Thưa Bà
Con,
Lại
nghĩ đến giáo dục miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa. Xin gửi lại bài viết xưa nói
về cảm nghĩ của một người thầy giáo trẻ giã từ lớp học…”tiếng Tây tiếng u” để trở
về Việt Nam tiếp xúc lần đầu tiên với sinh viên Sư Phạm lần đầu tiên, trong đó có
những anh chị đã hoàn tất Cử nhơn Lý Hóa rồi.
Ông Thầy
trẻ vẫn còn ngơ ngác (!) với nhiều danh từ hóa học tiếng Việt. Thế mà cũng đã hoàn
tất niên học…
***
Lớp Lý Hóa 2 của Tôi
Lời người viết: Bài viết nầy viết theo ký ức
những hoạt cảnh và suy nghĩ trong quá khứ cách đây 38 năm, có thêm sự giúp sức
của hai cựu sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn, lớp Lý Hóa 2 niên học 1973-1974.
Xin cám ơn hai chị Hồng Oanh và Tú Anh
Sau khi
thủ tục hành chánh hoàn tất việc thu dụng vào Đại học Sư Phạm, tôi được phân
nhiệm vào Ban Hóa học với chức vụ Trưởng ban và ngạch Giảng Sư vào tháng 9 năm
1973. Tôi bắt đầu đi làm việc hàng ngày. Mặc dù đã có trên 2 năm giảng dạy ở Besancon,
nhưng không khí giữa các đồng nghiệp với nhau vẫn làm cho tôi bỡ ngỡ mặc dù nói
cùng một ngôn ngữ Việt Nam, nỗi bỡ ngỡ ban đầu có lẽ vì tôi là một người mới chưa
tạo được niềm tin nơi đồng nghiệp. Nhưng chưa đầy một tuần lễ sau, tôi khám phá
ra rằng, Ban Hóa học tuy chỉ có 15 nhân viên giảng huấn và phòng thí nghiệm,
nhưng vô hình chung chia ra làm hai nhóm, nhóm “thân chính quyền” (tức là nhóm
thân cận với GS Phó khoa trưởng, Lý Công Cẩn) và nhóm trẻ, độc lập với tinh thần
cầu tiến. Tôi không quên nhắc đến các Giảng nghiệm viên trẻ đã giúp tôi trong
khoảng thời gian nầy và về sau nữa như Nguyễn Hoàng Duyên (bây giờ là Luật sư ở
San Jose), Nguyễn Văn Kim (hiện là hướng dẫn viên du lịch bằng tiếng Pháp ở Việt
Nam), Lôi Quốc Quế (hiện là Giám đốc một Công ty chà xát và đáng bóng gạo ở
VN).
Vốn
tính bình dân và dễ bắt chuyện, tôi đã làm thân được với nhóm thứ hai nầy, và
nhờ đó tôi biết được sinh hoạt cùng một số tính tình của các đồng nghiệp. Chính
những buổi ngồi “tán gẩu” ở Câu lạc bộ sinh viên, tôi mới hiểu thêm nhiều cung
cách sinh hoạt và giảng dạy đặc thù ở Ban Hóa học.
Buổi học đầu tiên
Thắm
thoát buổi dạy đầu tiên của tôi bắt đầu trên Quê Mẹ. Tôi phụ trách lớp Lý Hóa
2, nghĩa là đã qua 3 năm đại học, với môn giảng dạy là Hóa Cơ cấu (Structural
Chemistry), mổi tuần 4 giờ.
Lớp
tôi có tất cả 34 anh chị gồm 23 trai và 11 gái. Các anh chị trong lớp thuộc lứa
tuổi từ Canh Dần (1950), Tân Mão (1951), Nhâm Thìn (1952) và Quý Tỵ (1953). Sở
dĩ biết được những điều trên là vì, trước khi bắt đầu buổi học đầu tiên, tôi đã
vào văn phòng sinh viên vụ lượt duyệt qua thành phần sinh viên trong lớp để biết
thêm về gia cảnh của mỗi sinh viên để được dễ dàng giao tiếp trong những ngày sắp
đến.
Trong
hai giờ học đầu tiên, ngoài việc giới thiệu “thân thế và sự nghiệp”, tôi nói
lên quan điểm và “triết lý” của tôi trong việc giảng và dạy.
Trước
hết, tôi minh định rất rõ là tôi không dám “làm Thầy” của quý anh chị, mà vai
trò của tôi chỉ là chuyển đạt những thông tin khoa tin khoa học đến các anh chị
mà thôi.
Tôi mời
gọi sự đối thoại trực tiếp, chấp nhận phản
bác trong tinh thần cởi mở, khoa học và tương kính.
Và triết
lý “giáo dục ba xu” của tôi về môn hóa học là “mỗi trường hợp là một trường hợp
đặc thù, nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ có thể lập lại một phản ứng hóa học
giống nhau (identical) hai lần”. Dù cho có cùng một áp suất, nhiệt độ,
cân lượng giống nhau nhưng thực hiện vào thời điểm to và t1
đã là khác nhau rồi. Thêm nữa, cấu trúc của các hóa chất tham dự vào phản ứng
tuy cùng một tên gọi nhưng phân tử hay nguyên tử tạo thành hóa chất trên sẽ
không giống nhau. Tôi diễn dịch “triết lý” nầy dựa theo thuyết tương đối để từ
đó đi đến kết luận là trong mọi sự kiện hay hiện tượng xảy ra trên quả đất nầy
luôn cả trong tình yêu đều chỉ là tương đối. Nếu có tuyệt đối thì tuyệt đối đó
chỉ là tương tuyệt đối mà thôi.
Các lập
luận triết lý ba xu của tôi cũng đã làm ngạc nhiên không ít cho những anh chị
trong lớp học suốt hai giờ.
Sau buổi
học đầu tiên, một số sinh viên đến gặp tôi, nói chuyện, trao đổi nhau…và từ đó
ngày càng thâm tình hơn lên và lớp LH2 nghiễm nhiên trở thành lớp “chou chou” của
người “Thầy” MTT cho mãi đến ngày viết lên những dòng chữ nầy, mặc dù tôi cũng
đã dạy các lớp khác, nhưng không có được những kỷ niệm đầy ấp của những anh chị
em LH2.
Giảng dạy và Thi cử
Nhận
thấy cách dạy và học cùng chế độ thi cử của giáo dục Việt Nam thời bấy giờ vẫn
còn rập khuôn theo phương pháp cũ, nghĩa là người thầy dạy liên tục một bộ môn
cho đến hết học kỳ, để rồi sau đó ra một kỳ thi cuối khóa. Và bài thi phải là một
đề tài khó, phức tạp…để chứng tỏ “người
Thầy” học cao và hiểu rộng. Chính quan niệm nầy đã là một cản lực cho bước
tiến của sinh viên và làm chậm lại việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Xin những bậc
“Giáo sư tiền bối”, những Trưởng lão trong ngành giáo dục VNCH hãy can đãm nhận
lấy trách nhiệm của mình vì đã để biết bao nhiêu sinh viên vì thi rớt, phải rời
mái trường, vào quân trường và đã hy sinh mạng sống cho cuộc chiến!
Từ đó,
quan niệm về “việc kiểm soát liên tục” để làm nhẹ bớt gánh nặng cho sinh viên ở
cuối khóa, nghĩa là sau vài ba chương học, người phụ trách giảng dạy cho ra một
kỳ kiểm tra, để rồi, cuộc thi cuối học kỳ chỉ chiếm một tỷ lệ % nào đó. Kết quả
cuộc thi là tổng hợp tất cả các kỳ kiểm tra và thi cuối học kỳ. Tổ chức như vậy
thì sinh viên tương đối không bị nhiều áp lực thi cử cuối năm, và người phụ
trách giảng dạy phải mất thêm thời gian chuẩn bị ra đề thi và chấm thi. Điều nầy
ít có “giáo sư” nào áp dụng vì mất nhiều thì giờ mà không “sanh lợi” (thù lao).
Do nhận
xét trên cùng hấp thụ một nền giáo dục Tây phương qua cung cách giảng dạy và chế
độ thi cử không từ chương, tôi đã áp dụng phương pháp kiểm soát liên tục và giảng
dạy qua các thí dụ giản dị trong bộ môn cơ cấu hóa học. Điều nầy đã làm cho một
số “lão” giáo sư ở đại học lân cận phê phán là “ngựa con háo đá”, cũng như các
đồng nghiệp thuộc “nhóm thân chính” cho là tôi ….không biết dạy.
Và tôi
vẫn tiếp tục đi theo con đường đã vạch sẳn và năm sau, 1974, hai dự án nghiên cứu
rất giản dị của tôi là: “Phương pháp kiểm soát liên tục trong thi cử” và
“Phương pháp giảng dạy hóa học bằng thực nghiệm” đã được Vietnam Education
Foundation (VET) chấp thuận và đã giải ngân để bắt đầu nghiên cứu. Rất tiếc hai
dự án không thể hoàn tất được vì nỗi can qua của dân tộc.
Trở lại
lớp LH2, dù biết hầu hết các anh chị đã đâu chứng chỉ Cơ cấu nầy bên Khoa học,
nhưng tôi vẫn tiếp tục “giản di hóa” cách dạy và cũng nhờ chính phương pháp nầy
mà tôi có nhiều thì giờ trao đổi với sinh viên và hiểu tâm trạng của các anh chị
nhiều hơn qua những lời tâm sự…
Học không những là hấp thu những lời thầy
giảng mà học còn là hấp thụ được nhân cách của người thầy. Nếu
suy nghĩ trên là đúng, tôi hãnh diện là người thầy của lớp Lý Hóa 2 niên khóa
1973 – 1974 của tôi.
Các sinh hoạt sinh viên ngoài giờ
Ngoài
việc đứng lớp, văn phòng tôi hầu như lúc nào cũng có sự hiện diện của anh chị
em LH2 đến thăm và trao đổi. Tôi dành nhiều thời giờ để tiếp sinh viên hơn là
lên lớp dạy. Với ngạch Giảng sư, chỉ cần dạy 3 giờ/tuần là đủ lảnh nguyên lương
(khoảng 70.000$VN thời đó). Còn nếu dạy thêm sẽ lảnh lương phụ trội. Do đó, nhiều
đồng nghiệp mong được chia nhiều giờ dạy và mỗi khi dạy xong thì biến khỏi “hiện
trường” (lớp học) ngay để làm những chuyện khác.
Trong
suốt thời gian hai niên học 1973-1974 và 1974-1975, tôi dành trọn thời gian 3
ngày cho Sư phạm và 2 ngày cho Đại học Cao Đài, và chính vì thế tôi có rất nhiều
cảm tình và có nhiều dịp sinh hoạt chung với hai trường trên (Xin mời xem
Chương nói về Viện Đại học Cao Đài). Sau đây là những sinh hoạt điển hình với lớp
LH2 của tôi:
· Làm sạch khu nhà vệ sinh của ĐH Sư Phạm: Với
ý thức bảo quản của công, tôi phát động phong trào làm vệ sinh và làm sạch trường
lớp. Dĩ nhiên tôi chọn LH2 làm “chủ lực”. Và ngày J, một ngày chủ nhựt đã đến với
chương trình làm sạch khu nhà vệ sinh của trường. Tất cả anh chị em mặc quần áo
ngắn để dọn hai dãy nhà vệ sinh. Thay vì lấy acid acetic để tách các chất vôi
và cáo bẩn đóng trên các bàn cầu và máng tiểu, tôi dùng acid chlorhydric để cho
có phản ứng nhanh hơn. Sau hơn hai giờ, hai dãy nhà vệ sinh trở nên sạch sẽ và
không còn phảng phất mùi “nước đáy quỷ” (mùi ammoniac) nữa. Chương trình nầy đã
được lập lại một lần nữa trước ngày Đất và Nước lâm vào cơn hồng thủy Bắc
phương.
· Thăm viếng Viện Đại học Cao Đài:
Trong chiều hướng trao đổi sinh hoạt trong sinh viên, tôi thực hiện một chuyến
thăm Viện Đại học Cao Đài cho các anh chị lớp LH2. Chuyến viếng thăm gồm ngoài
việc tiếp xúc giữa hai trường, còn có sinh hoạt văn nghệ vào buổi tối cùng viếng
thăm khu Tòa Thánh Tây Ninh. Chính hai ngày sinh hoạt nầy, làm cho anh chị LH2
nhận thức rõ là sinh viên Cao Đài rất nghèo qua các buổi cơm đạm bạc chỉ có dưa
cà, rau muống luộc ở Đền Thánh Mẫu cũng như điều kiện học tập còn quá thô sơ so
với sinh viên Sài Gòn. Tuy nhiên, một điểm nổi bật làm cho LH2 của tôi cảm động
là tinh thần và đạo đức của tín đồ Cao Đài trong cố gắng tạo dựng một cơ ngơi
giáo dục cho người dân vùng đồng khô cỏ cháy nầy.
Trong
buổi tối trình diễn văn nghệ, bản hợp ca “Dậy mà đi” do liên trường đồng ca đã
gây xáo trộn và bắt buột tôi phải chấm dứt chương trình văn nghệ. Số là vào thời
điểm dầu sôi lữa bỏng vào tháng 4 năm 1974, hầu hết mọi sinh hoạt học đường đều
có sự hiện diện của cảnh sát chìm và nổi. Điều nầy cũng không là một ngoại lệ ở
Viện Đại học Cao Đài. Mặc dù trường nằm phía bên trong khuôn viên của Tòa
Thánh, nhưng tôi được thông báo là có toán cảnh sát chìm có mang vũ khí len lõi
trong số sinh viên đang tụ họp sinh hoạt. Do đó, khi bản nhạc trên được hát
lên, anh trưởng toán cảnh sát đến gặp tôi ngay và yêu cầu giải tán. Tôi đành phải
chấm dứt chương trình trong sự hối tiếc của sinh viên.
Ủy lạo học sinh bị pháo kích ở Cai Lậy
Ngày 9
tháng 3 năm 1974, tại trường tiểu học Cai Lậy, vào khoảng 8 giờ sáng, trong khi
học sinh đang chuẩn bị xếp hàng vào lớp, Việt Cộng đã pháo kích vào và làm thiệt
mạng tại chỗ 23 em học sinh và 45 em bị thương, thay vì tấn công vào một căn cứ
quân sự của VNCH cách đó độ 2 cây số. Hành động dã man nầy đã khiến cho Richard
Falk, một vận động chính trị theo hướng khuynh tả và chống chiến tranh phải báo
động trên toàn nước Mỹ lúc bấy giờ.
Tôi
quyết định đến xem hiện trường. Sau khi thu góp nhiều hiện kim và hiện vật của
sinh viên cùng đồng nghiệp. Chỉ hai ngày sau đó, chuyến xe buýt của trường chuyên
chở khoảng 50 sinh viên đa số là LH2 và hai đồng nghiệp trẻ. Chúng tôi trực chỉ
về Cai Lậy. Đây cũng là lần đầu tiên tôi đi trên quốc lộ 4, nhìn thấy tận mặt
nông thôn Việt Nam cùng cảm nhận được nỗi bất an của nông dân trước hiễm họa xâm
lăng của cộng sản Bắc Việt trong đó Mắt trận Giảo Phóng Miền Nam chỉ là một con
cờ và là một chiêu bài của họ mà thôi.
Trong
chuyến đi nầy tôi thấm thía và mỉa mai cho câu nói “nhiều điều phủ lấy giá
gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Thương nhau đâu không thấy,
mà chỉ thấy toàn hận thù và giết chóc lẫn nhau, và sau cùng nạn nhân chính là
những người dân vô tội. Sự sai trái của việc pháo kích lầm lại còn được tuyên
truyền là “quân ta” đã tiêu diệt địch ra rả trên đài phát thanh Hà Nội thời bấy
giờ. Địch đây phải chăng là những mái đầu xanh vô tội.
Câu
chuyện pháo kích lầm và diệt địch nầy không chỉ xảy ra ở Cai Lậy mà đã xảy ra khắp
nơi từ vỹ tuyến 17 đến tận mũi Cá Mau trong suốt 20 năm của cuộc chiến.
Cám ơn
các anh chi LH2 đã giúp tôi nhìn được tận mặt cuộc chiến, trong đó một bên tham
chiếm chỉ vì ý thức hệ mà quên đi nhân tính hiền hòa cùa dân tộc Việt.
Tính quần chúng
Qua suốt gần hai năm làm công việc giảng dạy và sinh hoạt
với sinh viên, GS Huỳnh Ngọc Tiếu, phụ trách sinh viên vụ của trường, và năm sau, 1974, GS Lê Quang Tiếng (hiện ở Pasadena, CA) lên thay
thế, cả ba chúng tôi làm việc rất mật thiết, thường xuyên chia xẻ cùng nhau một
số vấn đề của sinh viên, dĩ nhiên không quên những yếu tố chính trị nhạy cảm, tức
cuộc chiến Quốc Cộng đang xảy
ra trên quê hương.
Nên nhớ, người cộng sản luôn cổ súy tinh thần phi chánh trị trong đại học,
nhằm mục đích ru ngủ sinh viên để tập trung vào việc học. Nhưng trên mặt khác,
bằng chiến dịch rỉ tai, khuyến dụ, thậm chí họ còn hăm dọa và kích động người
sinh viên tham gia vào cuộc lật đổ
chế độ Mỹ - Thiệu. Chính nhờ Văn phòng sinh viên vụ mà các sinh viên như Ngô Phàn, Mai Hồng Thu (học
ban Lý hóa Đệ nhứt cấp) sớm bị khám phá, phải chạy vào bưng trước khi gây nên “tội ác” nơi chốn học
đường. Thiết nghĩ, nếu các trường đại học khác ở Sài Gòn có chính sách sinh
viên vụ nghiêm chỉnh, những trường hợp như Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm chắc khó xảy ra! Nhưng không phải vì thế mà trường
Đại học Sư phạm tránh được nạn sinh viên thân cộng.
Mối giao tình giữa tôi và các đồng nghiệp trong sinh viên
vụ, cùng các sinh hoạt sinh viên có tính cộng đồng chắc chắn làm cho các sinh
viên thân cộng và nằm vùng chú ý
và báo cáo lên thượng cấp. Cũng có lẽ từ đó tôi bị kết án là phản động (?) vì có
tính quần chúng, một độc quyền của người cộng sản.
Và cũng chính vì thế mà tôi bị đì, ngay từ ngày đầu tiên
CS kiểm soát trường. Sau cùng tôi phải chạy đi nơi khác tìm chỗ ẩn thân.
Cuộc họp mặt lịch sử
Ngay sau khi màn “học tập tại chỗ” cho giáo chức đại học hoàn tất cùng việc phân loại sinh viên cảm
tình Đoàn, cho đến sinh viên thuộc gia đình tư sản hay phản động, ban lãnh đạo
nhà trường bắt đầu chuẩn bị cho việc học tập trở lại và tuyển sinh viên năm Dự
bị vào trường vào giữa năm 1976.
Dĩ nhiên là tôi không được dự
một phần nhỏ nào trong việc tổ chức trên. Tôi chỉ là kẻ đứng bên lề “cuộc chơi”.
Một buổi chiều giữa tháng 6 năm 1976, tôi mời tất cả sinh
viên LH2 đến nhà tôi ngụ tại đường Nguyễn minh Chiếu, ngay sau lưng Nha Hàng
Không Dân Sự nằm trên đường Cách Mạng 1-11.
Phòng khách nhà tôi có kích thước 5x8 mét, được dọn dẹp
bàn ghế vào sát tường để dành đủ
chỗ trống cho khoảng 30 anh chi em đến dự hôm đó. Tôi ngồi giữa, mặc bên ngoài áo sơ mi một áo
kimono màu xanh do một người bạn Nhựt tặng. Phía sau lưng áo có một vòng tròn
màu trắng trong đó có ghi chữ Xuất (出) (theo lời GS Nguyễn
Văn Sâm, một người bạn từ thời tiểu học nói chữ nầy là do hai chữ Sơn gộp lại).
Sau khi hàn huyên mọi
chuyện, nhứt là tình hình trong trường, vì lúc đó tôi đã rời khỏi nơi chốn thân
thương nhiều kỷ niệm để đi vào một cuộc phiêu lưu mới. (xin xem Chương “Con đường
đi đến Ban Khoa học Kỹ thuật thành phố”). Tôi mang ra một can nhựa 10 lít chứa
đầy rượu mía Hiệp Hòa. Tôi mời mỗi người uống cùng tôi một chung rượu. Sau mỗi
chung rượu mời, tôi tự đáp lễ một
chung cho chính tôi, nghĩa là tôi đã uống tổng cộng 30 chung rượu trong một thời
gian ngắn.
Tiếp theo, tôi mời
các anh chị lên sân thượng xem “vườn thượng uyển” của tôi do một anh sinh viên
Cao Đài đã chia ngọt xẻ bùi ngay sau ngày 30/4/75. Đó là Lê Phú Huy hiện ở
Vancouver, Canada. Tôi đã bắt đầu xây xẩm mặt mày, có lẽ vì vừa uống nhiều rượu, vừa bị trúng
gió khi lên sân thượng, và cũng có lẽ vì tôi quá cảm động không ngờ hầu như tất
cả LH2 của tôi đều có mặt ở
nhà tôi hôm đó.
Tôi cố gắng tiễn chân
từng sinh viên một. Vừa dắt xe đạp ra khỏi cửa nhà tôi, Chị ĐTTV ghé tai tôi
nói nhỏ: “Thầy nên cẩn thận, họ đang tìm cách bắt Thầy đó”. Tiếp theo, Chị CHO
đi bên cạnh nhắc tôi coi chừng vì có vài anh nằm vùng trong nhóm. Cảm kích vì lời
nhắn của hai Chị, tôi trấn an bằng cách cho hai Chị biết là tôi cũng đã phòng
ngừa kỹ lưỡng tình trạng xấu nhứt xảy ra cho tôi rồi...tức là đi tù là cùng...
Buổi họp mặt ngày hôm
đó cho đến bây giờ dường như đang xảy ra trước
mắt tôi. Các Anh, các Chị Lý Hóa 2 ơi! Thầy
của các Anh các Chị vẫn còn một lòng sắt son với quê hương và luôn dồn tâm sức
vào tiến trình mang lại tự do, nhân quyền cho 88 triệu bà con đang còn quằng oại dưới gông
cùm của cường quyền.
Đây là một lời hứa của
Thấy và cũng là một Lời Nguyền của một người con Việt.
Lớp Lý Hóa 2 hiện tại
Trong
hồi ức giữa mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, tôi cố tìm lại những hình ảnh củ lớp LH2.
Trong số 34 sinh viên, tôi hình dung vị trí từng anh, từng chị ở dãy lớp học
bên phía Ban Văn Chương do Phó Khoa trưởng Lê Văn (quá cố tại Hoa Kỳ cuối năm
2009) phụ trách. Xin được liệt kê ra đây danh sách các anh chị:
· Các
anh: - Nguyễn Cấp – Trần Văn Chương – Nguyễn Bá Dũng – Lê Xuân Dũng – Phạm Long
Hải – Lê Thành Hiếu – Nguyễn Đức hoành – Nguyễn Thành Hiệp – Nhiêu Khương Huê –
Liêm (gốc Chàm) – Trần Mạng – Nguyễn Hữu Mỹ - Nguyễn Hữu Ơn – Lê Tấn Phát –
Nguyễn Thanh Sơn – Nguyễn Long Thành – Nguyễn Văn Thiện – Nguyễn Chí Thiện –
Nguyễn Thiều – Trần Đăng Ưng - Nguyễn Thanh Vân – Nguyễn Ngọc Vượng – Nguyễn Hữu
Vy.
· Các chị:
- Nguyễn Thị Tú Anh – Trần Thị Dung – Nguyễn Thị Hồng Hoa – Bùi Tuyết Hồng –
Nguyễn Thị Kim Loan – Trần Thị Bích Liên – Chu Hồng Oanh – Nguyễn Thị Ngọc Sanh
– Phí Thị Từ - Đinh Thị Tùng Vân – Nguyễn Thị Kim Yến.
Những
anh chị LH2 mà tôi đã gặp hay biết tin tức lần lượt xin được kể ra đây.
Được
biết anh Huỳnh Long Hải đã qua đời. Anh Lê Thành Hiếu được bổ dạy ở trường
Trung học Hậu Nghĩa (dù tỉnh nầy đã bị xóa tên và xáp nhập vào tỉnh Long An khi
CS vào) thời gian đầu và sau đó anh rời nhiệm sở…
Tôi đã
liên lạc được chị Chu Hồng Oanh vào cuối năm 1985 khi tôi đang làm post
doctorate ở Medical School ở Minneapolis, Minnesota. Nhưng sau đó lại mất liên
lạc. Mãi đến năm 2009 mới gặp lại cùng với chị Nguyễn Thị Tú Anh cùng môt người
anh là Anh Tú, trưởng lớp LH3 năm 1974, lớp mà tôi có dịp phát bằng ra trừơng
vào tháng 6, 1974 (bằng cấp lúc đó chỉ là một cuộn giấy cứng trượng trưng mà
thôi).
Năm
2010, tôi có dịp đi ăn với chị Nguyễn Thị Ngọc Sanh đến từ San Jose ở nhà chi6
Oanh. Cùng thời gian đó tôi lại được dịp gặp chồng của Chi Đinh Thị Tùng Vân, một
bác sĩ thành công (về tài chánh) ở Việt Nam qua Hoa Kỳ thăm con đang du học tại
đây.
Tôi lại
may mắn gặp anh Nguyễn Chí Thiện, du lịch qua Mỹ. Ngoài ra tôi cũng được biết
các anh chị em LH2 vẫn còn sinh hoạt thường xuyên ở quê nhà trong tinh thần đồng
môn.
Dù nhiều
anh chị bỏ nghề. Nghe nói anh Hiệp, phấn đấu và được làm…đến chánh sở học chánh
quận Nhà Bè (?), nhưng sau đó chán nản cung cách giáo dục cs cho nên phải từ
nhiệm. Anh Nguyễn Thanh Sơn, trưởng lớp LH2, cùng vượt biên và đã gặp tôi tại
Sungai Busi, Mã Lai. Anh tỏ vẻ e ngại khi thấy tôi làm Trưởng trại lúc đó;
nhưng tôi đã trấn an cho anh là Thầy không bao giờ hại trò cả, cũng như những
hành động phấn đấu của anh lúc đó chỉ vì chưa nhận thức được bộ mặt thật của những
người cộng sản mà thôi. Anh đã định cư ở Canada.
Kết luận
Vừa
ghi lại những dòng chữ trên, tôi dường như cũng vừa trút bỏ một tâm sự từ gần
40 năm. Đối với tôi, mối quan hệ giữa Trò
và Thầy rất quan trọng. Tuy đây là một khoảng cách xa nếu so với vai vế, nhưng
nếu người thầy biết vận dụng mối quan hệ tương tác giữa thầy trò, người học trò
hay người sinh viên sẽ giúp cho người thầy diễn đạt vai trò của mình hay hơn,
uyển chuyển hơn. Sau hết trong giao tiếp chân thật, nhờ đó, học trò có cơ hội
quan sát mình rõ hơn và có thể có những nhận xét chính xác hơn giúp người thầy trong
việc giảng dạy.
Tôi đã
có may mắn hướng dẫn và sinh hoạt với LH 2 và chính nhờ đó, qua những cọ sát
trong xã hội, thăng trầm của cuộc sống và qua thời gian, tâm hồn tôi dung chứa nhiều hình ảnh
tích cực hơn là tiêu cực.
Các
Anh Chị, ngay từ những giây phút đầu, đã gợi ý cho tôi thử nghiệm một phong
cách dạy mới là phá vở rào cản Thầy-Trò,
một điều khó làm và khó được các đồng nghiệp khác chấp nhận vì quan niệm Nho
giáo còn quá sâu đậm trong tâm khảm người Việt mình.
Các
Anh Chị đã cho tôi thể hiện cái Tâm nhân bản và ý thức cộng đồng khi đã cùng
tôi tham gia vào những sinh hoạt ngoài học đường, điều mà nhiều đồng nghiệp
khác không thích làm hay không muốn làm.
Cám ơn
các Anh Chị Lý Hóa 2.
Hy vọng
chúng ta sẽ cùng cạn chén trà trong một tương lai không xa tại Sài Gòn.
Mai Thanh Truyết
Một thời không quên
Mùa Lễ Tạ Ơn 2011
No comments:
Post a Comment