Thursday, February 27, 2025
Dân chủ hóa Việt Nam
Cộng sản Bắc Việt có thể thay đổi từ một chế độ
độc tài thành một thể chế dân chủ hay không?
Nghị quyết 36 ra đời từ năm 2004 và vừa qua, 2024, Nghị quyết 1336 lại xuất hiện nhằm mục tiêu mời gọi/ru ngủ người Việt hải ngoại về đóng góp/giúp nước... Chính TBT CS vừa nhắc đến thành phố Saigon mà vào thập niên 60 ở thế kỷ trước người dân Tân gia Ba mơ ước được sang Bịnh viện Chợ Rẫy để chữa bịnh...mà tại sao ngày nay, đại gia CSBV lại chạy qua Singapore để chữa bịnh? Nhắc nhở và ca ngợi Sài Gòn phải chăng là liều thuốc độc bọc đường cho một số nhẹ dạ ở hải ngoại... mơ ước trở về đóng góp? Xin đừng ảo tưởng!
Vì sao?
Việc Đảng Cộng sản Bắc Việt chuyển đổi từ một chế độ chuyên chính vô sản sang một thể chế dân chủ là một câu hỏi lớn, một tiến trình phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố lịch sử, chính trị, kinh tế và xã hội. Về lý thuyết, không có gì là không thể, nhưng thực tế sẽ phụ thuộc vào nhiều điều kiện.
1- Những yếu tố có thể thúc đẩy sự chuyển đổi
Áp lực từ bên trong, nếu nhu cầu dân chủ hóa đến từ người dân và trong nội bộ đảng gia tăng về sự chuyển hóa sang dân chủ… việc cải cách có thể diễn ra. Các thay đổi có thể bắt đầu từ việc mở rộng quyền tự do ngôn luận, thảo luận chính trị hai chiều trong nội bộ Đảng, hoặc cho phép các tổ chức chính trị ngoài Đảng hoạt động.
Còn áp lực từ bên ngoài do Việt Nam đang có nền kinh tế hội nhập sâu với thế giới, nếu các đối tác kinh tế lớn đặt điều kiện dân chủ hóa để tiếp tục hợp tác, có thể sẽ có những thay đổi dần dần. Tấm gương từ các nước khác như một số nước từng có hệ thống chính trị tương tự đã có sự chuyển đổi, như Đài Loan hay Hàn Quốc, cho thấy mô hình chuyển đổi ôn hòa là có thể xảy ra.
2- Những yếu tố cản trở dân chủ hóa của CSBV
2.1- Tính chính danh của Đảng: Đảng Cộng sản BV từ lâu đã khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, và việc chuyển đổi sang mô hình dân chủ sẽ ảnh hưởng đến quyền lực và quyền lợi của Đảng. Đo đó, với định kiến trên, CSBV khó có thể rũ bỏ giáo điều cố hữu dù đang bị nhiều sức ép của người dân trong nước và thế giới.
2.2- Lợi ích nhóm: Nhiều nhóm lợi ích có thể không muốn thay đổi vì họ đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại. Đang thừa hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi, đa số đảng viên cao cấp khó có thể từ bỏ … miếng ăn béo bở nầy.
2.3. Sự ổn định xã hội: Hiện tại, dưới mắt người CS, xã hội đang ổn định qua trên hàng triệu công an kềm kẹp 100 triệu người dân thì những thay đổi chính trị lớn có thể kéo theo bất ổn, điều mà nhà nước CS luôn muốn tránh.
3- Xác suất có thể xảy ra cuộc dân chủ hóa ở Việt Nam
Một sự chuyển đổi ngay lập tức hoặc hoàn toàn sang một thể chế dân chủ theo kiểu phương Tây là rất khó, nếu không nói là … vô vọng. Tuy nhiên, Việt Nam có thể đi theo hướng cải cách từng bước, mở rộng quyền tự do chính trị và dần dần phát triển một hệ thống có tính cạnh tranh hơn nhưng vẫn giữ được sự kiểm soát của Đảng trong một thời gian dài. Nói như thế có nghĩa là, CSBV thỉnh thoảng có thể mở một vài “nút nghẽn” cho người dân cảm thấy … họ đang dân chủ hóa nhằm hóa giải sự uất nghẹn do chuyên chính vô sản tạo ra!
Như vậy, có phải họ đang nghĩ theo não trạng là nếu thay đổi họ sẽ bị diệt hay bị trả thù như họ đã làm với Việt Nam Cộng Hòa ngay sau 30/4/1975?
Có thể có một bộ phận (lớn/nhỏ?) trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản BV lo sợ rằng nếu họ chấp nhận một sự chuyển đổi sang chế độ dân chủ đa đảng, họ có thể đối mặt với nguy cơ bị trả thù hoặc bị loại bỏ, giống như cách mà họ đã làm đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975.
4- Những lý do có thể dẫn đến nỗi sợ dân chủ hóa
Nếu xét về quá trình lịch sử và tiền lệ của đảng CSBV, sau năm 1975, chính quyền mới đã có những biện pháp mạnh tay như cải tạo tư sản, trại cải tạo tập trung, tịch thu tài sản, đổi dân ra khỏi thành phố v.v… điều này có thể khiến một số người trong bộ máy lãnh đạo tin rằng nếu phe đối lập một khi có cơ hội nắm quyền, họ cũng có thể làm điều tương tự đối với Đảng Cộng sản BV.
Chúng ta thừa biết bản chất của quyền lực độc quyền của CSBV là khi một hệ thống chính trị được xây dựng trên sự kiểm soát tuyệt đối, sự thay đổi lớn có thể kéo theo nguy cơ mất quyền lực hoàn toàn. Các lãnh đạo có thể nghĩ rằng nếu họ mất quyền lực, họ sẽ không có sự bảo vệ và tự bảo vệ làm họ có thể bị trừng phạt vì những gì họ đã làm cho miền Nam trong quá khứ.
Thêm nữa, nỗi ám ảnh lo sợ về sự bất ổn và an toàn bản thân nếu hệ thống chính trị thay đổi đột ngột, có thể xảy ra hỗn loạn hoặc trả thù chính trị mà chính họ là những nạn nhân đầu tiên. Vì vậy, một số lãnh đạo có thể tin rằng cách duy nhất để bảo đảm sự ổn định là duy trì quyền kiểm soát chặt chẽ.
Tuy nhiên, không phải ai trong nội bộ lãnh đạo cũng nghĩ như vậy
• Cũng có những người trong hệ thống muốn cải cách dần dần để thích nghi với một xã hội hiện đại và hội nhập.
• Một số nước từng có chế độ độc đảng nhưng đã chuyển đổi thành công mà không có sự trả thù lớn, chẳng hạn như Đài Loan, nơi Quốc Dân Đảng dần dần chấp nhận dân chủ hóa mà không bị diệt vong.
• Nếu có một lộ trình chuyển đổi hợp lý và có sự vận động của quốc tế, bảo đảm sự an toàn cho giới lãnh đạo hiện tại, thì sự thay đổi có thể diễn ra một cách ôn hòa hơn.
5- Chuyển đổi tiệm tiến dân chủ hóa có thể có tính cách khả thi hơn cả không?
Quả thật vậy!
Nếu có một sự thay đổi đất nước, khả năng cao nhất là nó sẽ diễn ra theo cách tiệm tiến, từng bước một, thay vì một cuộc thay đổi đột ngột và toàn diện. Lý do:
- Giảm rủi ro bất ổn: Một sự thay đổi đột ngột có thể dẫn đến hỗn loạn, trong khi thay đổi dần dần giúp xã hội và bộ máy nhà nước thích nghi mà không gây cú sốc lớn.
- Giữ được sự kiểm soát nhất định: Đảng có thể thử nghiệm những cải cách chính trị từng bước, như mở rộng quyền tự do ngôn luận, cho phép cạnh tranh chính trị trong nội bộ, hoặc cho phép một số tổ chức chính trị không thuộc Đảng hoạt động nhưng vẫn trong khuôn khổ. Chấp nhận đa nguyên đa đảng.
- Học hỏi từ các nước khác: Các quốc gia như Đài Loan, Hàn Quốc đã chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ theo cách từng bước, tránh được xung đột lớn, và có phát triển theo chiều hướng bền vững và kinh tế tiến triển nhanh. Chỉ trong vòng 50 năm hai quốc gia trên đã nằm trong danh sách 20 quốc gia “giàu” trên thế giới
- Thay đổi tiệm tiến có thể là giảm nỗi sợ của giới lãnh đạo: Nếu có một cơ chế bảo đảm cho những người đang nắm quyền rằng họ sẽ không bị trả thù hay loại bỏ hoàn toàn, họ có thể sẵn sàng chấp nhận thay đổi hơn!
6- Tiến trình thay đổi tiệm tiến có thể diễn ra như thế nào?
• Giai đoạn 1: Mở rộng quyền tự do báo chí, giảm kiểm duyệt trên truyền thông, truyền thanh, truyền hình. “Cỡi trói” trên mạng lưới toàn cầu v.v…
• Giai đoạn 2: Cải cách hệ thống bầu cử trong nội bộ Đảng, có thể có nhiều ứng viên “độc lập và ngoài đảng” hơn.
• Giai đoạn 3: Cho phép tổ chức chính trị không thuộc Đảng tham gia vào một số lĩnh vực bắt đầu từ chuyên môn, khoa học kỹ thuật. Lần lần mở rộng sang lĩnh vực quản lý kinh tế, chính trị, cùng tham gia vào việc điều hành quốc gia.
• Giai đoạn 4: Tiến tới một hệ thống cạnh tranh chính trị thực sự nhưng vẫn bảo đảm tính ổn định xã hội.
Tất nhiên, trên đây chỉ là giả thuyết. Mọi chuyện còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, từ ý chí lãnh đạo, sức ép từ xã hội đến tình hình thế giới cũng như phản ứng cứng rắn và dứt khoát của nhóm bảo thủ trong đảng.
Có thể nói dù cho dân chủ hóa một cách tiệm tiến, nhóm bảo trủ trong đảng chắc chắn sẽ ngăn chặn lại vì họ nghĩ sẽ bị mất đặc quyền đặc lợi nếu chuyển sang dân chủ và nhân quyền?
Làm sao triệt tiêu được những nhóm có suy nghĩ nầy vì trong suốt chiều dài lịch sử Đảng CS Bắc Việt từ những năm 1930 trở đi, trong hiện tại thiết nghĩ những người CS giáo điều sẽ không “đầu hàng” và sẽ dứt khoát chống lại. Đặc biệt là những người đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại, sẽ là rào cản lớn đối với bất kỳ sự thay đổi nào. Họ chống lại cải cách vì lo sợ mất quyền lực, lợi ích kinh tế và sự an toàn cá nhân.
7- Làm sao để vô hiệu hóa hoặc vượt qua nhóm giáo điều bảo thủ nầy?
7.1- Tạo áp lực từ bên trong Đảng: Trong Đảng không chỉ có nhóm bảo thủ mà còn có những người muốn cải cách để thích nghi với một xã hội đang thay đổi. Một khi số người muốn cải cách tăng cao. Từ đó có thể tăng thêm sức ép, khóa tay, và áp đảo số bảo thủ giáo điều. Nếu nhóm cải cách có đủ sức mạnh, họ có thể dần dần làm suy yếu ảnh hưởng của phe bảo thủ bằng cách thúc đẩy các chính sách đổi mới từng bước.
7.2- Áp lực từ người dân và xã hội: Một khi dân trí ngày càng cao và xã hội ngày càng cởi mở hơn, áp lực lên giới cầm quyền cũng tăng. Nếu tầng lớp trung lưu, doanh nhân, trí thức cùng đòi hỏi thay đổi, nhóm bảo thủ sẽ khó có thể hoàn toàn phớt lờ. Mạng xã hội, và truyền thông quốc tế cũng có thể giúp tạo ra áp lực gián tiếp lên chính quyền.
7.3- Lợi ích kinh tế buộc phải cải cách: Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế. Nếu các nước đối tác (Mỹ, EU, Nhật...) gây sức ép, buộc Việt Nam phải cải cách chính trị để tiếp tục hưởng lợi kinh tế, điều này sẽ làm lung lay vị trí của nhóm bảo thủ. Một số doanh nghiệp trong nước cũng có thể ủng hộ cải cách vì họ muốn một môi trường kinh doanh minh bạch hơn, không đặt trọng tâm vào sự quen biết (quyền lực) và đúc lót.
7.4- Bảo đảm an ninh/an toàn cho nhóm bảo thủ nếu chấp nhận chuyển đổi
Một trong những lý do nhóm bảo thủ chống lại cải cách là họ sợ mất tất cả. Nếu có cơ chế đảm bảo an toàn cá nhân, tài sản, họ có thể chấp nhận và ít chống cự hơn. Điển hình là Đài Loan và Chile từng có những chính sách giúp giới cầm quyền cũ giữ lại một phần ảnh hưởng hoặc không bị truy tố sau khi chuyển đổi. Và cuối cùng giới nầy cũng sống trong xã hội an toàn trong những ngày cuối đời của họ!
7.5- Sử dụng chiến lược "chia để trị"
Nên nhớ, nhóm bảo thủ giáo điều không phải là một khối đồng nhất. Nếu có thể làm suy yếu họ bằng cách chia rẽ thành các phe nhóm nhỏ hơn (ví dụ: một số người có thể bị thuyết phục tham gia cải cách để giữ vị trí), thì sự kháng cự sẽ giảm lần lần và đi đến bị triệt tiêu.Hình ảnh TBT Nguyễn Phú Trọng đã được Tô Lâm “so kè” ... theo đuôi như kẻ thừa hành. Rốt cục rồi chính Tô Lăm du81t điểm NPT (?) và mỡ ra con đường cải cách theo ý ông ta.
8- Vậy có thể "triệt tiêu" hoàn toàn nhóm bảo thủ giáo điều cực đoan không?
"Triệt tiêu" theo nghĩa loại bỏ hoàn toàn có thể không khả thi và cũng có thể gây ra hỗn loạn. Tuy nhiên, có thể làm suy yếu ảnh hưởng của họ, cô lập họ dần dần, khiến họ không còn khả năng cản trở công cuộc cải cách.
Một cuộc cách mạng bất tuân dân sự như Thánh Mahatma Gandhi trong việc kích động người dân không đóng thuế muối, hay những sự việc như đình công bãi thị, sinh viên học sinh bãi khóa không đến trường, công chức không làm việc, công nhân vệ sinh không hốt rác chỉ độ vài ngày thôi...Hình dung Hà Nội hay Saigon tràn ngập hàng chục ngàn tấc rác khắp nơi trong thành phố dưới mắt thế giới, câu hỏi được đặt ra là cuộc cách mạng VN có thể xảy ra dưới các hình thức kể trên hay không?
9- Những yếu tố có thể khiến cho tranh đấu bất tuân dân sự đạt hiệu quả
9.1- Sự bất mãn xã hội gia tăng: Nếu có một sự kiện lớn khiến người dân mất lòng tin vào chính quyền (như khủng hoảng kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, đàn áp thô bạo, nhứt là đàn áp tôn giáo…), thì khả năng người dân hưởng ứng một phong trào bất tuân dân sự sẽ cao hơn. Còn những yếu tố như ô nhiễm môi trường, đất đai bị tiếm dụng, giá cả sinh hoạt tăng cao có thể là chất xúc tác đẩy mạnh tiến trình tranh đấu mà thôi.
9.2- Tính tổ chức và lan tỏa: Phong trào bất tuân dân sự chỉ thành công nếu có sự tổ chức chặt chẽ và lan tỏa rộng. Nếu một nhóm nhỏ thực hiện, chính quyền có thể dễ dàng kiểm soát. Nhưng nếu nhiều tầng lớp xã hội cùng tham gia (học sinh, sinh viên, công nhân, doanh nghiệp…), áp lực sẽ rất lớn.
9.3- Sự ủng hộ của giới trí thức, doanh nhân, công nhân: Một cuộc đình công lớn trong ngành công nghiệp, bãi thị của giới thương gia, hoặc bãi khóa của sinh viên có thể gây ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế và đời sống hàng ngày. Yếu tố nầy có thể được xem như là một yếu tố quyết định vì sự phối hợp trên thể hiện mọi tầng lớp trong dân chúng, một sức mạnh tổng lực cho cuộc tranh đấu.
9.4- Tác động tâm lý: Nếu người dân thấy phong trào bất tuân dân sự có thể đạt được kết quả mà không cần bạo lực, họ sẽ có động lực tham gia nhiều hơn. Hiện nay, nhiều người còn mang tâm lý sợ hãi vì lo sợ bị đàn áp. Nhưng nếu có một phong trào được tổ chức rộng rãi, tập hợp đông đảo nhân sự tham gia, nỗi sợ hãi trên sẽ biến đi…
10- Những rào cản lớn đối với sự tranh đấu bất tuân dân sự ở Việt Nam
Sự kiểm soát chặt chẽ về anh ninh - chính trị của chính quyền: Chính quyền có kinh nghiệm đối phó với các phong trào phản kháng. Họ có thể nhanh chóng đàn áp, chia rẽ, hoặc vô hiệu hóa các cuộc đình công, bãi khóa bằng cách bắt giữ người tổ chức, tạo sức ép lên doanh nghiệp, trường học...Internet và truyền thông xã hội cũng bị kiểm soát, gây khó khăn cho việc lan truyền thông tin và tổ chức phong trào. Cộng thê, sự thụ động của dân chúng. Không phải ai cũng sẵn sàng tham gia một phong trào đòi thay đổi, vì nhiều người vẫn còn tâm lý "an phận" hoặc lo sợ bị trừng phạt". Nếu không có một sự kiện lớn gây chấn động xã hội, rất khó để huy động số đông cùng tham gia.
Kinh tế cá nhân bị ảnh hưởng: Nếu công nhân đình công, bãi thị kéo dài, họ cũng sẽ mất thu nhập, ảnh hưởng đến nồi cơm của gia đình họ. Đây là một lý do khiến nhiều người do dự khi tham gia. Nếu không có một nguồn hỗ trợ tài chính, phong trào dễ bị suy yếu. Nhiều người tin rằng dù bất mãn, nhưng hệ thống cầm quyền hiện tại chưa "đủ yếu để sụp đổ", nên họ không muốn mạo hiểm.
11- Kết luận: Bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam không?
- Có thể xảy ra, nhưng không dễ và cần một sự kiện đột biến lớn để kích hoạt.
- Nếu có đủ sự phẫn nộ xã hội, sự tổ chức chặt chẽ, và sự lan tỏa rộng rãi, một phong trào bất tuân dân sự có thể tạo áp lực rất lớn lên nhà cầm quyền.
- Tuy nhiên, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, khả năng đàn áp của cường quyền vẫn rất mạnh, và phong trào có thể bị dập tắt từ trong trứng nước.
Bất tuân dân sự có thể xảy ra ở Việt Nam trong điều kiện hiện tại (2025) nầy không?
Câu trả lời là có thể, nhưng không dễ dàng và cần nhiều điều kiện thuận lợi để có thể thành công.
• Bất tuân dân sự có thể xảy ra, nhưng chỉ khi có một sự kiện đủ lớn để kích hoạt sự phản kháng tập thể và một tổ chức đứng ra lãnh đạo phong trào.
• Nếu không có tổ chức và kế hoạch cụ thể, phong trào có thể bị dập tắt nhanh chóng.
• Hiện tại, phong trào bất tuân dân sự ở Việt Nam vẫn còn manh mún và chưa có đủ điều kiện để thành công.
Công cuộc dân chủ hóa Việt Nam vào thời điểm hiện tại là một câu hỏi lớn, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chính trị, xã hội, kinh tế và quốc tế. Dưới góc nhìn thực tế, có một số lý do khiến tiến trình này khó xảy ra ngay lập tức, nhưng cũng có những động lực có thể thúc đẩy thay đổi trong dài hạn.
Dân chủ hóa Việt Nam ngay lúc này là khó xảy ra vì hệ thống kiểm soát chính trị của cường quyền vẫn còn rất chặt chẽ và nền kinh tế tương đối đủ ổn định để duy trì tính chính danh của cường quyền. Tuy nhiên, trong dài hạn, sự phát triển công nghệ, áp lực từ xã hội và các yếu tố địa chính trị có thể thúc đẩy quá trình cải cách theo hướng mở hơn. Nếu có thay đổi, nó có thể diễn ra dần dần, dưới dạng các cải cách chính trị từng bước hơn là một cuộc chuyển đổi đột ngột.
Trừ phi có những đột biến trên thế giới như Trung Hoa cộng sản tan rã giống như Liên Xô năm 1991 vì một khủng hoảng nội tại của quốc gia nầy. Điều nầy có xảy ra vì Trung Cộng hiện đang trong tình trạng xâu xé nội bộ, và Tập Cận Bình hiện ở trong tư thế đối đầu trực diện với thành phần trẻ và sức khỏe không ổn định do bệnh hoạn, cộng thêm sức phẫn nộ của 600 triệu dân chúng đang sống trong tình trạng kinh tế đình trệ. Chính điều sau cùng sẽ là lò thuốc súng nổ chậm vì cuộc chiến kinh tế về “giá cả và thuế khóa” với Hoa Kỳ.
Tại sao chúng ta không có quyền mong ngày đó sớm xảy ra?
Mai Thanh Truyết
Con đường dân chủ hóa Việt Nam
Houston – 3/1/2025
Saturday, February 15, 2025
Các chữ cái, tên của Vitamin tượng trưng cho điều gì?
Phỏng dịch từ bài viết của tác giả Rachel Gresh dưới đây
Bạn đã bao giờ tự hỏi vitamin được đặt tên như thế nào chưa?
Đây là ABC của danh pháp vitamin.
Đã đến lúc phá bỏ một số huyền thoại: Chữ "C" trong "vitamin C" không phải là "cam quýt", mặc dù chất dinh dưỡng này nổi tiếng là có nhiều trong các loại trái cây họ cam quýt. Khoa học bắt đầu khám phá khả năng độc đáo của vitamin cách đây khoảng 100 năm và đặt tên cho các hợp chất thiết yếu bằng cách làm nổi bật các thuộc tính và thứ tự khám phá của chúng.
Năm 1920, nhà sinh hóa người Ba Lan Casimir Funk đã đặt ra thuật ngữ "vitamin", bắt nguồn từ từ tiếng Latin có nghĩa là sự sống (vita) và "amine", một hợp chất giàu nitơ (có trong chất đạm – protein, lời người dịch). Trước khi có thuật ngữ này, vào những năm 1890, một hợp chất đã được xác định có tác dụng ngăn ngừa bệnh phù thũng (tê phù) (beriberi), một căn bệnh thường gặp ở những người đi biển. Do cách ứng dụng này, cuối cùng nó được đặt tên là vitamin B.
Tiếp theo vào năm 1918, vitamin A được nhà khoa học dinh dưỡng Elmer McCullum xác định là "vitamin A tan trong chất béo". Trong khi tiến hành các thí nghiệm về thực phẩm, ông đã tìm thấy một chất "phụ gia" trong một số chất béo, chọn "A" làm biệt danh của nó. Tên này được đổi thành "vitamin A" vào năm 1920 với sự ra đời của "vitamin" của Funk.
Từ đó, Vitamin A và B đã thiết lập một quy ước đặt tên theo chữ cái với vitamin C, D và E theo sau theo thứ tự chữ cái và theo thứ tự khám phá.
Năm 1929, nhà khoa học người Đan Mạch Carl Peter Henrik Dam đã xác định được một hợp chất mới, nếu tuân theo tiêu chuẩn, thì hợp chất này sẽ được đặt tên là "vitamin F". Tuy nhiên, Dam đã chọn "vitamin K" để chỉ từ tiếng Đan Mạch blodkoagulation (đông máu), nhấn mạnh vai trò của vitamin trong quá trình này.
Sau đó, các nhà nghiên cứu đã xác định được nhiều dạng vitamin khác nhau trong các danh mục chữ cái. Họ đã xác định và đánh số chúng trong vài thập kỷ tiếp theo, bắt đầu với khám phá sớm nhất, vitamin B1 hoặc thiamine, được đặt theo tên tiếng Hy Lạp của lưu huỳnh, theion.
Đến những năm 1930 và 1940, 13 loại vitamin thiết yếu: A, C, D, E, K và tám loại vitamin B, đã được xác định và đặt tên. Trong đó có vitamin B7 hoặc biotin, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp biotos, có nghĩa là "sự sống", và vitamin B9 hoặc axit folic, bắt nguồn từ tiếng Latin folium, có nghĩa là "chiếc lá", ám chỉ sự phong phú của nó trong các loại rau lá xanh.
Mặc dù tên của các loại vitamin có vẻ quá sức hoặc thậm chí là tùy ý khi bạn nhìn vào các hàng số và chữ cái tại hiệu thuốc, nhưng mỗi loại đều được lựa chọn cẩn thận để thể hiện thứ tự khám phá hoặc phản ánh các đặc tính độc đáo của nó.
Không chỉ là một chữ cái; mà là tên của một loại vitamin phản ánh lịch sử của nó.
***
What Do the Letters of Vitamins Stand For?
by Rachel Gresh
It’s time for some myth-busting: The “C” in “vitamin C” does not stand for “citrus,” though the nutrient is famously abundant in citrus fruits. Science began exploring the unique capabilities of vitamins around 100 years ago, and named the essential compounds by highlighting their attributes and order of discovery.
In 1920, Polish biochemist Casimir Funk coined the term “vitamin,” derived from the Latin word for life (vita) and “amine,” a nitrogen-rich compound. Before this coinage, in the 1890s, a compound was identified that prevented beriberi, a disease that commonly afflicted sailors. Due to this usage, it was eventually named vitamin B.
Next up in 1918, vitamin A was identified as “fat-soluble A” by nutrition scientist Elmer McCullum. While conducting food experiments, he found an “accessory” substance in some fats, choosing “A” as its epithet. The name was changed to “vitamin A” in 1920 with the coining of Funk’s “vitamin.” Vitamins A and B established an alphabetic naming convention with vitamins C, D, and E following suit alphabetically and in order of discovery.
In 1929, Danish scientist Carl Peter Henrik Dam identified a new compound that, if the standard were followed, should have been named “vitamin F.” However, Dam chose “vitamin K” in reference to the Danish word blodkoagulation (blood coagulation), emphasizing the vitamin’s role in this process.
Later, researchers identified various forms of vitamins within the letter categorizations. They identified and numbered them during the next few decades, beginning with the earliest discovery, vitamin B1, or thiamine, named after the Greek word for sulfur, theion. By the 1930s and 1940s, 13 essential vitamins — A, C, D, E, K, and the eight B vitamins — had been identified and named. This includes vitamin B7 or biotin, which comes from the Greek biotos, meaning “life,” and vitamin B9 or folic acid, which derives from the Latin folium, meaning “a leaf,” a nod to its abundance in green, leafy vegetables.
While the names of vitamins might seem overwhelming or even arbitrary when you’re staring at the rows of numbers and letters at the drugstore, each was carefully selected to represent its order of discovery or reflect its unique properties. It’s more than just a letter; a vitamin’s name reflects its history.
Thursday, February 6, 2025
Nếu Bộ Giáo dục Liên bang bị dẹp bỏ!
Sắc lịnh hành pháp của TT Trump cách đây vài ngày công bố sẽ đóng cửa (dismantle) Bộ Giáo dục Liên bang vì hai lý do chính yếu: - Tinh giản nhân viên liên bang vối đã kồng kềnh (?), - Và giảm bớt gang nặng tài chánh của liên bang.
Nếu làm được điều trên, chính phủ liên bang sẽ:
• Tiết kiệm được 238 tỷ cho ngân sách năm 2025. Bộ Giáo dục có 4.100 nhân viên toàn thời gian. Hơn 1000 nhân viên tại Bộ Giáo dục được trả hơn 160.000 đô la một năm. 90 nhân viên kiếm được hơn 200.000 đô la một năm, gấp bốn lần mức lương trung bình của một giáo viên.
• Bộ Giáo dục liên bang đang làm gì? Không làm gì cả, ngoài các lệnh tạp nhạp như dạy sinh lý cho học sinh mẫu giáo, phát tán sách khiêu dâm, cho Nam được phép dùng cầu tiêu nữ, để bao cao su hay băng vệ sinh trong nhà cầu Nam.. Dẹp bộ giáo dục liên bang, giao chuyện quản lý giáo dục cho bộ giáo dục tiểu bang là điều hợp lý.
1- Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Bộ GDLB bị dẹp bỏ?
Nếu có một sắc lệnh hành pháp nhằm dẹp bỏ Bộ Giáo dục Liên bang (U.S. Department of Education), điều nầy sẽ là một bước đi gây tranh cãi lớn, với nhiều tác động quan trọng đến hệ thống giáo dục Mỹ.
1.1- Lợi ích có thể có:
Tăng quyền tự chủ cho tiểu bang và địa phương: Một số người cho rằng giáo dục nên do các tiểu bang và địa phương quyết định, vì họ hiểu rõ nhu cầu của cộng đồng tại mỗi địa phương hơn là chính phủ liên bang.
Giảm chi phí hành chính: Việc cắt giảm một cơ quan liên bang có thể giúp tiết kiệm ngân sách và giảm bớt quan liêu.
Giảm sự can thiệp của chính phủ liên bang: Một số người tin rằng chính phủ liên bang áp đặt quá nhiều quy định và tiêu chuẩn cứng ngắt, gây khó khăn cho các trường học địa phương.
1.2- Những vấn đề tiềm ẩn:
Gây hỗn loạn trong hệ thống giáo dục: Bộ Giáo dục liên bang đóng vai trò trong việc điều phối chính sách, hỗ trợ tài chính, và bảo đảm phẩm chất giáo dục. Nếu bị loại bỏ đột ngột, nhiều chương trình có thể bị ảnh hưởng.
Giảm ngân sách cho các trường học nghèo: Bộ Giáo dục liên bang cấp nhiều khoản tài trợ cho các trường học có thu nhập thấp, học sinh khuyết tật, và chương trình hỗ trợ sinh viên. Nếu bị dẹp bỏ, ai sẽ đảm trách các nguồn tài trợ này tiếp tục được phân bổ hợp lý, điều mà các học khu hay chính phủ tiểu bang hay địa phương kho cáng đáng được.
Thiếu tiêu chuẩn thống nhứt quốc gia: Quan trọng hơn hết, Hiện tại, Bộ GDLB giúp duy trì một số tiêu chuẩn chung toàn quốc, ví dụ như bảo vệ quyền lợi sinh viên hoặc yêu cầu trách nhiệm giải trình từ các trường học. Nếu quyền lực hoàn toàn thuộc về các tiểu bang, phẩm chất giáo dục sẽ rất phức tạp khó tạo sự đồng nhứt vì điều kiện xã hội ở mỗi địa phương hay tiểu bang khác nhau về giàu-nghèo. sắc tộc và văn hóa dị biệt v.v…
Tóm lại, việc dẹp bỏ Bộ Giáo dục liên bang có thể làm tăng quyền tự quản của các tiểu bang, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ gây mất cân bằng giáo dục và giảm hỗ trợ cho những nhóm học sinh yếu thế, những con em đến từ các quốc gia khác trên thế giới không cùng một ngôn ngữ. Nếu có một lệnh như vậy, điều quan trọng là phải có một kế hoạch thay thế rõ ràng để bảo đảm giáo dục không bị gián đoạn và quyền lợi của học sinh vẫn được bảo vệ.
Tổng thống Donald Trump đang soạn thảo một sắc lệnh hành pháp nhằm giải thể Bộ Giáo dục Liên bang. Kế hoạch này bao gồm hai giai đoạn:
• Yêu cầu Bộ trưởng Giáo dục lập kế hoạch giảm nhân sự thông qua các biện pháp hành pháp.
• Thúc đẩy Quốc hội thông qua dự luật chính thức giải thể Bộ Giáo dục, vì việc đóng cửa hoàn toàn cơ quan này cần có sự chấp thuận của Quốc hội.
Tuy nhiên, việc giải thể Bộ Giáo dục liên bang sẽ gặp nhiều thách thức, do cần phải có sự đồng thuận từ Quốc hội và có thể đối mặt với sự phản đối từ các tiểu ban quốc hội liên quan trong lĩnh vực giáo dục.
2- Hệ quả trước mắt và lâu dài lên giáo dục Mỹ sẽ như thế nào?
Nếu Bộ Giáo dục Liên bang bị dẹp bỏ, hệ quả đối với hệ thống giáo dục Mỹ sẽ diễn ra theo hai giai đoạn, trước mắt và lâu dài.
2.1- Hệ quả trước mắt
Gián đoạn ngân sách và hỗ trợ tài chính từ liên bang: Bộ GDLB cung cấp hàng chục tỷ USD tài trợ cho các trường học, đặc biệt là các trường có tỷ lệ học sinh có thu nhập thấp. Các chương trình hỗ trợ sinh viên, như Pell Grants hay các khoản vay liên bang, có thể bị trì hoãn hoặc mất đi nếu không có kế hoạch thay thế rõ ràng.
Mất điều phối giáo dục cấp liên bang: Hiện tại, Bộ Giáo dục đảm nhận vai trò giám sát chính sách và tiêu chuẩn giáo dục toàn quốc. Nếu bị giải thể, mỗi bang sẽ có quyền tự quyết, có thể dẫn đến sự hỗn loạn tạm thời khi các bang tìm cách quản lý giáo dục theo cách riêng. Các chương trình liên bang như hỗ trợ giáo viên, chương trình giáo dục đặc biệt (IDEA), và các sáng kiến giáo dục STEM có thể bị ngừng hoặc giảm hiệu lực vì không có ngân sách của liên bang.
Tác động đến học sinh khuyết tật và các nhóm học sinh yếu kém: Luật giáo dục đặc biệt (IDEA) và Đạo luật Không để học sinh nào bị bỏ lại phía sau (NCLB) phụ thuộc phần lớn vào sự giám sát của Bộ GDLB. Nếu không có sự điều phối từ liên bang, quyền lợi của học sinh khuyết tật, học sinh da màu, và học sinh có hoàn cảnh khó khăn có thể bị đe dọa khi các bang có cách tiếp cận khác nhau đối với các nhóm này.
2.2- Hệ quả lâu dài
Phẩm chất giáo dục sẽ không đồng đều giữa các tiểu bang: Nếu không có tiêu chuẩn liên bang, các bang có thể tự quyết định nội dung giảng dạy, tiêu chuẩn đánh giá và yêu cầu tốt nghiệp. Điều này có thể dẫn đến sự phân hóa lớn trong phẩm chất giáo dục giữa các tiểu bang giàu và nghèo, làm trầm trọng hơn vấn đề bất bình đẳng giáo dục trên toàn quốc.
Giảm khả năng tiếp cận giáo dục đại học: Hệ thống hỗ trợ tài chính sinh viên có thể bị thu hẹp hoặc chuyển sang mô hình tư nhân, khiến học phí đại học tăng cao hơn và làm giảm cơ hội tiếp cận của sinh viên có thu nhập thấp. Nhiều trường đại học phụ thuộc vào tài trợ liên bang để duy trì học bổng và chương trình hỗ trợ sinh viên. Nếu mất đi nguồn này, chi phí học tập sẽ tăng vọt làm cho sĩ số sinh viên giảm. Từ đó, đại học mất d8i nguồn tài chánh để điều hành và mời gọi những giao sư có tầm vóc để giảng dạy và làm tăng uy tín của trường.
Ảnh hưởng đến nghiên cứu và phát triển giáo dục: Bộ Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ nghiên cứu giáo dục và phát triển phương pháp giảng dạy mới. Việc loại bỏ cơ quan này có thể làm giảm nguồn tài chánh cho nghiên cứu giáo dục, ảnh hưởng đến khả năng đổi mới và nâng cao phẩm chất dạy học trên toàn quốc.
Ảnh hưởng đến vị thế giáo dục Mỹ trên thế giới: Mỹ hiện đang dẫn đầu về giáo dục đại học, nhưng nếu hệ thống K-12 trở nên kém đồng nhất và kém trình độ, thế hệ sinh viên tương lai có thể không còn đủ sức cạnh tranh với các nước khác. Điều đó có thể khiến Mỹ sẽ bị thụt lùi trong các lĩnh vực về phát kiến và công nghệ so với các quốc gia như TC, Đức, hay Nhựt!
3- Quan điểm của người viết
Nếu Bộ Giáo dục liên bang bị dẹp bỏ mà không có kế hoạch thay thế phù hợp, hệ thống giáo dục Mỹ sẽ đối mặt với tình trạng hỗn loạn trước mắt và suy giảm chất lượng lâu dài, đặc biệt đối với học sinh nghèo, học sinh khuyết tật và sinh viên đại học. Tuy nhiên, nếu các tiểu bang có thể tự điều hành hiệu quả và tìm ra nguồn ngân sách thay thế, một số khu vực có thể hưởng lợi từ quyền tự chủ lớn hơn.
Do đó, quyết định loại bỏ Bộ GDLB là một quyết định cần phải cân nhắc hết sức kỷ lưỡng.
Một quyết định “trung dung” là chính phủ liên bang cần nên điều nghiên nhiều chi tiết và dữ kiện hơn nữa như việc cải tổ gánh nặng hành chính của Bộ Giáo dục Liên bang cần một chiến lược toàn diện để giảm thiểu bộ máy quan liêu, tăng cường hiệu quả hoạt động và tập trung nhiều hơn vào việc hỗ trợ giáo dục có phẩm chất cao.
Dưới đây là một số biện pháp mà chính phủ liên bang có thể thực hiện:
Đơn giản hóa thủ tục và quy định: Cắt giảm các quy định phức tạp, không cần thiết đối với trường học, giáo viên và sinh viên. Hợp lý hóa các nhu cầu về báo cáo để giảm gánh nặng hành chính cho các cơ sở giáo dục trung ương và địa phương.
Trao quyền nhiều hơn cho tiểu bang và địa phương: Chuyển giao một số trách nhiệm của Bộ GDLB cho các tiểu bang, các ty giáo dục (school district), và trường học, giúp họ tự chủ hơn trong việc quản lý giáo dục. Chánh phủ cần điều nghiên việc cung cấp tài trợ theo kiểu khối (block grants) thay vì tài trợ theo chương trình, giúp các địa phương linh hoạt sử dụng nguồn lực. Chính điều nầy sẽ làm giảm bớt nhân viên/chuyên viên trong việc điều hợp.
Tối ưu hóa quy trình cấp học bổng và hỗ trợ tài chính: Đơn giản hóa quy trình đăng ký FAFSA (Free Application for Federal Student Aid) để sinh viên dễ tiếp cận hơn. Tinh giản số lượng chương trình hỗ trợ chồng chéo lẫn nhau nhằm tập trung vào các quỹ tài trợ thực tế, hợp lý và có hiệu quả hơn.
Ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu suất: Áp dụng AI và tự động hóa để thanh lý hồ sơ nhanh hơn, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhân viên giáo dục. Cộng thêm việc khai triển các khung giảng dạy trên Zoom hay mạng trực tuyến giúp giáo viên, phụ huynh và sinh viên truy cập giáo trình hay trực tiếp hấp thụ từ giảng viên dễ dàng hơn.
Cải tổ cơ cấu nhân sự và ngân sách: Cần tái cấu trúc bộ máy nhân sự để giảm số lượng vị trí hành chính không cần thiết cũng như cắt giảm các chương trình kém hiệu quả để tập trung ngân sách vào cải thiện phẩm chất giáo dục.
Đối với các trường tư lập: Vì chủ trương của Hoa Kỳ là giáo dục tự trị, cho nên viêc xen vào giáo án, giáo trình, cũng như chương trình học ở mỗi nơi là một vấn đề cấm kỵ. Nhưng khi nhìn lại xã hội Mỹ trong vòng 10 năm trở lại đây, nhứt là trong giới sinh viên đã được “nhồi nhét” vào nhiều tư tường quá “tiến bộ”(?) khiến cho con đường giáo dục Mỹ hiện tại đã đi nhiều bước quá xa vì những khuynh hướng của giảng viên thiên về chính trị, tôn giáo, giới tính quá tự do đôi khi làm mất tính nhân bản của
đời thường”, đi đến không tưởng, không ứng hợp với khoa học và thực tế.
Xin đề nghị chính phủ liên bang động não nhằm giảm bớt hay chấm dứt những hiện tượng trên hầu tái lập quy củ của Đại học nhưng không vi phạm chủ trương … tự trị đại học
Tất cả việc cải tổ đề nghị trên không chỉ giúp giảm gánh nặng hành chính mà còn nâng cao hiệu quả của hệ thống giáo dục liên bang, tạo ra môi trường học tập tốt hơn cho học sinh, sinh viên và giảng viên, và nhứt là xây dựng lại một xã hội nhân bản ở Hoa Kỳ.
Mai Thanh Truyết
Cựu Giảng sư, Trưởng ban Hóa học
Đại học Sư Phạm Saigon trước 1975
Houston 6/2/2025
Wednesday, February 5, 2025
Những lý do hành pháp TT Trump ra lệnh cải tổ CDC
và rút khỏi WHO
Vào ngày 26/1/2025, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã yêu cầu toàn bộ nhân viên lập tức ngừng hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), theo các thông báo nội bộ được công bố. Theo một văn bản do ông John Nkengasong, một quan chức cao cấp của CDC, gửi tới lãnh đạo cơ quan, tất cả nhân viên đang làm việc với WHO dưới mọi hình thức, bao gồm các nhóm chuyên gia kỹ thuật, trung tâm điều phối, hội đồng tư vấn, thỏa thuận hợp tác hoặc các hình thức trực tiếp và trực tuyến, đều phải tạm ngừng các hoạt động ngay lập tức và "chờ hướng dẫn thêm". Lệnh này cũng cấm các nhân viên CDC đến thăm trụ sở hoặc văn phòng WHO.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC).
Quyết định trên được đưa ra sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành một sắc lệnh hành pháp để bắt đầu quá trình rút Mỹ khỏi WHO. Tuy nhiên, việc này không thể diễn ra ngay lập tức vì cần Quốc hội phê chuẩn, đồng thời Mỹ phải thông báo trước một năm và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với WHO trong năm tài chính hiện tại.
Các chuyên gia y tế cảnh báo rằng hành động bất ngờ này có thể làm chậm trễ các nỗ lực quốc tế trong việc kiểm soát các đợt bùng phát của virus Marburg, bệnh đậu mùa khỉ ở châu Phi, cũng như nhiều nguy cơ y tế khác trên toàn cầu. Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng hợp tác của các cơ quan y tế trong việc theo dõi những đợt bùng phát cúm gia cầm ở Mỹ.
TS Jeffrey Klausner, chuyên gia tại Đại học Nam California, nhận định rằng việc ngừng trao đổi với WHO là một vấn đề lớn. Ông nhấn mạnh rằng hợp tác với WHO mang lại lợi ích đôi bên, với những thông tin thu được có thể giúp bảo vệ người dân Mỹ cả trong nước lẫn ngoà i nước.
Chính quyền TT Donald Trump đã đưa ra một số quyết định ảnh hưởng đến hoạt động của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC). Cụ thể nhứt, CDC đã được yêu cầu rút lại các bài báo khoa học có sự tham gia của các nhà nghiên cứu của họ, nhằm loại bỏ những ngôn ngữ không phù hợp với sắc lệnh hành pháp công nhận chỉ có hai giới tính: nam và nữ. Các thuật ngữ như "giới tính", "chuyển giới", "LGBT" và "phi nhị nguyên" bị yêu cầu loại bỏ. (LGBT là viết tắt của Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender, tức là những người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới. Thuật ngữ này đại diện cho một cộng đồng những người có xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới không phải là dị tính hay theo giới tính sinh học thông thường. Phi nhị nguyên (Non-binary) là một thuật ngữ dùng để chỉ những người không xác định bản dạng giới của mình là hoàn toàn nam hoặc nữ. Họ có thể cảm thấy mình thuộc cả hai giới, nằm giữa hai giới, hoặc không thuộc bất kỳ giới nào. Một số thuật ngữ liên quan khác có thể bao gồm genderqueer, genderfluid, agender... Những người phi nhị nguyên thường không tuân theo các chuẩn mực giới truyền thống.)
Ngoài ra, các nhà khoa học của CDC cũng được chỉ đạo rút tên khỏi các bài báo đồng tác giả với các tổ chức bên ngoài. Các chuyên gia y tế công cộng và biên tập viên tạp chí đã chỉ trích động thái này, cho rằng nó có thể cản trở việc đáp ứng nhu cầu y tế của các nhóm dân số đa dạng và đặt ra câu hỏi về tính hợp pháp của nó.
Bên cạnh đó, chính quyền đã tạm thời ngừng các thông báo công khai từ các cơ quan y tế liên bang, yêu cầu phải có sự phê duyệt từ một quan chức được bổ nhiệm chính trị trước khi công bố. Việc này ảnh hưởng đến các thông tin từ CDC, Viện Y tế Quốc gia (NIH) và Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), bao gồm các ấn phẩm như Báo cáo Hàng tuần về Bệnh tật và Tử vong của CDC. Mặc dù có một số ngoại lệ cho các chức năng quan trọng, động thái này đã gây lo ngại về việc có thể làm chậm trễ việc truyền tải thông tin y tế công cộng quan trọng.
Những động thái này phản ảnh quan điểm của chính quyền TT Trump về việc điều chỉnh các hoạt động y tế công cộng và hợp tác quốc tế theo các chính sách và ưu tiên mới.
reuters.com
CDC orders pullback of new scientific papers involving its researchers, source says
3 ngày trước
apnews.com
Trump administration freezes many health agency reports and online posts
14 ngày trước
theguardian.com
Travel, grant and funding cuts 'stifling' US health agencies in new Trump era
12 ngày trước
1- Những chương trình khác của CDC vẫn được giữ nguyên?
Gần đây, một số chương trình và hoạt động của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã bị ảnh hưởng do các chính sách mới từ chính quyền TT Donald Trump. Cụ thể:
• Gỡ bỏ dữ liệu và trang web: CDC đã tạm thời gỡ bỏ trang dữ liệu chính của mình để tuân thủ Sắc lệnh Hành pháp 14168, liên quan đến việc loại bỏ các nội dung về "ý thức hệ giới tính". Ngoài ra, các công cụ như Chỉ số Tổn thương Xã hội và Chỉ số Công bằng Môi trường cũng đã bị gỡ bỏ.
• Hạn chế thông tin công khai: Chính quyền đã tạm thời ngừng các thông báo công khai từ các cơ quan y tế liên bang, bao gồm CDC, yêu cầu phải có sự phê duyệt từ một quan chức được bổ nhiệm chính trị trước khi công bố. Việc này ảnh hưởng đến các ấn phẩm như Báo cáo Hàng tuần về Bệnh tật và Tử vong của CDC.
• Ngừng hợp tác quốc tế: CDC đã được yêu cầu ngừng hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bao gồm việc tham gia vào các nhóm kỹ thuật và hội đồng tư vấn. Quyết định này được đưa ra sau khi Mỹ bắt đầu quá trình rút khỏi WHO.
Những thay đổi này có thể ảnh hưởng đến khả năng của CDC trong việc thực hiện một số chương trình và cung cấp thông tin y tế công cộng. Tuy nhiên, hiện chưa có thông tin chi tiết về mức độ ảnh hưởng đến tất cả các chương trình của CDC. Một số chương trình có thể tiếp tục hoạt động bình thường, trong khi những chương trình khác có thể bị điều chỉnh hoặc tạm dừng.
2- Còn vần đề tiêm vaccine thì sao?
Gần đây, các chương trình tiêm chủng của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã chịu ảnh hưởng từ các chính sách mới của chính quyền Tổng thống Donald Trump. Cụ thể, CDC đã loại bỏ một số khuyến nghị về bệnh lây truyền qua đường tình dục và vaccine sau khi Tổng thống Trump ban hành sắc lệnh liên quan đến vấn đề giới tính.
Ngoài ra, Tổng thống Trump đã đề cử ông Robert F. Kennedy Jr. làm lãnh đạo Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ (HHS). Ông Kennedy nổi tiếng với quan điểm hoài nghi về vaccine và đã từng liên kết việc tiêm chủng với chứng tự kỷ - autism, mặc dù mối liên hệ này đã bị bác bỏ bởi cộng đồng khoa học. Việc bổ nhiệm này có thể ảnh hưởng đến các chính sách tiêm chủn g trong tương lai.
Trong hình bên cạnh, trẻ em từ sơ sinh đến 1 tuổi, vào năm 1986 chỉ tiêm 5 mũi thuốc chủng ngừa, còn trẻ sinh năm 2024 phải tiêm 32 mũi chủng ngừa!!!
Tuy nhiên, hiện tại chưa có thông tin chính thức về việc chấm dứt hoàn toàn các chương trình tiêm chủng. CDC vẫn tiếp tục khuyến nghị tiêm vaccine cho cộng đồng. Để cập nhật tin tức mới nhất, bà con nên theo dõi các thông báo chính thức từ CDC và Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Mỹ.
Câu hỏi được đặt ra là: Có dư luận cho rằng trong vaccine có chứa vi lượng hormone triệt sản, đặc biệt là vaccine ngừa bịnh Ebola ở Phi Châu. Vì sau nầy thông kê cho biết đàn bà Phi châu không còn sanh sản nhiều nữa? Và dư luận cũng cho rằng vaccine chống Covid cũng có chứa hormone triệt sản nữa.
Các tuyên bố về việc vaccine chứa hormone triệt sản, đặc biệt là trong vaccine Ebola hoặc vaccine COVID-19, đều không có bằng chứng khoa học đáng tin cậy. Đây là những thông tin thường được lan truyền trong các thuyết âm mưu và chưa được xác minh bởi bất kỳ cơ quan y tế nào có uy tín như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hay Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC).
2.1- Về vaccine Ebola và vấn đề sinh sản ở châu Phi
• Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy vaccine Ebola chứa hormone triệt sản.
• Một số tổ chức y tế ở châu Phi đã bác bỏ cáo buộc này, cho rằng đây là thông tin sai lệch nhằm gây hoang mang và làm giảm tỷ lệ tiêm chủng.
• Sự suy giảm tỷ lệ sinh ở một số khu vực châu Phi có thể liên quan đến các yếu tố kinh tế, xã hội, sức khỏe môi trường, hoặc tác động gián tiếp từ dịch bệnh và không thể khẳng định rằng vaccine là nguyên nhân chính.
2.2 - Vaccine COVID-19 và hormone triệt sản
• Vaccine COVID-19 đã được phát triển dựa trên công nghệ mRNA (Pfizer, Moderna) hoặc vector virus (AstraZeneca, Johnson & Johnson), không có cơ chế nào có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
• Các nghiên cứu lâm sàng và dữ liệu thực tế sau khi tiêm chủng trên hàng tỷ người không cho thấy bất kỳ ảnh hưởng nào đến khả năng sinh sản của nam hay nữ.
• WHO, CDC và nhiều tổ chức y tế khác đã nhiều lần xác nhận rằng vaccine COVID-19 không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
2.3- Nguồn gốc của các tin đồn
• Tin đồn về vaccine chứa hormone triệt sản xuất hiện nhiều lần trong lịch sử, thường đi kèm với các chiến dịch chống tiêm chủng.
• Một số nhóm đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết và lo ngại của người dân để lan truyền thông tin sai lệch.
• WHO đã lên tiếng bác bỏ các thuyết âm mưu này nhiều lần, nhấn mạnh rằng vaccine được kiểm định nghiêm ngặt trước khi đưa vào sử dụng.
3- Những điều hành pháp Trump cấm CDC có ứng hợp với thực tế hay không?
Các sắc lệnh hành pháp của Tổng thống Donald Trump nhằm hạn chế hoạt động của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã gây ra nhiều tranh cãi và lo ngại trong cộng đồng y tế.
Ngừng hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Việc yêu cầu CDC ngừng hợp tác với WHO ngay lập tức đã được thực hiện sau khi Tổng thống Trump ban hành sắc lệnh hành pháp để bắt đầu quá trình rút Mỹ khỏi WHO. Quyết định này đã gây ra lo ngại về khả năng ứng phó với các vấn đề y tế toàn cầu và sự phối hợp trong việc kiểm soát dịch bệnh.
Hạn chế truyền thông và thông tin: Chính quyền Trump đã ra lịnh các cơ quan y tế liên bang, bao gồm CDC, tạm dừng tất cả các liên lạc ra bên ngoài, bao gồm cả việc công bố thông tin cho công chúng. Động thái này đã dẫn đến lo ngại về việc truyền tải thông tin quan trọng như thu hồi thực phẩm và bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm. Các chuyên gia y tế công cộng đã chỉ trích quyết định này, cho rằng nó có thể gây hại đến niềm tin của công chúng và khả năng ứng phó với các vấn đề y tế.
Những hành động này đã bị nhiều chuyên gia y tế và tổ chức y tế công cộng chỉ trích, cho rằng chúng có thể làm suy yếu khả năng ứng phó với các vấn đề y tế công cộng và gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng.
"Điểm mấu chốt là việc rút khỏi WHO khiến người Mỹ và thế giới kém an toàn hơn", TS Tom Frieden, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của tổ chức y tế phi lợi nhuận Resolve to Save Lives và cựu giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cho biết.
Trong một tuyên bố đáp lại lệnh của Trump, WHO cho biết họ "lấy làm tiếc" về quyết định của Hoa Kỳ. "Chúng tôi hy vọng Hoa Kỳ sẽ xem xét lại và chúng tôi mong muốn tham gia vào cuộc đối thoại mang tính xây dựng để duy trì quan hệ đối tác giữa Hoa Kỳ và WHO, vì lợi ích sức khỏe và phúc lợi của hàng triệu người trên toàn cầu".
Việc Tổng thống Donald Trump quyết định rút Hoa Kỳ khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và tiến hành cải tổ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người dân Mỹ trong tương lai.
Rút khỏi WHO: Quyết định rút khỏi WHO có thể làm suy yếu khả năng ứng phó của Hoa Kỳ đối với các đại dịch và bệnh truyền nhiễm toàn cầu. Việc rút lui có thể dẫn đến mất đi nguồn lực và thông tin quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng phòng ngừa và điều trị bệnh tật tại Hoa Kỳ. Riêng cá nhân người viết, việc rút ra khỏi WHO chính vì vai trò của ông TGĐ WHO có rất nhiều nghi ngờ trong việc công bố ban đầu khi xảy ra đại dịch, cũng như những mối dây liên lạc với TT Vi sinh Wuhan và các tỳ phú Bill Gates, cùng Goerge Soros.
Cải tổ CDC: Việc cải tổ CDC có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của cơ quan này trong việc giám sát và kiểm soát dịch bệnh. Nếu các thay đổi dẫn đến giảm hiệu quả hoặc khả năng phản ứng chậm hơn, điều này có thể làm tăng nguy cơ lây lan của các bệnh truyền nhiễm và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Tác động đến sức khỏe người dân: Khi Hoa Kỳ rút khỏi WHO và tiến hành cải tổ CDC, khả năng ứng phó với các mối đe dọa sức khỏe toàn cầu có thể bị suy giảm. Điều này có thể dẫn đến việc chậm trễ trong việc phát hiện và kiểm soát dịch bệnh, tăng nguy cơ lây lan và ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân Mỹ.
Mời vào xem các link dưới đây:
time.com
What Leaving the WHO Means for the U.S and the World
14 ngày trước
time.com
Trump's Choose-Your-Own-Adventure Health Agenda Is a Wake-Up Call for Cities and States
7 ngày trước
politico.com
4- Thay lời kết
Trước hết, cũng cần có vài lời với những tin tức của một số cá nhân và truyền thông trên các mạng lưới toàn cầu, người viết yêu cầu mỗi khi quảng bá hay bình luận một tin tức cũng cần nên “trung thực”, tin nào đã được kiểm nhận hay công bố từ những người có thẩm quyền, nhứt là trong giai đoạn nhạy cảm nầy. Cả đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đều tìm cách “triệt hạ” lẫn nhau, cho nên loan một tin không chính xác sẽ tạo thêm xáo trộn trongcộng đồng, nhứt là cộng động người Việt. Nên nhớ, chúng ta bàn hay phân tích sự việc, những chính sách của người đại diện đưa ra, nghĩa là phân tích, phê bình… CÁI SỰ chứ không phải CON NGƯỜI.
Sự việc về những quyết định hành pháp của TT Trump từ ngày nhậm chức gây ra rất nhiều ngộ nhận trong cộng đồng người Việt hải ngoại và khắp nơi tạo ra nhiều tranh cãi vô bổ.
Lấy thí dụ, nào có lịnh hành pháp cấm thêm Chlor vào nước uống để diệt trùng, nào có việc đóng cửa CDC, Hoa Kỳ qua TT Trump đang chuẩn bị thủ tục để rút khỏi WHO, chứ chưa chấm dứt tham gia và hợp tác và vẫn còn là một thành viên của WHO. Về sự việc “đóng cửa FDA”, cũng chỉ là một dự phóng cải tổ một vài chính sách không còn thích hợp mà thôi. Hoa Kỳ chỉ dứt khoát rút khỏi Hiệp ước Thượng đỉnh Biến đổi Khí hậu COP21 Paris năm 2015 mà thôi. Điều mà TT Trump đã rút khỏi năm 2019, nhưng dưới thời hành pháp TT Biden đã được tái lập lại (xin xem phần trên).
Mai Thanh Truyết
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam
Houston, 1-2025
Quyết định đóng cửa Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm - FDA của hành pháp Trump sẽ ảnh hưởng như thế nào?
Nếu Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) bị đóng cửa hoặc ngừng hoạt động tạm thời (do chính phủ đóng cửa, thiếu ngân sách, hoặc lý do khác), an toàn thực phẩm ở Mỹ có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng theo nhiều cách:
1. Giảm việc kiểm soát thực phẩm: FDA chịu trách nhiệm giám sát khoảng 80% nguồn cung thực phẩm của Hoa Kỳ. Nếu cơ quan này đóng cửa, nhiều cuộc thanh tra tại các nhà máy chế biến thực phẩm, trang trại và cơ sở nhập cảng có thể bị trì hoãn hoặc hủy bỏ. Điều này làm tăng nguy cơ thực phẩm nhiễm khuẩn như Salmonella, E. coli, và Listeria không được phát hiện kịp thời.
2. Chậm trễ trong việc thu hồi thực phẩm: FDA giám sát và yêu cầu thu hồi các sản phẩm không an toàn. Nếu cơ quan này bị gián đoạn hoạt động, việc phát hiện và thanh lý các vụ ngộ độc thực phẩm hoặc sản phẩm kém chất lượng có thể bị chậm trễ, gây nguy hiểm cho người tiêu dùng.
3. Ngừng xét nghiệm thực phẩm nhập cảng: FDA kiểm soát một phần lớn thực phẩm nhập cảng vào Hoa Kỳ. Nếu không có sự giám sát chặt chẽ, thực phẩm kém chất lượng hoặc chứa hóa chất độc hại có thể vào thị trường mà không bị phát hiện.
4. Giảm giám sát sản phẩm dược phẩm và y tế: Ngoài thực phẩm, FDA còn giám sát dược phẩm, thiết bị y tế và vaccine. Việc đóng cửa có thể làm chậm quy trình cấp phép thuốc mới, làm gián đoạn việc bảo đảm an toàn cho các sản phẩm y tế.
5. Ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng: Khi FDA không thể hoạt động bình thường, người tiêu dùng có thể mất lòng tin vào sự an toàn của thực phẩm và dược phẩm, ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi mua sắm.
Tóm lại, nếu FDA bị đóng cửa, mức độ an toàn thực phẩm ở Mỹ sẽ giảm sút đáng kể, làm tăng nguy cơ ngộ độc thực phẩm và các vấn đề sức khỏe cộng đồng.
1- Quyết định trên của hành pháp TT Trump sẽ làm xáo trộn ngành thực phảm và chế biến ra sao?
Quyết định của Tổng thống Donald Trump đã gây ra những gián đoạn đáng kể trong hoạt động của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến ngành thực phẩm và chế biến. Cụ thể:
• Gián đoạn việc kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong thời gian chính phủ đóng cửa, nhiều cuộc kiểm tra an toàn thực phẩm đã bị hoãn lại, làm tăng nguy cơ bùng phát các vụ ngộ độc thực phẩm.
• Chậm trễ trong quá trình phê duyệt: Việc đóng cửa cũng dẫn đến sự chậm trễ trong quy trình phê duyệt các sản phẩm mới, ảnh hưởng đến tiến độ ra mắt sản phẩm của các doanh nghiệp trong ngành thực phẩm và chế biến.
2- Cần cải tổ hay sửa đổi như thế nào?
Nếu xem xét tác động tiêu cực của việc đóng cửa chính phủ đối với mức an toàn vệ sinh thực phẩm và ngành chế biến, một số đề nghị cải tổ có thể giúp hạn chế ảnh hưởng của các quyết định hành pháp như sau:
2.1- Bảo vệ ngân sách cho các cơ quan quan trọng
• Tách biệt ngân sách của FDA khỏi chính trị: Cần có luật bảo vệ ngân sách của các cơ quan giám sát an toàn thực phẩm như FDA khỏi bị ảnh hưởng bởi việc đóng cửa chính phủ. Điều này đảm bảo rằng ngay cả khi chính phủ ngừng hoạt động, FDA vẫn có đủ nguồn lực để tiếp tục kiểm tra và giám sát.
• Duy trì nhân sự thiết yếu: Phân loại một số hoạt động của FDA là “thiết yếu” để tiếp tục vận hành ngay cả khi chính phủ đóng cửa, tương tự như an ninh quốc phòng hoặc dịch vụ y tế khẩn cấp.
2.2- Đẩy mạnh tự động hóa và công nghệ AI
• Sử dụng AI để giám sát an toàn thực phẩm: Nếu FDA phải giảm quy mô hoạt động, AI có thể hỗ trợ phân tích dữ liệu nhập khẩu, phát hiện rủi ro trong chuỗi cung ứng và cảnh báo sớm về nguy cơ thực phẩm nhiễm bẩn.
• Ứng dụng blockchain để theo dõi nguồn gốc thực phẩm: Điều này giúp đảm bảo rằng dù FDA có chậm trễ trong việc kiểm tra, các công ty và người tiêu dùng vẫn có thể theo dõi nguồn gốc thực phẩm một cách minh bạch. (Blockchain là một ứng dụng có thể giúp theo dõi và quản lý hàng hóa, tăng cường tính minh bạch và giảm thiểu rủi ro).
2.3- Hợp tác công - tư để duy trì kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm
• Cho phép các tổ chức độc lập giám sát tạm thời: Nếu FDA bị gián đoạn, chính phủ có thể ủy quyền cho các tổ chức khoa học và các hiệp hội ngành thực hiện kiểm tra an toàn thực phẩm.
• Xây dựng quỹ khẩn cấp cho an toàn thực phẩm: Một quỹ do cả chính phủ và doanh nghiệp đóng góp có thể giúp FDA duy trì hoạt động trong thời gian khủng hoảng.
3- Xin nói thêm về việc bảo quản thực phẩm bằng hóa chất
Việc bảo quản thực phẩm bằng hóa chất là một chủ đề gây tranh cãi với nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số ý kiến từ các góc nhìn khác nhau:
Quan điểm ủng hộ
Kéo dài thời gian sử dụng – Hóa chất bảo quản giúp ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn, nấm mốc, kéo dài tuổi thọ thực phẩm, giảm lãng phí thực phẩm.
Bảo đảm thực phẩm luôn sẵn có – Nhờ công nghệ bảo quản, thực phẩm có thể được vận chuyển xa hơn, giúp nguồn cung cấp thực phẩm ổn định, đặc biệt là ở những khu vực thiếu hụt thực phẩm tươi sống.
Duy trì phẩm chất thực phẩm – Một số chất bảo quản giúp thực phẩm giữ nguyên hương vị, màu sắc và kết cấu lâu hơn.
Quan điểm phản đối
Ảnh hưởng sức khỏe – Một số chất bảo quản có thể gây hại nếu tiêu thụ thường xuyên, liên quan đến nguy cơ ung thư (nitrites, sulfites), dị ứng hoặc rối loạn hormone (BHA, BHT).
Thực phẩm kém tự nhiên hơn – Nhiều người tin rằng thực phẩm tươi tự nhiên, không chứa chất bảo quản, là lựa chọn an toàn và lành mạnh hơn.
Khả năng bị lạm dụng – Một số nhà sản xuất có thể lạm dụng hóa chất để che giấu thực phẩm kém phẩm chất, làm mất lòng tin của người tiêu dùng.
Giải pháp cân bằng
Sử dụng hóa chất bảo quản an toàn, được FDA và WHO quy định.
Ưu tiên các phương pháp bảo quản tự nhiên như làm lạnh, hút chân không, muối chua, sấy khô.
Giám sát chặt chẽ việc sử dụng hóa chất trong thực phẩm, bảo đảm không vượt quá giới hạn an toàn đã được quy định.
4- Các hormone kích thích tố tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc
Việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc như gà, heo, bò là một vấn đề gây tranh cãi, vì nó có lợi ích kinh tế nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho sức khỏe. Dưới đây là một số điểm cần lưu ý khi đánh giá có nên cấm hay quản lý chặt chẽ các hormone tăng trưởng trong chăn nuôi:
Lợi ích của hormone tăng trưởng
Tăng năng suất chăn nuôi – Hormone giúp gia súc lớn nhanh, tăng trọng lượng nhanh hơn, giúp giảm chi phí sản xuất.
Giảm chi phí thức ăn – Nhờ phát triển nhanh, vật nuôi tiêu thụ ít thức ăn hơn để đạt trọng lượng mong muốn.
Tăng hiệu quả sản xuất sữa và thịt – Một số hormone như rBST (recombinant bovine somatotropin) giúp bò tăng sản lượng sữa mà không cần tăng số lượng bò.
Tác hại và rủi ro
Ảnh hưởng lên sức khỏe con người – Một số hormone như rBST, estrogen tổng hợp có thể tồn dư trong thịt, sữa, gây rối loạn nội tiết, ung thư hoặc dậy thì sớm ở trẻ nhỏ.
Ảnh hưởng lên Kháng kháng sinh – Việc lạm dụng hormone kết hợp với kháng sinh trong chăn nuôi có thể góp phần làm gia tăng vi khuẩn kháng thuốc, gây nguy hiểm cho con người.
Ảnh hưởng đến môi trường – Hormone thải ra từ chất thải chăn nuôi có thể làm ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng đến hệ sinh thái.
Các chính sách trên thế giới
Liên minh Châu Âu (EU) đã cấm hoàn toàn việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi từ năm 1989, với lý do lo ngại về sức khỏe con người.
Mỹ & Canada vẫn cho phép sử dụng một số hormone (rBST, trenbolone acetate, zeranol), nhưng có giới hạn mức độ an toàn.
Trung Cộng & Việt Nam có lệnh cấm với một số loại hormone nguy hiểm như Salbutamol, nhưng tình trạng lạm dụng vẫn có thể xảy ra trên thị trường chợ đen.
Giải pháp cân bằng
Tăng cường kiểm soát & giám sát – Thay vì cấm hoàn toàn, có thể áp dụng tiêu chuẩn nghiêm ngặt để kiểm tra dư lượng hormone trong thực phẩm.
Thúc đẩy chăn nuôi tự nhiên – Khuyến khích các phương pháp chăn nuôi không hormone, sử dụng dinh dưỡng hợp lý để tăng trưởng tự nhiên.
Công khai và minh bạch thông báo cho người tiêu dùng – Nhãn ghi rõ “không hormone tăng trưởng” (No added growth hormones) để người tiêu dùng có thể tự chọn lựa sản phẩm.
Việc cấm hoàn toàn hormone tăng trưởng trong chăn nuôi hay không còn phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. Nếu được kiểm soát tốt, một số hormone có thể được sử dụng trong mức độ an toàn. Tuy nhiên, với những loại hormone có nguy cơ cao như rBST, trenbolone acetate, việc cấm hoàn toàn là cần thiết.
Việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi gia súc là một vấn đề gây tranh cãi, với các quan điểm khác nhau về lợi ích kinh tế và nguy cơ đối với sức khỏe con người. Một số nghiên cứu cho thấy việc sử dụng hormone có thể không gây hại đáng kể, trong khi các nghiên cứu khác lại chỉ ra mối liên hệ giữa hormone tăng trưởng và các vấn đề sức khỏe như rối loạn nội tiết và ung thư.
Liên minh châu Âu (EU) đã cấm hoàn toàn việc sử dụng hormone tăng trưởng trong chăn nuôi từ năm 1989 do lo ngại về sức khỏe con người. Trong khi đó, Mỹ và Canada vẫn cho phép sử dụng một số loại hormone, nhưng có giới hạn mức độ an toàn.
5- Thực phẩm “sạch”
"Thực phẩm sạch" là thực phẩm tự nhiên, không phân bón, không hormone, cũng như không có yếu tố kích thích tăng trưởng nào hết.
Có loại thực phẩm như trên trong thế giới hiện tại hay không?
Câu trả lời là không.
"Thực phẩm sạch" theo định nghĩa lý tưởng – không phân bón hóa học, không hormone, không thuốc trừ sâu, không chất kích thích tăng trưởng – gần như không tồn tại trong sản xuất công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, vẫn có một số lựa chọn tiệm cận với định nghĩa này:
Thực phẩm hữu cơ (Organic)
Tiêu chuẩn: Không sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu tổng hợp, kháng sinh, hormone tăng trưởng.
Có chứng nhận: Các nước có tiêu chuẩn hữu cơ riêng như USDA Organic (Mỹ), EU Organic (Châu Âu), JAS (Nhật), VietGAP hoặc PGS (Việt Nam).
Hạn chế: Sản lượng thấp, giá thành cao, không phải lúc nào cũng 100% "sạch tuyệt đối".
Thực phẩm canh tác (Natural farming)
Không sử dụng bất kỳ hóa chất nhân tạo nào, kể cả phân hữu cơ từ nguồn bên ngoài.
Mô hình này phổ biến ở một số trang trại theo phương pháp của Masanobu Fukuoka (Nhật Bản) hoặc nông nghiệp tự nhiên Hàn Quốc (KNF).
Hạn chế: Năng suất rất thấp, đòi hỏi đất đai cực kỳ màu mỡ, khó áp dụng trên diện rộng.
Nông sản, sinh vật từ thiên nhiên
Rau rừng, cá sông, gà chăn thả tự nhiên, mật ong rừng… là những sản phẩm không có sự can thiệp của con người.
Nhược điểm: Sản lượng rất hạn chế, không thể cung cấp cho nhu cầu lớn.
Tóm lại thực phẩm hoàn toàn "sạch tuyệt đối" trong sản xuất công nghiệp hầu như không có, vì ngay cả thực phẩm hữu cơ cũng có thể dùng phân hữu cơ hoặc thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
Nếu muốn tìm thực phẩm tiệm cận "sạch" nhất, có thể chọn các sản phẩm Hữu cơ (Organic) – có chứng nhận uy tín. Chú ý: Cũng có rất nhiều thương hiệu ghi “sản phẩm hữu cơ” nhưng thực sự là “giả” rất nhiều vì việc kiểm soát nhản hiệu nầy rất lõng lẽo!
Thực phẩm từ nông trại tự nhiên – trồng theo phương pháp truyền thống không hóa chất
Thực phẩm hoang dã (wild food) – rau rừng, cá tự nhiên là chọn thực phẩm tương đối an toàn, ít hóa chất, nhưng vẫn khả thi về giá cả và nguồn cung. Bạn có thể cân nhắc:
Thực phẩm hữu cơ có chứng nhận – nếu phù hợp với ngân sách.
Nông sản VietGAP, GlobalGAP – tiêu chuẩn an toàn nhưng giá mềm hơn hữu cơ.
Mua từ nguồn uy tín, truy xuất được nguồn gốc – như các trang trại canh tác sạch, chợ nông sản địa phương.
Chế biến đúng cách – rửa sạch, ngâm nước muối/baking soda để giảm dư lượng hóa chất.
6- Khuyến cáo cụ thể hành pháp TT Trump trong quyết định đóng cửa FDA
Việc đóng cửa Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) có thể gây ra nh FDA chịu trách nhiệm giám sát và bảo đảm an toàn cho các sản phẩm thực phẩm, dược phẩm, thiết bị y tế và nhiều sản phẩm khác tại Hoa Kỳ. Nếu cơ quan này ngừng hoạt động, các chức năng quan trọng sau sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng.
Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực, dưới đây là một số đề nghị cụ thể dành cho chính quyền của Tổng thống Trump:
• Duy trì các hoạt động thiết yếu của FDA như phân loại các hoạt động quan trọng: Xác định và phân loại các hoạt động của FDA liên quan đến an toàn thực phẩm và dược phẩm là thiết yếu, bảo đảm chúng tiếp tục hoạt động ngay trong trường bị đóng cửa.
• Tăng cường hợp tác với các cơ quan liên quan như phối hợp với Bộ Nông nghiệp, Bộ Công Thương mãi, và các cơ quan liên quan đến thực phẩm nhằm tăng cường hợp tác để giám sát và kiểm tra an toàn thực phẩm, truy tầm nguồn gốc và thanh lý thực phẩm gây ngộ độc.
• Phản ứng nhanh với khủng hoảng sức khỏe: Trong các tình huống khẩn cấp về sức khỏe, như bùng phát dịch bệnh hoặc phát hiện sản phẩm bị nhiễm bẩn, FDA và CDC đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối phản ứng và cung cấp thông tin cho công chúng. Việc đóng cửa FDA sẽ làm giảm khả năng ứng phó hiệu quả với các khủng hoảng này.
• Giám sát an toàn thực phẩm: FDA thiết lập và thực thi các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, bao gồm việc kiểm tra, thu hồi sản phẩm bị nhiễm bẩn và ngăn chặn các mối nguy hại đến sức khỏe cộng đồng. Việc đóng cửa FDA sẽ dẫn đến thiếu hụt giám sát, tăng nguy cơ bùng phát các bệnh truyền qua thực phẩm.
• Quản lý dược phẩm và thiết bị y tế: FDA chịu trách nhiệm phê duyệt và giám sát an toàn của dược phẩm và thiết bị y tế. Nếu không có sự giám sát này, nguy cơ lưu hành các sản phẩm không an toàn hoặc kém phẩm chất lượng sẽ tăng lên, đe dọa sức khỏe người dân
Việc đóng cửa Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng.
Để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và đảm bảo an toàn thực phẩm, việc duy trì hoạt động của FDA là vô cùng quan trọng. Thay vì đóng cửa, cần nên xem xét cải tổ hoặc tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân và thích ứng với những thách thức mới trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và y tế.
Đề nghị:
1- Thanh lọc lại chính sách kiểm soát cần thiết và không cần thiết;
2- Thanh lọc nhân chuyên chuyên ngành và loại bỏ những nhân viên dư thừa và thiếu năng lực;
3- Đẩy mạnh truyền thông và giáo dục cộng đồng về vệ sinh an toàn thực phẩm, về nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm và các biện pháp phòng ngừa.
4- Xem xét việc cải cách, tiết giảm ngân sách để bảo đảm FDA không bị lạm dụng và phí phạm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng được bảo vệ liên tục
5- Tiết chế nhân sự để nâng cao năng suất và hiệu suất công việc.
Hy vọng những giải thích và góp ý trên giúp Bà Con có thêm tin tức về sự việc đóng cửa FDA của hành pháp TT Trump.
Mai Thanh Truyết
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam
2-2025
Tuesday, February 4, 2025
Sáng kiến Công Lý 40 – Justice40 Initiative
Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) định nghĩa Ccông lý Môi trường – Environment Justice là “sự đối xử công bằng và sự tham gia có ý nghĩa của tất cả mọi người bất kể chủng tộc, màu da, quốc tịch hoặc thu nhập, liên quan đến việc phát triển, thực hiện và thực thi luật, quy định và chính sách về môi trường”.
Chính sách môi trường của Tổng thống Donald Trump đã có nhiều thay đổi và thực hiện nhiều biện pháp nhằm giảm bớt các quy định môi trường, tập trung vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế và ngành công nghiệp. Dưới đây là một số chính sách và hành động đáng chú ý:
• Rút khỏi Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu: Vào tháng 6 năm 2017, Tổng thống Trump tuyên bố rút Hoa Kỳ khỏi Hiệp định Paris, một thỏa thuận toàn cầu nhằm giảm lượng khí nhà kính. Quyết định này đã gây tranh cãi và được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế chỉ trích. Trong nhiệm kỳ của hành pháp Biden, 2021-2025, TT Biden đã tái gia nhập Hiệp định Biến đổi khí hậu Paris trở lại. Và ngay Lễ tuyên thệ 20/1/2025, TT Trump lại tuyên bố rút khỏi Hiệp định nầy ngay tức khắc.
• Bãi bỏ các quy định về khí thải và năng lượng sạch: Chính quyền Trump đã thay thế Kế hoạch Năng lượng Sạch (Clean Power Plan) của Tổng thống Obama bằng Quy định Năng lượng sạch Hợp lý (Affordable Clean Energy Rule), nhằm giảm bớt các hạn chế đối với ngành năng lượng hóa thạch. Điều này bao gồm việc giảm bớt các quy định về phát thải khí metan từ hoạt động sản xuất dầu khí trên các khu đất công.
• Giảm bớt các quy định về bảo vệ môi trường sống: Chính quyền Trump đã bãi bỏ các quy định kiểm soát việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, bao gồm việc rút lại quy định giám sát phát thải thủy ngân và các chất độc khác từ hoạt động đốt than của nhà máy điện.
• Hủy bỏ các mục tiêu về xe điện và sửa đổi quy định khí thải: Chính quyền Trump đã hủy bỏ các mục tiêu về xe điện và sửa đổi các quy định khí thải, điều này có thể ảnh hưởng đến xu hướng phát triển của ngành công nghiệp xe điện và năng lượng tái tạo.
Tất cả những quyết định trên phản ảnh quan điểm của TT Trump về việc giảm bớt các quy định môi trường để thúc đẩy phát triển kinh tế và ngành công nghiệp, mặc dù chúng đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các nhóm bảo vệ môi trường và một số quốc gia khác.
Và có lẽ, quan trọng hơn hết là quyết định của TT Trump cũng sẽ ký một sắc lệnh hành pháp chấm dứt sáng kiến quan trọng về công bằng và công lý có tên Sáng kiến Công lý 40 - Justice40 Initiative.
Sáng kiến Công lý 40 là một sáng kiến được khởi động vào năm 2021, do hành pháp Biden thiết lập, nhằm đảm bảo rằng 40% lợi ích từ các khoản đầu tư liên bang trong các chương trình liên quan đến khí hậu và năng lượng, giao thông, nhà ở và các lĩnh vực khác sẽ được chuyển đến các cộng đồng bị thiệt thòi, ít được phục vụ và chịu ảnh hưởng nặng nề bởi ô nhiễm.
1- Nói về Justice40 Initiative
Trên thực tế, sáng kiến này được khởi xướng do Tổng thống Joe Biden vào năm 2021, với mục tiêu phân bổ 40% nguồn vốn liên bang cho các cộng đồng bị thiệt thòi trong các lĩnh vực như biến đổi khí hậu, năng lượng sạch, và phát triển cơ sở hạ tầng. Trong suốt 4 năm qua, Sáng kiến Công lý 40 đã đạt được một số thành công trong việc phân bổ nguồn vốn cho các cộng đồng bị thiệt thòi, bao gồm cả việc phân bổ 16 tỷ đô la cho các trường đại học và cao đẳng lịch sử của người da đen. Tuy nhiên, sáng kiến này cũng đối mặt với một số thách thức, bao gồm cả việc thiếu nguồn vốn và sự phản đối từ một số nhóm lợi ích.
Sáng kiến Công Lý 40 là một phong trào và chiến lược cải cách nhằm giải quyết các vấn đề bất bình đẳng xã hội, bất công, và khuyết điểm trong hệ thống tư pháp. Dựa trên tên gọi, Sáng kiến Công Lý 40 có thể liên quan đến:
1. Cải cách tư pháp hình sự: Nhằm giảm thiểu tình trạng phân biệt đối xử và bất công trong hệ thống pháp lý, đặc biệt liên quan đến quyền của các nhóm yếu thế.
2. Mục tiêu phát triển bền vững: Có thể liên quan đến việc thực hiện các chính sách công bằng hơn trong giáo dục, y tế, hoặc cơ hội kinh tế.
3. Chỉ số cụ thể 40: Số 40 là tỷ lệ nguồn vốn sinh hoạt ở Hoa Kỳ phân phối đến những vùng cần được cải thiện nhằm theo kịp với những điều kiện sống của cả nước. Sáng kiến Công lý 40 là một chương trình liên bang nhằm đảm bảo rằng ít nhất 40% lợi ích từ các khoản đầu tư liên bang trong lĩnh vực môi trường và năng lượng sạch được phân bổ cho các cộng đồng thiểu số và dễ bị tổn thương, những nhóm thường chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Cụ thể, mục tiêu của sáng kiến này là đảm bảo rằng ít nhất 40% lợi ích từ các khoản đầu tư liên bang liên quan đến năng lượng sạch, hạ tầng bền vững, giao thông, và các lĩnh vực liên quan sẽ được phân bổ cho các cộng đồng yếu thế, bị thiệt thòi hoặc chịu tác động không cân xứng từ các vấn đề môi trường.
Đảng Cộng hòa, trong khi đó, thường bày tỏ sự hoài nghi hoặc phản đối các chính sách mang tính công bằng môi trường như Justice40, cho rằng chúng có thể gây thêm chi phí hoặc tạo gánh nặng không cần thiết cho nền kinh tế.
2- Sáng kiến có được thi hành hay không?
Sáng kiến Công Lý 40 đã được thi hành dưới thời chính quyền TT Joe Biden. Đây là một phần quan trọng trong các chính sách môi trường và công bằng xã hội của chính quyền ông, với mục tiêu bảo đảm rằng các cộng đồng yếu thế và bị thiệt thòi sẽ nhận được sự hỗ trợ thiết thực từ các khoản đầu tư liên bang.
2.1- Quá trình thi hành:
Thực hiện nhiều chính sách: Chính quyền Biden đã ra lệnh các cơ quan liên bang (như Bộ Năng lượng, Bộ Giao thông, và Cơ quan Bảo vệ Môi trường - EPA) áp dụng nguyên tắc của Justice40 khi triển khai các chương trình đầu tư từ các dự luật lớn như Đạo luật Cơ sở Hạ tầng Lưỡng Đảng (Bipartisan Infrastructure Law) và Đạo luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act).
Cơ quan hỗ trợ: Để minh bạch hóa, chính quyền đã phát triển các cơ quan hỗ trợ mới như Climate and Economic Justice Screening Tool (CEJST) nhằm xác định các cộng đồng dễ bị tổn thương cần được hỗ trợ.
Sáng kiến tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, giao thông công cộng, cơ sở hạ tầng nước sạch, giảm ô nhiễm không khí, và các sáng kiến khác liên quan đến biến đổi khí hậu.
2.2- Thách thức khi thi hành:
Nhiều thành viên Đảng Cộng hòa và các tiểu bang do họ kiểm soát đã phản đối việc phân bổ quỹ dựa trên các tiêu chí công bằng xã hội và môi trường, cho rằng điều này có thể dẫn đến sự bất công trong phân phối nguồn lực. Từ đó, việc xác định đúng các cộng đồng yếu thế và bảo đảm rằng các lợi ích đến đúng nơi là một thách thức lớn. Ngoài ra, trên thực tế, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên bang và địa phương để đạt hiệu quả cao nhất.
3- Kết quả việc thi hành Sáng kiến Công lý trong nhiệm kỳ của TT Biden như thế nào?
Trong nhiệm kỳ của TT Joe Biden, Sáng kiến Công lý 40 đã được vài thành quả đáng chú ý:
1. Thành lập Văn phòng Công lý Môi trường và Quyền Dân sự Bên ngoài: Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã ra mắt văn phòng này nhằm thúc đẩy công bằng môi trường và bảo vệ quyền dân sự. Văn phòng chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện và phân phối chương trình tài trợ trị giá 3 tỷ USD từ Đạo luật Giảm Lạm Phát, đảm bảo ít nhất 40% lợi ích từ các khoản đầu tư liên bang đến với các cộng đồng khó khăn.
Phân bổ hơn 325 triệu USD cho các dự án cộng đồng: Vào tháng 7 năm 2024, EPA đã công bố tài trợ hơn 325 triệu USD cho 21 dự án nhằm giúp các cộng đồng khó khăn giải quyết các thách thức về công lý môi trường và khí hậu, giảm ô nhiễm và tăng cường khả năng phục hồi trước biến đổi khí hậu.
Những bước tiến này thể hiện cam kết của chính quyền Biden trong việc thúc đẩy công bằng môi trường và hỗ trợ các cộng đồng dễ bị tổn thương.
4- Và hiện tại Hành pháp Trump kỳ 2 có tiếp tục khai triển hay không?
Trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump, Sáng kiến Công lý 40 đang được tái xét trở lại, và có thể sẽ bị hủy bỏ. Điều này đã dẫn đến sự phản đối từ các tổ chức đại diện cho các cộng đồng thiểu số, do lo ngại về việc gia tăng ô nhiễm môi trường tại các khu vực họ sinh sống.
Tại sao?
Nếu chính quyền Tổng thống Donald Trump không tiếp tục triển khai Sáng kiến Công Lý 40 lấy lý do có thể bắt nguồn từ các ưu tiên chính sách và quan điểm khác biệt giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, đặc biệt về môi trường, công bằng xã hội và vai trò của chính phủ liên bang trong việc giải quyết các vấn đề bất bình đẳng. Dưới đây là một số lý do phổ biến trong các chính quyền Cộng hòa khi phản đối hoặc không ưu tiên các sáng kiến như Justice40:
• Quan điểm về chính phủ nhỏ và giảm can thiệp liên bang: Đảng Cộng hòa thường có xu hướng ủng hộ giảm vai trò của chính phủ liên bang trong các chương trình xã hội và môi trường. Các sáng kiến như Justice40, với trọng tâm vào phân bổ nguồn lực công bằng cho các cộng đồng thiểu số và dễ bị tổn thương, có thể bị coi là sự can thiệp quá mức của liên bang.
• Tập trung vào lợi ích kinh tế hơn là công bằng môi trường: Chính quyền Trump trước đây đã ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp như dầu khí, khai thác mỏ, và năng lượng truyền thống thay vì thúc đẩy năng lượng tái tạo hoặc các chương trình bảo vệ môi trường. Việc triển khai Justice40, vốn đòi hỏi chuyển hướng đầu tư vào năng lượng sạch và cơ sở hạ tầng bền vững, có thể bị coi là cản trở sự phát triển kinh tế ngắn hạn.
• Hoài nghi về chính sách công bằng xã hội: Một số chính trị gia thuộc Đảng Cộng hòa thường chỉ trích các chương trình dựa trên công bằng xã hội hoặc sắc tộc, coi đó là "sự thiên vị ngược" hoặc không công bằng đối với các khu vực và nhóm dân cư không thuộc diện ưu tiên. Điều này có thể dẫn đến việc phản đối hoặc hủy bỏ các chính sách như Justice40.
• Ưu tiên cắt giảm chi tiêu công: Các sáng kiến như Justice40 thường đi kèm với các khoản đầu tư lớn từ ngân sách liên bang. Chính quyền Cộng hòa thường ưu tiên cắt giảm chi tiêu công, dẫn đến việc loại bỏ các chương trình không phù hợp với ưu tiên chính sách của họ.
Có thề nói, việc không tiếp tục triển khai Justice40 của Đảng Cộng Hòa nói lên sự khác biệt trong tư tưởng chính sách giữa hai đảng, nơi Đảng Dân chủ chú trọng vào công bằng môi trường và xã hội, còn Đảng Cộng hòa nhấn mạnh phát triển kinh tế và giảm sự can thiệp của chính phủ.
5- Chính sách ngưng khai triển của hành pháp Trump có thích hợp với thực tế hay không?
Việc chính quyền TT Donald Trump hủy bỏ Sáng kiến Công lý 40 đã gây ra nhiều tranh cãi và phản ứng trái chiều. Để đánh giá tính phù hợp của quyết định này với thực tế, cần xem xét cả lý do của chính quyền và những tác động tiềm tàng:
Chính quyền Trump tập trung vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong các ngành công nghiệp truyền thống như dầu khí và khai thác mỏ. Họ cho rằng các quy định môi trường nghiêm ngặt có thể cản trở sự phát triển kinh tế và tạo gánh nặng cho doanh nghiệp.
Chính quyền này ủng hộ việc giảm bớt sự can thiệp của liên bang vào các vấn đề kinh tế và xã hội, cho rằng thị trường tự do sẽ tự điều chỉnh và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
Từ đó, việc hủy bỏ sáng kiến đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ các tổ chức đại diện cho cộng đồng thiểu số, do lo ngại rằng điều này có thể dẫn đến gia tăng ô nhiễm môi trường tại các khu vực họ sinh sống, vốn đã chịu nhiều thiệt thòi.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các cộng đồng thiểu số và thu nhập thấp thường chịu ảnh hưởng nặng nề hơn từ ô nhiễm môi trường. Việc hủy bỏ các sáng kiến nhằm hỗ trợ những cộng đồng này có thể làm gia tăng bất bình đẳng xã hội và các vấn đề sức khỏe cộng đồng.
6- Tạm Kết luận:
Mặc dù chính quyền Trump có lý do dựa trên quan điểm kinh tế và chính trị của họ, việc hủy bỏ Sáng kiến Công lý 40 có thể không phù hợp với thực tế của nhiều cộng đồng dễ bị tổn thương. Quyết định này có thể dẫn đến việc gia tăng bất bình đẳng và các vấn đề môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của những nhóm dân cư đã chịu nhiều thiệt thòi.
Dựa trên các tin tức hiện có, việc ngừng triển khai Sáng kiến Công lý 40 có thể không phải là một quyết định phù hợp với thực tế nếu xét từ góc độ công bằng môi trường và xã hội. Dưới đây là những lý do:
* Bất bình đẳng môi trường là một thực tế không thể phủ nhận: Các cộng đồng thu nhập thấp và thiểu số thường chịu ảnh hưởng không cân xứng từ ô nhiễm không khí, nước, và đất đai. Nếu chính phủ không có các sáng kiến như Justice40 để hướng nguồn lực đến những nơi bị tổn thương nhất, bất bình đẳng này sẽ ngày càng trầm trọng hơn.
* Lợi ích dài hạn vượt trội hơn chi phí ngắn hạn: Đầu tư vào công bằng môi trường không chỉ mang lại lợi ích về sức khỏe và chất lượng cuộc sống, mà còn tạo ra cơ hội kinh tế mới thông qua các ngành công nghiệp năng lượng tái tạo và cơ sở hạ tầng bền vững. Việc ngừng các chính sách như Justice40 có thể làm chậm lại sự chuyển đổi này.
* Phát triển kinh tế không nên đánh đổi bằng môi trường: Mặc dù chính quyền Trump tập trung vào phát triển kinh tế, nhưng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp truyền thống như dầu khí thường gây thiệt hại lâu dài cho môi trường và sức khỏe cộng đồng. Chi phí này có thể cao hơn nhiều so với lợi ích kinh tế ngắn hạn.
* Chính sách cần phản ánh giá trị nhân đạo: Chính phủ có trách nhiệm hỗ trợ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, đảm bảo rằng không ai bị bỏ lại phía sau. Hủy bỏ các sáng kiến như Justice40 có thể bị coi là phớt lờ những nhu cầu cấp bách của các cộng đồng yếu thế, làm suy giảm lòng tin vào hệ thống chính quyền.
Dù hiện tại, không có tin tức cụ thể nào về việc cựu Tổng thống Donald Trump đã đưa ra lý do để chấm dứt Sáng kiến Công lý 40, ngoài việc rút lui khỏi Hiệp ước Biến đổi Khí hậu, TT Trump qua nhiều tuyên bố về hành pháp thu hẹp, cho khai triển sản xuất năng lượng hóa thạch v.v., người viết tin tưởng rằng Ông sẽ chấm dứt kế hoạch Sáng kiến Công lý 40 trong những ngày sắp đến. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ trước, ông Trump đã thực hiện nhiều chính sách kinh tế đáng chú ý, như ưu tiên sản xuất năng lượng nội địa và giảm phụ thuộc vào năng lượng nước ngoài. Ông cũng rút Mỹ khỏi Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu và nới lỏng các quy định đối với ngành nhiên liệu hóa thạch.
• Và TT Trump có thể sẽ nêu lý do liên quan đến việc cắt giảm chi tiêu chính phủ và giảm quy định “khắc khe” môi trường sẽ hạn chế sự phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, có vài tin tức cho rằng TT Trump đã có một số hành động liên quan đến các chính sách và chương trình của chính phủ, bao gồm cả việc thu hồi sắc lệnh của Tổng thống Johnson về "Affirmative Action" trong guồng máy chính quyền vào năm 2017. Chính sách ưu tiên – Affirmative Action là một tập hợp các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy cơ hội bình đẳng, cơ hội tiếp cận tốt hơn đến giáo dục, việc làm và các cơ hội phát triển và các lĩnh vực khác cho các nhóm thiểu số hoặc những người đã từng bị phân biệt đối xử trong lịch sử. Một trong những lý do chánh yếu để TT Trump chấm dứt chính sách trên viện dẫn rằng: “chính sách này có thể dẫn đến "phân biệt đối xử ngược" (reverse discrimination), tức là gây bất công cho những cá nhân không thuộc nhóm được ưu tiên, dù họ có năng lực tốt hơn.” Và hơn nữa, vào năm 2023, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã ra phán quyết giới hạn việc sử dụng Affirmative Action trong tuyển sinh đại học.
Mặc dù trên lý thuyết, Sáng kiến Công Lý 40 là một sáng kiến quan trọng và cần thiết để thúc đẩy công bằng xã hội và môi trường, nhưng trên thực tế vẫn còn quá nhiều trở ngại trong việc thi hành vì sự phức tạp của vùng miền, và văn hóa của từng sắc tộc hay tầng lớp dân chúng. Việc ngưng khai triển sáng kiến này có thể tiết kiệm ngân sách liên bang trong ngắn hạn, nhưng cái giá phải trả về lâu dài – cả về môi trường lẫn công bằng xã hội – có thể là không thể đo đếm.
Nếu một chính quyền nào đó không tiếp tục khai triển, họ cần nên tìm cách cải tiến và điều chỉnh nó thay vì hủy bỏ hoàn toàn, để bảo đảm rằng sự phát triển bền vững và công bằng vẫn là làm trọng tâm trong một xã hội văn minh và tiến bộ.
Mai Thanh Truyết
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam
Xuân Ất Tỵ 2025
Saturday, February 1, 2025
Lời người viết:” Trong trang 9 của quyển sách nói về “Báo cáo mới của CIA viết năm 2009” có ghi rõ qua… Lời mở đầu được Alexandre Adler tổng hợp những công việc của CIA, tự hỏi liệu "sự tập trung, cường độ và chuổi xung đột ở Trung Đông sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới vào khoảng năm 2025, hay hợp lý hơn vào khoảng năm 2010 -2015, ở cùng cấp độ mà họ tập trung sự chú ý của cộng đồng quốc tế ngày hôm nay (tr.9)”. Người viết xin chuyển lại bài viết từ năm 2020 qua đại dịch Covid Wuhan. Hiện tại, hành pháp TT Trump đang mở hồ sơ về việc thiết lập Phòng thí nghiệm vi sinh Wuhan với sự hiện diện và tài trợ của Tỷ phú Bill Gates, BS Fauci, và Giám đốc WHO, Tedros Adhanom Ghebreyesus. Ba nhân vật trên đang được mở hồ sơ về đại dịch nầy… Trong những ngày sắp tới, màn bi hài kịch có thể sẽ hạ màn… và những tội đề sẽ được phơi bày ra ánh sang. Wait and See!
“Thế giới sẽ ra sao ngày mai?”
Quyển sách nói về
Báo cáo mới của CIA -2009
Lời nói đầu: Từ năm 2005 đến 2020, những mối đe dọa nào, xu hướng nào được Hội đồng Tình báo Quốc gia Mỹ, dưới quyền giám đốc của CIA, vừa đưa ra báo cáo như sau:” Trong hai năm, một nhóm gồm 25 chuyên gia đã làm việc với báo cáo này. Đây là một đánh giá về tình trạng của hành tinh trong mười lăm năm, và những dấu hiệu sẽ định hướng chính sách của Hoa Kỳ trong những năm tới. Tác giả cho biết tập báo cáo nầy mang tính chủ quan như thế nào và phải được diễn giải một cách thận trọng và những dự đoán như vậy đưa ra nhiều bản đồ của hiện tại hơn là cho tương lai. Nhưng, trong tất cả các lĩnh vực như chính trị - kinh tế - môi trường - khủng bố…chúng là một sự phản ảnh hấp dẫn về các thế lực trên thế giới và sự nguy cơ gây ra đột biến. Dự báo là ngẫu nhiên nhưng rất cần thiết cho sự tiến bộ của con người. Điều khiến chúng ta sẽ chú ý đến những dự báo đã và sẽ xảy ra khi đọc báo cáo này là nhóm tác giả mong muốn tổng hợp thông tin để càng nhiều người càng có thể tiếp cận được với nó.
***
Câu chuyện Covid-19 đã xảy ra ở Wuhan từ cuối năm 2019, mà mãi cho đến nay vẫn là đề tài hàng ngày cho truyền thông trên thế giới và là mối nguy cơ hàng đầu của hầu hết các quốc gia. Vừa qua, Bà Claire Edwards, bình luận gia và huấn luyện viên của Liên Hiệp Quốc đã kết án Giám đốc WHO, Tedros Adhanom Ghebreyesus đã dùng Covid Wuhan như là một vũ khí giết người hàng loạt để …tiêu diệt toàn cầu. Ông ta đã từng che dấu sự tác hại của coronavirus ngay từ những ngày đầu tiên virus Wuhan nhằm đạo diễn một cuộc diệt chủng toàn cầu và dàn dựng đưa độc tài toàn trị Trung Cộng làm bá chủ thế giới.
Và trong quá khứ, vào năm 2009, một cuốn sách của tác giả Alexandre Adler được ra mắt dưới đề tài: “Le nouveau Rapport CIA-Comment ce sera le Monde de demain? – Báo cáo CIA – Thế giới sẽ ra sao ngày mai?
Qua sách, giả thuyết về một đại dịch được mô tả với các chi tiết báo cáo cuộc khủng hoảng sức khỏe xảy ra hiện tại, cũng như Hội đồng Tình báo Quốc gia Hoa Kỳ đưa ra các giả định về tương lai của thế giới…
Trong số các kịch bản được xem xét, khả năng xảy ra đại dịch toàn cầu là “Làm thế nào mà dự án xuất bản bản dịch báo cáo của CIA ra đời?”
Và ngày mai nơi đây được chỉ rỏ là năm 2025, nghĩa là chỉ còn năm năm nữa thôi và tác giả đã viết từ năm 2009 cũng như đã tiên liệu “câu chuyện Wuhan” năm 2019 ở Tàu, 10 năm trước đó!
Bài viết nầy người viết chỉ tập trung vào việc tiên liệu cũng như dự đoán một nạn đại dịch sẽ xảy ra và sẽ không phân tích tương lai những nguy cơ xảy ra xung đột giữa các quốc gia và các thế lực quốc tế đã được nói đến trong quyển sách.
1- Thế giới năm 2025
Lời mở đầu được Alexandre Adler tổng hợp những công việc của CIA, tự hỏi liệu "sự tập trung, cường độ và chuổi xung đột ở Trung Đông sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới vào khoảng năm 2025, hay hợp lý hơn vào khoảng năm 2010 -2015, ở cùng cấp độ mà họ tập trung sự chú ý của cộng đồng quốc tế ngày hôm nay (tr.9)”.
Ông viết tiếp:” Có phải báo cáo CIA mới đưa ra một mô hình mới để suy nghĩ về hòa bình vào buổi bình minh của thế kỷ 21? Những trận đánh lớn vẫn cần thiết. Nhưng viễn cảnh sửa đổi sự suy thoái khí hậu, vắt cổ sự khốn khổ của Thế giới thứ ba và cuối cùng củng cố sự thúc đẩy dân chủ lớn năm 1989 dường như nằm trong tầm tay của chúng ta”.
Có thể nói phần bìa sau của cuốn sách được xem như là một kết tinh ý của tác giả Alexandre Alder như sau:
“Với một cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu vô tiền khoáng hậu từ năm 1929, sự nóng lên toàn cầu đã được tất cả các quốc gia ghi nhận: - Nỗi sợ về những biến động về mặt sinh học trong các lĩnh vực khác nhau như nước, năng lượng, nông nghiệp cùng lúc với dịch bệnh, thế giới hiện tại của chúng ta không luôn luôn khuyến khích sự lạc quan và hạnh phúc”.
“Tuy nhiên, một viễn ảnh sâu sắc và ít kinh sợ hơn đã mở ra nhiều thông lộ, theo đó nhân loại của thế kỷ XXI vẫn nên tìm cách giải quyết. Trên hết, đây sẽ là một câu hỏi về việc giảm phần chiến tranh kịch bản địa chính trị của chúng ta để mang lại lợi ích cho việc trao đổi, đổi mới công nghệ cũng như phát triển bền vững”.
“Đây là những triển vọng ngắn và trung hạn mà các chuyên gia tình báo của Mỹ khám phá. Các chuyên gia đã làm việc trong báo cáo này trong nhiều năm và lần này có nhiều sự việc có tầm quan trọng trong phạm vi điều tra rất đáng tin cậy. Hồ sơ đã trình lên Tổng thống Obama một loại viaticum để bắt đầu thực hiện thay đổi hành tinh mà mọi người đang chờ đợi”. - Alexandre Alder
CIA, trong một thời gian rất dài, đã thu thập thông tin địa chính trị, đưa ra các giả thuyết và sau đó tự tin thông báo một phần ý kiến quan tâm đến nó, đặc biệt là các giới báo chí. Sau đó, CIA đã công bố một số báo cáo này cho công chúng. CIA không còn nhắm vào một tầng lớp nhỏ mà là đại chúng. Người Mỹ cảm thấy rằng CIA đang nói chuyện trực tiếp với họ.
Một trong những báo cáo này, kể từ năm 2007, các chuyên gia CIA dự đoán khả năng xảy ra đại dịch vào năm 2025. Sự xuất hiện của virus Covid-19 và sự lây lan của nó trên toàn thế giới có bị bỏ qua không?
• Trong cùng một báo cáo đó, các chuyên gia trích dẫn trong số các mầm bệnh, có nhắc đến tên coronavirus SARS.
• Một điểm nhấn quan trọng là CIA cũng chỉ ra những nguy cơ của toàn cầu hóa và sự lây lan mau chóng của dịch bịnh là do sự di chuyển của dân khắp nơi trên thế giới.
Hãy đọc những lời sau đây của tác giả:” Virus corona, bệnh hô hấp, Trung Quốc: mọi thứ đều ở đó. Nhưng đó không phải là tất cả. Như một dấu hiệu cho thấy các chuyên gia đã lên kế hoạch cho hầu hết mọi thứ, sự xuất hiện của virus được mô tả ở đó cho đến khi khu vực của nó xuất hiện. "Nếu một bệnh dịch được tuyên bố, chắc chắn nó sẽ ở một khu vực đông dân cư, gần gũi giữa người và động vật, như ở Trung Quốc và Đông Nam Á nơi dân cư sống tiếp xúc với gia súc." Kịch bản thảm khốc nầy, được phân tích và viết vào năm 2007 tại Hoa Kỳ, trước khi xuất bản tại Pháp năm 2009, hóa ra là lạnh với độ chính xác, một hậu nghiệm (posteriori.)
Và sau cùng, tác giả tự đặt câu hỏi cho chính mình là:” Mặc dù có tất cả các chi tiết báo trước, tại sao chúng ta không chuẩn bị tốt hơn cho sự xuất hiện của virus này?”
2. Các yếu tố rủi ro chính dẫn đến xung đột vào năm 2025 của CIA
a- Việc tăng khả năng bị tổn thương do phụ thuộc nhiều vào năng lượng: Nguyên nhân có thể xảy ra đầu tiên của xung đột là tính dễ bị tổn thương gia tăng do phụ thuộc vào các nguồn năng lượng. Trong trường hợp này, tất cả các yếu tố nêu trên đều ảnh hưởng đến sự tiến hóa năng lượng. Càng có nhiều áp lực về nạn nhân mãn, sẽ càng có nhiều nhu cầu và do đó cạnh tranh. An ninh năng lượng cũng đặt ra câu hỏi về an ninh của các vùng biển, đặc biệt là đối với Trung Cộng và Ấn Độ, mặc dù xây dựng đường ống, sẽ phụ thuộc vào vận tải biển để nhập cảng năng lượng của họ trong vài năm tới.
Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến việc nhân rộng và phát triển các hạm đội quân sự trong khu vực, hoặc một cuộc chạy đua vũ trang hải quân. Từ góc độ tiêu cực, điều này sẽ làm gia tăng căng thẳng Trung-Ấn vốn đã cạnh tranh với các nhà sản xuất; Mặt khác, từ một góc độ lạc quan, người ta có thể hình dung sự ra đời của một “sự hợp tác đa quốc gia để đảm bảo các tuyến đường hàng hải quan trọng” (tr.223)..
b. Tương lai của kho vũ khí hạt nhân toàn cầu: Vấn đề thứ hai cần theo dõi là việc các nước mới mua vũ khí hạt nhân, điều này cũng có thể tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, làm tăng nguy cơ giành được năng lượng hạt nhân của các nước yếu có khả năng sụp đổ hoặc không thể kiểm soát đúng cách kho vũ khí của họ để vũ khí hạt nhân trong tầm tay của các nhóm khủng bố. "Việc các quốc gia không có đủ khả năng chỉ huy và kiểm soát việc thu mua vũ khí hạt nhân sẽ làm tăng khả năng sử dụng trái phép hoặc vô tình các vũ khí đó" (tr.224).
c. So với Cuộc chiến chống khủng bố: Cuộc chiến chống khủng bố có thể được coi là vấn đề vừa là yếu tố quyết định các cuộc xung đột trong tương lai. Tuy nhiên, chủ nghĩa khủng bố cũng được thúc đẩy bởi các yếu tố: thiếu nguồn nhân lực, quản trị kém, cạnh tranh sắc tộc và toàn cầu hóa. Theo báo cáo, chủ nghĩa khủng bố tồn tại theo "làn sóng" khoảng 40 năm. "Lịch sử cho thấy rằng phong trào khủng bố Hồi giáo trên toàn thế giới sẽ tồn tại sau sự sụp đổ của Al Qaeda như vậy" (tr.232).
Mặt khác, "sự phổ biến của công nghệ và kiến thức khoa học sẽ đặt các phương tiện nguy hiểm nhất trên thế giới vào tầm tay của các nhóm khủng bố" (tr.227), chẳng hạn như các tác nhân gây bệnh sinh học hoặc vũ khí hủy diệt hàng loạt, và sẽ cho phép chúng thống nhất trên toàn cầu. Điều này sẽ dẫn đến sự phát triển của lực lượng an ninh đặc biệt và tăng cường kiểm soát các hoạt động di chuyển và biên giới. Tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông khiến họ trở thành mục tiêu tấn công tiềm tàng, thông qua việc vô hiệu hóa mạng thông tin hoặc sử dụng vũ khí chống vệ tinh.
3. Giả thuyết về một "kịch bản hành tinh"
Cuối cùng, thông qua kịch bản hành tinh, các chuyên gia CIA rút ra các kịch bản giả định về thế giới vào năm 2025. Trong chương 5, giả thuyết được đưa ra dựa trên sự "đứt gánh giữa các nước BRIC" gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Cộng. Trên thực tế, sự cạnh tranh giữa Trung Cộng và Ấn Độ, đặc biệt là về năng lượng, có thể dẫn đến "sự bùng nổ chủ nghĩa dân tộc trong một trò chơi chiến tranh", các liên minh sau đó được thành lập sẽ phản đối TC và Pakistan chống lại Ấn Độ, Hoa Kỳ và Nhật Bản, trong lúc đó Nga và Iran tạo ra một sự ngờ vực nhất định cho cả hai bên.
4- Kết luận lạc quan tương đối của CIA
Phân tích này do CIA - Trung tâm Tình báo Mỹ đưa ra tương đối lạc quan và đối với các vấn đề được trích dẫn trên và các dự đoán có vẻ thực tế. Thật vậy, sự phụ thuộc chung vào năng lượng là điều không thể chối cãi và chắc chắn sẽ là vấn đề then chốt vào đầu thế kỷ 21. Tương tự như vậy, diễn biến của tình hình ở một số quốc gia chủ chốt được nêu rõ dường như là hiển nhiên, cũng như mối quan hệ giữa các cường quốc mới đang lên và đặc biệt là giữa Trung Cộng - Ấn Độ và Trung Cộng - Nga. Do đó, chúng ta thấy thế giới đã phi Tây phương hóa, từ đó, trung tâm thế giới không còn là châu Âu cũ nữa mà là Trung Đông và Trung Á rộng lớn hơn; khu vực cũng không ổn định nhất và do đó dễ xảy ra xung đột lớn nhất.
Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi được đặt ra là các lĩnh vực khác được đề cập trong báo cáo dường như ít rõ ràng hơn như:
• Về việc liên quan đến chủ nghĩa khủng bố, mặc dù rất có thể xảy ra sự thất bại của Al-Qaeda, nhưng sự kết thúc của làn sóng khủng bố dường như vẫn còn xa. Trên thực tế, việc giảm số lượng các phần tử cực đoan không có nghĩa là giảm các cuộc tấn công, đặc biệt nếu cuộc khủng hoảng hiện nay vẫn tiếp diễn và vũ khí hủy diệt hàng loạt nằm trong tầm tay của các nhóm cực đoan.
• Về sự vắng mặt của cuộc xung đột Israel-Palestine (dường như đã không còn được người Mỹ quan tâm sau thất bại của Hội nghị thượng đỉnh Trại David vào tháng 7 năm 2000) và dường như khó có thể bình ổn trong ngắn hạn hoặc trung hạn.
• Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là gần như không có câu hỏi về Iraq, từng ngày và đất nước này có thể là nơi huấn luyện cho nhiều nhóm Hồi giáo và khủng bố, có vẻ như rất có thể là Iraq sẽ đóng một vai trò quan trọng trong địa chính trị năm 2025.
• Trong một nền toàn cầu hóa ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, các liên minh sẽ ngày càng mang tính quyết định hơn, nhưng ngoài các liên minh đặc biệt theo nhu cầu chính xác, có lẽ chúng ta sẽ phải tập trung ban đầu vào những thách thức của việc hội nhập khu vực mà sự thành công hay thất bại của chúng.
5- Hướng về tương lai
Để kết luận, báo cáo của CIA là một phản ảnh rất thú vị về các xu hướng thế giới và về các vấn đề quan trọng cần nêu bật để ngăn chặn các cuộc xung đột tiềm tàng nhất trong những năm tới. Tuy nhiên, tầm nhìn vẫn rất phương Tây và thậm chí rất Bắc Mỹ vì các vấn đề được đưa ra trên hết là mối quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ và chưa phải là thách thức có giá trị đối với toàn thế giới. Cuối cùng, không cần phải báo động, vấn đề biến đổi khí hậu vẫn phải được tính đến và các xung đột liên quan đến nước và sự lưu thông hàng hải là hai thực tế cần lưu tâm cho thế giới. Do đó, điều cần thiết là phải tính đến tất cả những thay đổi này trên thế giới và hiểu vai trò của từng vấn đề, nhân tố và tác nhân, để hoạt động vì hòa bình, cả dưới hình thức ngăn ngừa xung đột và giải quyết chúng trong hòa giải chứ không trong chiến tranh.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra phản ứng toàn cầu không giống bất cứ điều gì chúng ta từng xảy ra trong quá khứ. Từ việc chính phủ và các công ty đảm nhận những vai trò mới để ứng phó với khủng hoảng cho đến việc tổ chức lại hoàn toàn cung cách chúng ta làm việc, đi lại và giao tiếp xã hội, chúng ta đã chứng kiến những thay đổi mang tính biến đổi không thấy xuất hiện trong quá khứ chỉ một thời gian ngắn trước đó!.
Và thiết nghĩ cũng cần rút tỉa cơn đại dịch Covid Wuhan hiện tại để nhìn ra những gì có thể xảy ra trong những ngày tháng sắp đến:
• Tính bi quan sau khi ngăn chặn được đại dịch: Có một rủi ro là khi khủng hoảng trước mắt và hậu quả kinh tế của nó trở nên rõ ràng hơn, thế giới đã bỏ qua những khát vọng dài hạn hơn để theo đuổi các cách giải quyết ngắn hạn nhưng nhiều phương án trong số đó sẽ có hậu quả bất lợi về môi trường bao gồm việc đẩy lùi các tiêu chuẩn môi trường, kích thích nền kinh tế bằng cách trợ cấp cho các ngành công nghiệp nặng nhiên liệu hóa thạch và tập trung vào việc tạo ra nhiều thứ hơn là xử dụng chúng tốt hơn.
• Về mặt tích cực: Trong khi chúng ta đang quay cuồng vì sốc về những gì đang xảy ra xung quanh và đi đến thực tế mới, chúng ta có thể nắm bắt khoảnh khắc này như một cửa sổ cơ hội duy nhất để xây dựng lại xã hội và nền kinh tế như chúng ta muốn. Với các nhà khoa học cảnh báo chúng ta còn 10 năm (vào năm 2030 trong Thượng đỉnh COP21 ở Paris năm 2015) để tránh những hậu quả tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu, điều này có thể mang đến cơ hội khắc phục khủng hoảng khí hậu trước khi quá muộn.
• Đáng giá lại rủi ro: Chúng ta đã biết về nguy cơ xảy ra đại dịch toàn cầu trong nhiều năm qua. Bill Gates đã tuyên bố trong cuộc nói chuyện với Ted Talk năm 2015 rằng:” Nếu bất cứ điều gì giết chết hơn 10 triệu người trong vài thập kỷ tới, rất có thể đó là một loại virus truyền nhiễm rất cao”. Tuyên bố nầy hé lộ cho thấy có thể Bill Gates đã dự phần vào cuộc phát tán đại dịch Covid Wuhan vào cuối năm 2019?
• Biến đổi khí hậu tương tự đặt ra một mối đe dọa lớn đối với cuộc sống của con người và đòi hỏi phải có một phản ứng toàn diện. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí y khoa Lancet gần đây dự đoán 500.000 người trưởng thành chết do biến đổi khí hậu vào năm 2050.
Qua những tin tức và nhận định ở phần trên, hai suy nghĩ về thuyết âm mưu được đặt ra nhằm gợi ý cho người đọc chiêm nghiệm về tình trạng đại dịch Covid Wuhan hiện tại:
1- Nếu đại dịch để lại chúng ta việc thừa nhận tính dễ bị tổn thương của chúng ta trước những cú sốc ảnh hưởng lớn như đại dịch và thảm họa liên quan đến khí hậu, và nếu có chuẩn bị tốt hơn hiện tại, chúng ta sẽ bảo vệ trái đất hoàn chỉnh hơn. Một điều sau cùng gợi ý cho người viết là cung cách ăn uống của chính chúng ta có thể hạn chế được những thảm họa liên quan đến sự thay đổi khí hậu chăng?
Vào năm 2006, LHQ có công bố một báo cáo nói rằng chế độ ăn dựa trên thực vật tốt hơn cho môi trường. Một trong những lý do là bò sản xuất một lượng lớn khí methane, một khí nhà kính ảnh hưởng gấp ngàn lần khí CO2, một tác nhân chính của sự thay đổi khí hậu. Ngoài ra, ăn một lượng lớn thịt thường xuyên, đặc biệt là các loại thịt chế biến sẵn không tốt cho sức khỏe của con người. Tiến sĩ Campbell-Lendrum nói. "Nếu bạn muốn nghĩ về việc một chế độ ăn kiêng bền vững hơn tức là hạn chế ăn thịt động vật sẽ tốt cho sức khỏe của bạn và tốt cho môi trường hay không, thì bây giờ là thời điểm thực sự tốt để thực hiện nó."
2- Và quan trọng hơn cả là: Covid Wuhan đã có tên và được nêu ra trong quá khứ ở Hoa Kỳ qua: - “Báo cáo mới của CIA” của Alexandre Adler, một ký giả Pháp năm 2009, - Siêu vi khuẩn này cũng đã được khám phá vào năm 2004 và đã được chuẩn y một bằng sáng chế cấp năm 2007 của một nhóm khoa học gia Mỹ, - Và sau cùng, GS James Patrick Lewis, một giáo sư chuyên về siêu vi sinh đã bị bắt ngày 10/3/2020 dưới tội danh do Robert Jones, đại diện FBI tiết lộ và công bố như sau: “Là một thành viên có ăn lương của kế hoạch ngàn nhân tài của TC, làm việc 9 tháng trong một năm ở TC kể từ 8/8/2018, Ông và các nghiên cứu sinh người Tàu, trong đó có hai nghiên cứu sinh Tàu bị bắt cùng lúc với Ông; đã “được khuyến khích chuyển thông tin độc quyền hoặc các nghiên cứu được thực hiện ở Mỹ sang Trung Cộng”.
Qua hai nghi vấn kể trên, phải chăng siêu vi khuẩn và đại dịch Coronavirus/Covid-19 đã được Hoa Kỳ tiên liệu trước, nhưng cố tình để cho Trung Cộng thực hiện việc “đầu độc” thế giới ngõ hầu có cớ ra tay tiêu diệt một lần một “âm mưu và mầm mống thống lãnh thế giới của Trung Cộng, thay thế cho biện pháp quân sự rất hao tốn về nhân mạng và tài chánh của một Thế chiến thứ III ?”
Hay là:”Nhóm Globalists toàn cầu tiếp tay vào việc thực hiện đại dịch Covid Wuhan nhằm thực hiện âm mưu hạn chế dân số trên thề giới xuống còn 5 tỷ qua tuyên bố của Bill Gates trên nhiều diễn đàn quốc tế khác nhau. Và việc sản xuất vaccine cấp bách không qua thử nghiệm và việc “ép buộc” phải chích booster nhiều mũi vaccine tiếp sau đó. Đây là một âm mưu thâm độc vì vaccine có chứa những hormome “triệt sản” … Và năm nay, 2025, câu chuyện Covid một lần nữa đang manh nha…
Mai Thanh Truyết
Hội Bảo vệ Môi Trường Việt Nam
Nhuận sắc 1-2025
Subscribe to:
Posts (Atom)