa vô thường, biến nó thành chất thơ hiện sinh trong đời sống, nhìn ra được cái đẹp trong sự bất toàn, cái bất biến duy nhứt trong buổi trà đạo (mono no aware) và nhiều nhiều nữa.
Có thể kết luận, Vô thường trong quan niệm của người Nhựt rất là … NGƯỜI!
Mai Thanh Truyết
Đường về chân tâm
Houston -Tháng 7-2025
Friday, August 1, 2025
Ta về với Ta
Vô Thường và Tánh Không soi chiếu bản ngã – Phần VII
Trong chiều hướng cảm nghiệm về Vô Thường - Anicca, “Ta về với Ta” là hành trình trở lại với chính mình, một cái Ta biết buông, biết yêu, biết chấp nhận phôi pha và ly biệt. Đây là cái Ta tuy vẫn tồn tại trong không gian và thời gian, nhưng không còn kháng cự đời sống. Nó mềm hơn, gần người hơn. Trong ngữ cảnh này, "về với Ta" có nghĩa là trở lại với cảm xúc chân thật, với những trải nghiệm vô thường nhưng đầy nhân tính.
Trái lại, trong Tánh Không - Sunyata, “Ta về với Ta” không còn là về lại một cái Ta nào hết, chỉ vì cái Ta không thực có. Nó chỉ là tập hợp của ngũ uẩn, do duyên sinh, không có thực thể bất biến. Cho nên về với “Ta” ở đây là về với cái không-Ta, tức là là trút bỏ mọi ảo tưởng về ngã tính, để an trú trong cái thấy vô ngã, tịch nhiên, tự do.
Sự khác biệt sâu sắc và bất khả bàn giữa Vô Thường và Tánh Không là:
• Vô Thường chấp nhận cái Ta trong dòng chảy thời gian.
• Tánh Không tháo gỡ cái Ta khỏi mọi ràng buộc về khái niệm.
Tuy nhiên, cả hai đều hiện hữu, liên đới với nhau, dứt khoát không loại trừ nhau, đến tùy theo từng giai đoạn về… niệm của mỗi tha nhân!
Một người có thể bắt đầu bằng việc cảm được Vô Thường, để quay về với chính mình như một cá nhân biết đau, biết đẹp. Nhưng rồi, qua thiền định hay khổ hạnh, có thể tiến xa hơn, thấy rằng “Ta” ấy cũng chỉ là một vọng tưởng, từ đó an trú trong cái Tánh Không, không còn Ta để quay về nữa.
Nói như vậy, “Ta về với Ta” trong Vô Thường còn khác với Tánh Không như thế nào nữa không?
1- “Ta về với Ta” trong Vô Thường và trong Tánh Không
Câu “Ta về với Ta” là một biểu tượng thi ca thường gắn với tinh thần buông xả và hồi quy nội tâm, có thể được hiểu rất khác nhau khi đặt trong hai không gian triết lý Vô Thường và Tánh Không.
• Trong Vô Thường, “Ta về với Ta” là sự chấp nhận chính mình như đang là, giữa cuộc đời luôn thay đổi. Đó là cái nhìn dịu dàng với nếp nhăn, với hoàng hôn, với một chiếc tách sứt mẻ. Là trở về với “Ta” như một phần hữu hạn của thế gian đầy yêu thương nhưng không níu kéo.
• Trong Tánh Không, “Ta về với Ta” lại mang ý nghĩa trở về với cái không-Ta: buông bỏ cả khái niệm về “Ta” như một bản ngã có thực. Đó không còn là “về với chính mình” như một cá thể riêng biệt, mà là “tan rã cái Ta” trong dòng duyên khởi, để thấy mọi sự vật đều không có tự tính.
Vì vậy, tuy cùng một biểu đạt, nhưng trong lăng kính Vô Thường, TA về để cảm nhận; còn trong Tánh Không, TA về để trống không.
Một bên là về với cái mong manh của kiếp người.
Một bên là về với cái mênh mông rỗng lặng của vũ trụ.
Trong Vô Thường (theo tinh thần Nhật Bản), “Ta về với Ta” là một hành trình cảm xúc, quay về với chính mình để chấp nhận thân phận người, với nỗi buồn đẹp đẽ, với những chia ly, lão hóa, và sự ngắn ngủi của đời sống. Đó là cái Ta đầy cảm xúc, có thể đau nhưng cũng có thể yêu như một chiếc lá rơi chạm đất trong thơ Haiku, hay một tiếng “bỏm” của một cục đá rơi trên mặt hồ phẳng lặng.
Trong Tánh không, “Ta về với Ta” là một hành trình giải ngộ, trong đó cái “Ta” dần rơi rụng hết những lớp ảo ngã, cho đến khi nhận ra không có “Ta” nào thật sự tồn tại độc lập. Trở về là để thấy rằng không có gì để bám víu, và do đó là tự do tuyệt đối.
Nói cách khác hơn nữa là:
• “Ta” trong Vô thường là “Ta nhân loại”.
• “Ta” trong Tánh không là “Ta phi ngã”.
Cả hai cùng là một hành trình trở về, nhưng một bên về để ôm lấy, một bên về để buông xuống.
Và chính vì vậy, hai triết lý này không triệt tiêu nhau mà hơn một lần nữa, xin được lập lại, chính là bổ túc cho nhau: “Vô Thường mở cánh cửa trái tim, còn Tánh Không mở cánh cửa trí tuệ.”
Tôi đang chìm ngập giữa cái Ta trong Vô Thường và Tánh Không đây.
Tôi tự để cho "Trí huệ" dẫn dắt!
Và dẫn dắt đi đâu?
Trong Vô Thường, cái Ta vẫn còn hiện hữu, nhưng mềm hơn, và biết mất, như một cánh hoa rơi không oán trách mưa hay nắng. Ta là dòng chảy, là người du hành, là người chứng kiến…
Trong Tánh Không, cái Ta không còn là chủ thể nữa, mà chỉ là hiện tượng tạm có, như bóng trăng đáy nước, hiện ra đấy, mà không hề vướng bụi trần. Ta là mây, là gió, là hư vô không bến bờ, cũng không trú xứ…
Và một khi trí huệ dẫn dắt, ta không còn bám vào cái nào là “chân lý cuối cùng”.
Ta chỉ lắng nghe, rồi nghiệm ra rằng:
• “Ta” trong Vô thường là để hiện diện mà không sở hữu.
• “Ta” trong Tánh Không là để giác ngộ rằng chẳng có gì để bám víu.
Cả hai đều không mâu thuẫn, vì Vô Thường là cửa, Tánh Không là đích.
Một TÁNH làm tâm ta mềm, một Tánh làm tuệ ta rỗng.
Bây giờ, Ta trở về với suy niệm kết thúc để chìm vào một “cái thấy” dịu dàng tự tại. Đã bao lần trong đời, ta đứng trước một cánh hoa rụng mà không dám chạm, hay lặng người nhìn ánh nắng cuối chiều mà không rõ vì sao tim mình se thắt? Đó không phải là vì buồn, mà là một thứ hiểu, hiểu rằng mọi thứ đang trải qua, đang trôi qua, đang dần phai…và chính vì thế mà nó đẹp.
Và rồi, có những khoảnh khắc, ngắn ngủi như một hơi thở, ta không còn truy cầu, không còn mong cầu bất cứ điều gì nữa. Không cần thắng - thua. Không còn được - mất. Không cần hư danh – hữu danh – chính danh. Cũng không cần di sản lớn - di sản nhỏ!
Rốt lại, Ta chỉ hiện hữu, không là ai, không làm gì, nhưng hiện diện…tràn đầy trong cái Không ấy.
Nếu Vô Thường là tiếng gọi dịu dàng mời ta sống trọn từng phút giây với tình thương, thì Tánh không là lời thì thầm sâu lắng dẫn ta vào cái thấy không còn giới hạn.
Một bên dạy ta khóc và yêu, một bên dạy ta lặng và buông.
Trong một thế giới đầy xáo trộn, ta không cần thêm những triết lý để sở hữu, mà cần một cái thấy để buông đi. Và một khi đã buông đủ, ta có thể ngồi xuống, không vì trốn chạy, mà vì không còn gì phải chạy theo. Lúc đó, Ta trở về với chính Ta là tự do.
Phổ Lập - Mai Thanh Truyết
Đường về Chân tâm - 2025
Subscribe to:
Posts (Atom)