Monday, January 18, 2021

 

Thưa Bà Con,

Dưới đây là bài viết tổng họp từ nhiều nguồn trên mạng toàn cầu. Người viết chỉ kết nối “tình tiết” lại với nhau và góp thêm “chút chút” ý kiến của một người con Việt. Có vài hình ảnh gần đây được chụp vào tháng 7/2019 do bạn bè ở Việt Nam gửi qua, để có sự đối chiếu trước và sau cơn nghiệt ngã của dân tộc! Nghĩa trang trước 1975 chiếm 125 mẫu Tây- hectare (1 hectare = 2,2 acre (MỸ)).

Ngày mai là ngày 19/1, ngày Tưởng niệm 74 vị anh hùng Hải quân Việt Nam Cộng Hỏa đã tiếp tục “con đường Bạch Đằng” của Đức Trần Hưng Đạo vạch ra khi xưa, và làm nên lịch sử. Sẽ không bao giờ quên tấm gương hy sinh vì Tổ Quốc của 74 Vị Anh Hùng trên.

***

Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa

 

“Nghĩa trang đuợc thành lập từ năm 1965 với quy hoạch 30.000 mộ phần, nghiã trang Quân đội tính đến năm 1975, đã là nơi an nghỉ của khoảng 16.000 tử sĩ, trong số đó có hơn 10.000 quân nhân tử trận trong hai chiến trường đẫm máu nhất “Tết Mậu Thân năm 1968 và Mùa hè đỏ lửa năm 1972”, dù sao đi nữa, xét về khía cạnh nhân bản, những người sống vẫn còn được an ủi là nghĩa trang chỉ mới đạt một nửa công suất thiết kế, nếu 30.000 mộ được lấp kín, niềm đau thương sẽ tăng gấp đôi khi cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt.

Tuy nhiên, xét về mặt chính trị, sự hoang phế của Nghĩa trang Quân đội ngày nay nằm ở trách nhiệm của chính quyền mới. Ông cha ta đã có câu nghĩa tử là nghĩa tận. Dù tử sĩ trước khi nằm xuống có khoác áo quân đội miền Nam hay miền Bắc thì họ vẫn là người Việt.

Năm 1964, nghĩa trang Quân đội ở Gò Vấp trở nên chật hẹp, không gánh vác được hậu quả của chiến tranh khi những người lính tử trận được đưa về ngày một nhiều. Cuộc chiến vẫn tiếp tục leo thang, phần lớn sĩ quan thuộc khu vực thủ đô đều được chôn tại nghĩa trang Mạc Ðĩnh Chi. Ở Mạc Đĩnh Chi, đất cũng bắt đầu khan hiếm và việc chôn cất ngày một tốn kém hơn.

Từ những lý do đó, người ta nghĩ đến một nghĩa trang rộng lớn hơn. Ðơn vị Chung sự, chuyên lo hậu sự cho những chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để hoạt động. Kiến nghị được trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục quân nhu, Tổng tham mưu, Tổng cục Tiếp vận. Các sĩ quan Quân nhu, Công binh, Ðịa ốc Tổng tham mưu đã phải bay trực thăng trên không phận Thủ Ðức, Bình Dương, Biên Hòa, nghiên cứu địa thế thật đẹp dành làm nơi an nghỉ cho các chiến hữu.

Đầu năm 1965, Liên đoàn 30 Công binh Kiến tạo đóng tại Hóc Môn đảm nhận công tác xây dựng và những chiếc xe ủi đất đầu tiên của Tiểu đoàn 54 Công binh bắt đầu hoạt động. Năm 1966, doanh trại của Liên đội Chung sự và khu nhà xác được xây dựng để tiếp nhận những di hài tử sĩ đầu tiên. Công binh tiếp tục làm đường, phân lô, xây Cổng Tam Quan, dựng Ðền Liệt Sĩ, đúc các tấm ciment và làm mộ bia.

Tử sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa Dũng Ðài lần lượt tỏa ra các khu bên ngoài. Ðã có trên 10 tướng lãnh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa trong đó có cả các vị đại tá được vinh thăng sau khi tử trận. Người có cấp bậc cao cấp nhất được chôn tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Hiện nay ngôi mộ này đã được gia đình cải táng nhưng tại vị trí cũ vẫn còn dấu tích.

Trên đường vào nghĩa trang, đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị nhưng bề thế và chân phương. Giữa cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững vàng và gần như còn nguyên vẹn dù cỏ mọc, rêu phong.

Qua Cổng Tam Quan là con đường dẫn đến ngôi Ðền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối dẫn lên từ bốn phía. Ðây là nơi để linh cữu trước khi chôn cất. Ðây cũng là nơi Tổng thống, Thủ tướng hay các giới chức cao cấp trong chính quyền chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử sĩ.

Nghĩa trang Quân đội được xây dựng theo mô hình của một con ong. Đầu ong hướng về phía xa lộ Biên Hòa với mũi kim là con đường đâm ra xa lộ. Từ Cổng Tam Quan có hai con đường dẫn lên Nghĩa Dũng Ðài cao 43m. Ðầu ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Ðền Tử Sĩ hay Ðền Liệt Sĩ. Phía dưới chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa lộ.

Bức tượng Thương Tiếc là hình ảnh người lính ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang đùi, nét mặt buồn bã. Tác giả pho tượng đồng đen này là nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu, ông đã chọn người mẫu là một hạ sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù.

Người ta kể rằng vào những buổi chiều mờ sương, anh lính rời bệ đá, đi lững thững xuống con suối gần đó để uống nước. Còn có rất nhiều huyền thoại về bức tượng Thương Tiếc. Sau ngày 30/4/1975, tượng Thương Tiếc đã bị phá sập. Người ta nói anh lính đã chui vào lò nấu kim loại tái sinh… và như thế đã được đầu thai sang kiếp khác.

Từ chân Nghĩa dũng đài, lưng ong chia làm hình nan quạt hướng ra 4 phía và tạo thành một lưới nhện. Phần đuôi ong hẹp, phần dưới dài ra như quả trứng. Các ngôi mộ giống nhau chia thành từng khu. Khu quốc gia dành cho các vị lãnh đạo, khu tướng lãnh, khu cấp tá, cấp úy và binh sĩ.

Quân nhu nhận tử sĩ từ mặt trận được đưa về bất kể ngày đêm để chôn cất, trong đó có những người lính tham gia các trận Mậu Thân 68, trận Mùa Hè 72, trận Hạ Lào, trận Cambodia. Tử sĩ của các đơn vị tổng trừ bị đem về từ 4 quân khu bên cạnh các tử sĩ thuộc quân khu thủ đô và các tiểu khu lân cận. Tử sĩ của các quân chủng, nữ quân nhân, thiếu sinh quân, tất cả đều nằm trong lòng đất Biên Hòa.

Tháng 3/1975, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm nghĩa trang và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai có thể nghĩ đây là lần viếng sau cùng của một viên chức cao cấp VNCH sau biến cố tháng 4.

Nghĩa trang có các toán quân danh dự canh gác theo lễ nghi quân cách tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Ðài. Quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin khi họ có đủ điều kiện. Với vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington, Hoa Kỳ.

Sau Ðền Tử Sĩ, phải đi một đoạn rất dài mới đến đỉnh một dải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Ðài. Ðây là công trình quan trọng nhất mà Công binh Việt Nam đã thực hiện từ tháng 11/1967.

Trên nền đất phẳng, Công binh đổ 10,000m3 đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo trong gần hai tháng. Trên ngọn đồi nhỏ này, Công binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời. Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43m. Chân của chữ thập đường kính 6,5m và trên mũi nhọn là 3,5m, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ nhìn thấy thành phố Sài Gòn….”

Bài viết trích từ Nguyễn Ngọc Chính's Blog:

VÀ dưới đây là “version” trên wikipedia

“Nghĩa trang Nhân dân Bình An, còn được gọi tắt là Nghĩa trang Bình An, Nghĩa địa Bình An, là một nghĩa trang công tọa lạc tại phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Việt Nam. Trước năm 1975, đây là một nghĩa trang quân đội trực thuộc quản lý của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, thường được biết đến với tên gọi Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa. Nơi đây từng là nơi chôn cất hàng vạn tử sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũng như các quan chức, sĩ quan cao cấp của chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nghĩa trang này đặt dưới của quản lý của Quân khu 7, Bộ Quốc phòng; nhiều năm bị bỏ hoang phế do không có người trông coi và chịu trách nhiệm. Cuối năm 2006, chính phủ Việt Nam đã chuyển giao quyền quản lý từ quân sự sang dân sự.

Nghĩa trang được khởi công vào tháng 11 năm 1967, mô phỏng hình con ong, do kiến trúc sư Lê Văn Mậu phụ trách thi công đã vào giai đoạn 2, thời gian sáu năm, chi phí 100 triệu đồng tiền Việt Nam Cộng hòa (thời giá năm 1973). Nghĩa trang tọa lạc trên một đồi thấp diện tích 125 ha, được phân chia thành tám khu từ A đến I. Mặt tiền nghĩa trang có một bức tượng có tên gọi là Thương tiếc cao 5 m và được đặt trên bệ cao 3 m, do nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu sáng tạo, khắc họa hình ảnh một quân nhân Việt Nam Cộng hòa cầm súng ngồi canh gác, được dựng vào năm 1966. Vào trong nghĩa trang còn có đền Tử sĩ được xây trên một ngọn đồi thấp, trước đền có cổng tam quan. Ở giữa nghĩa trang là một tháp xi măng được gọi là Nghĩa Dũng đài cao 43 m.

Theo quy hoạch, nghĩa trang có sức chứa 30.000 mộ. Cao điểm vào Tết Mậu Thân 1968 và Mùa hè đỏ lửa 1972, nghĩa trang tiếp nhận trên 10.000 chiến sĩ trận vong. Tính đến năm 1975, nghĩa trang là nơi chôn cất của 18.318 lính và sĩ quan, chiếm 1/3 diện tích nghĩa trang. Bên cạnh tiếp nhận các quân nhân tử trận, nghĩa trang còn là nơi an táng của thành viên của ba nhánh quyền lực của chánh phủ Việt Nam Cộng hòa (lập pháp, hành pháp và tư pháp).

Một trong những hội đoàn đã bắt đầu thực hiện sớm nhất công việc sửa sang lại các ngôi mộ hoang phế này là hội VIA.VIG (Association D’aide Aux Victimes De Guerre Du VietNam - Hội Bạn của Thương Phế Binh VNCH) ở Pháp do ông Nguyễn Quang Hạnh làm chủ tịch. Là một sĩ quan quân đội cũ, ông cảm thấy đó là trách nhiệm của mình với đồng đội đã nằm xuống. Ông Hạnh cho biết:

“Trước 1975 tôi đã từng đưa anh em quân đội vào đây. Sau 1975 tôi đi tù cải tạo về thì tôi cũng nghĩ đến anh em muốn vào thăm nhưng lúc đó quân đội canh gác nên không thể nào vào. Sau khi tôi ra ngoài này, khi quân đội đã bàn giao nghĩa trang này cho Dĩ An, Bình Dương, lúc đó quân đội rút đi rồi thì chuyện vào nghĩa trang dễ hơn trước. Bắt đầu năm 2006, với tính cách là Hội Từ Thiện của VIA.VIG tôi đã vào đó tu sửa một số mộ phần của anh em.”

Hiện nay, chỉ còn lại 1/3 diện tích của nghĩa trang trong đó có mộ. Bây giờ CSBV đã xây chung quanh một bức tường trên có một hàng rào kẽm gai. Dĩ nhiên 2/3 đất nghĩa trang còn lại đã được phân phối cho cán bộ làm “chủ”! Nguyễn Quang Hạnh.

VÀ lời của người viết:

Từ đầu năm 2007, Sáng hội Việt-Mỹ (Vietnamese American Foundation - VAF) (tên đã được danh xưng khi ra mắt tại Houston) đã bắt đầu gây quỹ để “chỉnh trang” nghĩa trang với sự tiếp tay của nhà “cầm quyền” trong việc “tìm kiếm” cựu quân nhân, công chức bị đi học tập và “chết” ở khắp trại tù từ Bắc chí Nam qua lời yêu cầu của thân nhân người quá cố…

Việc làm nầy có thực sự là một việc làm có ý nghĩa mang lai danh dự cho những người lính VNCH hay không?

Hay “xin” được mang tên trở lại “Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa”?

Hay “hiệp đồng” cùng CSBV để hòa cùng bản nhạc mà họ đã tuyên bố vào năm 2007 dưới thời Nguyễn Tấn Dũng là “Việc biến nghĩa trang quân đội thành một nghĩa trang dân sự là một hành động hòa hợp hòa giải dân tộc” (Lời của Tướng Chỉ huy Quân khu 7 lúc đó).

Xin để Bà Con thẩm định.

 

















No comments:

Post a Comment