Thưa Bà Con,
Dưới đây là bài viết tổng họp
từ nhiều nguồn trên mạng toàn cầu. Người viết chỉ kết nối “tình tiết” lại với
nhau và góp thêm “chút chút” ý kiến của một người con Việt. Có vài hình ảnh gần
đây được chụp vào tháng 7/2019 do bạn bè ở Việt Nam gửi qua, để có sự đối chiếu
trước và sau cơn nghiệt ngã của dân tộc! Nghĩa trang trước 1975 chiếm 125 mẫu Tây-
hectare (1 hectare = 2,2 acre (MỸ)).
Ngày mai là ngày 19/1, ngày Tưởng
niệm 74 vị anh hùng Hải quân Việt Nam Cộng Hỏa đã tiếp tục “con đường Bạch Đằng”
của Đức Trần Hưng Đạo vạch ra khi xưa, và làm nên lịch sử. Sẽ không bao giờ quên
tấm gương hy sinh vì Tổ Quốc của 74 Vị Anh Hùng trên.
***
Nghĩa
trang Quân đội Biên Hòa
“Nghĩa
trang đuợc thành lập từ năm 1965 với quy hoạch 30.000 mộ phần, nghiã trang Quân
đội tính đến năm 1975, đã là nơi an nghỉ của khoảng 16.000 tử sĩ, trong số đó
có hơn 10.000 quân nhân tử trận trong hai chiến trường đẫm máu nhất “Tết Mậu
Thân năm 1968 và Mùa hè đỏ lửa năm 1972”, dù sao đi nữa, xét về khía cạnh nhân
bản, những người sống vẫn còn được an ủi là nghĩa trang chỉ mới đạt một nửa
công suất thiết kế, nếu 30.000 mộ được lấp kín, niềm đau thương sẽ tăng gấp đôi
khi cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt.
Tuy
nhiên, xét về mặt chính trị, sự hoang phế của Nghĩa trang Quân đội ngày nay nằm
ở trách nhiệm của chính quyền mới. Ông cha ta đã có câu nghĩa tử là nghĩa tận.
Dù tử sĩ trước khi nằm xuống có khoác áo quân đội miền Nam hay miền Bắc thì họ
vẫn là người Việt.
Năm 1964, nghĩa trang Quân đội
ở Gò Vấp trở nên chật hẹp, không gánh vác được hậu quả của chiến tranh khi những
người lính tử trận được đưa về ngày một nhiều. Cuộc chiến vẫn tiếp tục leo
thang, phần lớn sĩ quan thuộc khu vực thủ đô đều được chôn tại nghĩa trang Mạc
Ðĩnh Chi. Ở Mạc Đĩnh Chi, đất cũng bắt đầu khan hiếm và việc chôn cất ngày một
tốn kém hơn.
Từ những lý do đó, người ta
nghĩ đến một nghĩa trang rộng lớn hơn. Ðơn vị Chung sự, chuyên lo hậu sự cho những
chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để hoạt động. Kiến nghị được
trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục quân nhu, Tổng tham mưu, Tổng cục Tiếp
vận. Các sĩ quan Quân nhu, Công binh, Ðịa ốc Tổng tham mưu đã phải bay trực
thăng trên không phận Thủ Ðức, Bình Dương, Biên Hòa, nghiên cứu địa thế thật đẹp
dành làm nơi an nghỉ cho các chiến hữu.
Đầu
năm 1965, Liên đoàn 30 Công binh Kiến tạo đóng tại Hóc Môn đảm nhận công tác
xây dựng và những chiếc xe ủi đất đầu tiên của Tiểu đoàn 54 Công binh bắt đầu
hoạt động. Năm 1966, doanh trại của Liên đội Chung sự và khu nhà xác được xây dựng
để tiếp nhận những di hài tử sĩ đầu tiên. Công binh tiếp tục làm đường, phân
lô, xây Cổng Tam Quan, dựng Ðền Liệt Sĩ, đúc các tấm ciment và làm mộ bia.
Tử sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa
Dũng Ðài lần lượt tỏa ra các khu bên ngoài. Ðã có trên 10 tướng lãnh nằm tại
nghĩa trang Biên Hòa trong đó có cả các vị đại tá được vinh thăng sau khi tử trận.
Người có cấp bậc cao cấp nhất được chôn tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa là cố
Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí. Hiện nay ngôi mộ này đã được gia đình cải táng nhưng tại
vị trí cũ vẫn còn dấu tích.
Trên
đường vào nghĩa trang, đi theo con đường chánh xuyên tâm, lên dốc cao, phải qua
Cổng Tam Quan, một công trình xây cất giản dị nhưng bề thế và chân phương. Giữa
cảnh hoang tàn rêu phong hiện nay, Cổng Tam Quan vẫn giữ được đường nét vững
vàng và gần như còn nguyên vẹn dù cỏ mọc, rêu phong.
Qua Cổng Tam Quan là con đường
dẫn đến ngôi Ðền Tử Sĩ trên một ngọn đồi nhỏ có 4 lối dẫn lên từ bốn phía. Ðây
là nơi để linh cữu trước khi chôn cất. Ðây cũng là nơi Tổng thống, Thủ tướng
hay các giới chức cao cấp trong chính quyền chủ tọa các buổi lễ chiêu hồn tử
sĩ.
Nghĩa trang Quân đội được xây
dựng theo mô hình của một con ong. Đầu ong hướng về phía xa lộ Biên Hòa với mũi
kim là con đường đâm ra xa lộ. Từ Cổng Tam Quan có hai con đường dẫn lên Nghĩa
Dũng Ðài cao 43m. Ðầu ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Ðền Tử Sĩ hay
Ðền Liệt Sĩ. Phía dưới chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa
lộ.
Bức tượng Thương Tiếc là hình ảnh
người lính ngồi nghỉ chân trên bệ đá, súng để ngang đùi, nét mặt buồn bã. Tác
giả pho tượng đồng đen này là nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu, ông đã chọn người
mẫu là một hạ sĩ quan thuộc binh chủng nhảy dù.
Người
ta kể rằng vào những buổi chiều mờ sương, anh lính rời bệ đá, đi lững thững xuống
con suối gần đó để uống nước. Còn có rất nhiều huyền thoại về bức tượng Thương
Tiếc. Sau ngày 30/4/1975, tượng Thương Tiếc đã bị phá sập. Người ta nói anh
lính đã chui vào lò nấu kim loại tái sinh… và như thế đã được đầu thai sang kiếp
khác.
Từ chân Nghĩa dũng đài, lưng
ong chia làm hình nan quạt hướng ra 4 phía và tạo thành một lưới nhện. Phần
đuôi ong hẹp, phần dưới dài ra như quả trứng. Các ngôi mộ giống nhau chia thành
từng khu. Khu quốc gia dành cho các vị lãnh đạo, khu tướng lãnh, khu cấp tá, cấp
úy và binh sĩ.
Quân nhu nhận tử sĩ từ mặt trận
được đưa về bất kể ngày đêm để chôn cất, trong đó có những người lính tham gia
các trận Mậu Thân 68, trận Mùa Hè 72, trận Hạ Lào, trận Cambodia. Tử sĩ của các
đơn vị tổng trừ bị đem về từ 4 quân khu bên cạnh các tử sĩ thuộc quân khu thủ
đô và các tiểu khu lân cận. Tử sĩ của các quân chủng, nữ quân nhân, thiếu sinh
quân, tất cả đều nằm trong lòng đất Biên Hòa.
Tháng 3/1975, Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm lên thăm nghĩa trang và làm lễ đặt vòng hoa. Không ai có thể nghĩ
đây là lần viếng sau cùng của một viên chức cao cấp VNCH sau biến cố tháng 4.
Nghĩa trang có các toán quân
danh dự canh gác theo lễ nghi quân cách tại Vành Khăn Tang của Nghĩa Dũng Ðài.
Quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều động về theo đơn xin
khi họ có đủ điều kiện. Với vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh, cao lớn, đoàn quân
này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác nghi lễ như các đoàn
quân danh dự tại nghĩa trang Arlington, Hoa Kỳ.
Sau Ðền Tử Sĩ, phải đi một đoạn
rất dài mới đến đỉnh một dải đất cao, chính giữa trung tâm là Nghĩa Dũng Ðài.
Ðây là công trình quan trọng nhất mà Công binh Việt Nam đã thực hiện từ tháng
11/1967.
Trên nền đất phẳng, Công binh
đổ 10,000m3 đất làm thành một ngọn đồi nhân tạo trong gần hai tháng. Trên ngọn
đồi nhỏ này, Công binh xây bệ tròn, chính giữa là ngọn kiếm hướng mũi lên trời.
Cây kiếm có thân bốn cánh hình chữ thập cao 43m. Chân của chữ thập đường kính
6,5m và trên mũi nhọn là 3,5m, có bậc thang để leo lên đỉnh và đứng trên này sẽ
nhìn thấy thành phố Sài Gòn….”
Bài viết trích từ Nguyễn
Ngọc Chính's Blog:
VÀ dưới đây là “version”
trên wikipedia
“Nghĩa trang Nhân dân Bình An,
còn được gọi tắt là Nghĩa trang Bình An, Nghĩa địa Bình An, là một nghĩa
trang công tọa lạc tại phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Việt
Nam. Trước năm 1975, đây là một nghĩa trang quân đội trực thuộc quản lý của
Quân lực Việt Nam Cộng hòa, thường được biết đến với tên gọi Nghĩa trang Quân đội
Biên Hòa. Nơi đây từng là nơi chôn cất hàng vạn tử sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa cũng như các quan chức, sĩ quan cao cấp của chính thể Việt Nam Cộng hòa.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nghĩa trang này đặt dưới của quản lý của Quân khu
7, Bộ Quốc phòng; nhiều năm bị bỏ hoang phế do không có người trông coi và chịu
trách nhiệm. Cuối năm 2006, chính phủ Việt Nam đã chuyển giao quyền quản lý từ
quân sự sang dân sự.
Nghĩa
trang được khởi công vào tháng 11 năm 1967, mô phỏng hình con ong, do kiến trúc
sư Lê Văn Mậu phụ trách thi công đã vào giai đoạn 2, thời gian sáu năm, chi phí
100 triệu đồng tiền Việt Nam Cộng hòa (thời giá năm 1973). Nghĩa trang tọa lạc
trên một đồi thấp diện tích 125 ha, được phân chia thành tám khu từ A đến I. Mặt
tiền nghĩa trang có một bức tượng có tên gọi là Thương tiếc cao 5 m và được đặt
trên bệ cao 3 m, do nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu sáng tạo, khắc họa hình ảnh
một quân nhân Việt Nam Cộng hòa cầm súng ngồi canh gác, được dựng vào năm 1966.
Vào trong nghĩa trang còn có đền Tử sĩ được xây trên một ngọn đồi thấp, trước đền
có cổng tam quan. Ở giữa nghĩa trang là một tháp xi măng được gọi là Nghĩa Dũng
đài cao 43 m.
Theo quy hoạch, nghĩa trang có
sức chứa 30.000 mộ. Cao điểm vào Tết Mậu Thân 1968 và Mùa hè đỏ lửa 1972, nghĩa
trang tiếp nhận trên 10.000 chiến sĩ trận vong. Tính đến năm 1975, nghĩa trang
là nơi chôn cất của 18.318 lính và sĩ quan, chiếm 1/3 diện tích nghĩa trang.
Bên cạnh tiếp nhận các quân nhân tử trận, nghĩa trang còn là nơi an táng của
thành viên của ba nhánh quyền lực của chánh phủ Việt Nam Cộng hòa (lập pháp,
hành pháp và tư pháp).
Một trong những hội đoàn đã bắt
đầu thực hiện sớm nhất công việc sửa sang lại các ngôi mộ hoang phế này là hội
VIA.VIG (Association D’aide Aux Victimes De Guerre Du VietNam - Hội Bạn của
Thương Phế Binh VNCH) ở Pháp do ông Nguyễn Quang Hạnh làm chủ tịch. Là một sĩ
quan quân đội cũ, ông cảm thấy đó là trách nhiệm của mình với đồng đội đã nằm
xuống. Ông Hạnh cho biết:
“Trước
1975 tôi đã từng đưa anh em quân đội vào đây. Sau 1975 tôi đi tù cải tạo về thì
tôi cũng nghĩ đến anh em muốn vào thăm nhưng lúc đó quân đội canh gác nên không
thể nào vào. Sau khi tôi ra ngoài này, khi quân đội đã bàn giao nghĩa trang này
cho Dĩ An, Bình Dương, lúc đó quân đội rút đi rồi thì chuyện vào nghĩa trang dễ
hơn trước. Bắt đầu năm 2006, với tính cách là Hội Từ Thiện của VIA.VIG tôi đã
vào đó tu sửa một số mộ phần của anh em.”
Hiện nay, chỉ còn lại 1/3 diện
tích của nghĩa trang trong đó có mộ. Bây giờ CSBV đã xây chung quanh một
bức tường trên có một hàng rào kẽm gai. Dĩ nhiên 2/3 đất nghĩa trang còn lại đã
được phân phối cho cán bộ làm “chủ”! Nguyễn Quang Hạnh.
VÀ lời của người viết:
Từ đầu năm 2007, Sáng hội Việt-Mỹ
(Vietnamese American Foundation - VAF) (tên đã được danh xưng khi ra mắt tại
Houston) đã bắt đầu gây quỹ để “chỉnh trang” nghĩa trang với sự tiếp tay của nhà
“cầm quyền” trong việc “tìm kiếm” cựu quân nhân, công chức bị đi học tập và “chết”
ở khắp trại tù từ Bắc chí Nam qua lời yêu cầu của thân nhân người quá cố…
Việc làm nầy có thực sự là một
việc làm có ý nghĩa mang lai danh dự cho những người lính VNCH hay không?
Hay “xin” được mang tên trở lại
“Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa”?
Hay “hiệp đồng” cùng CSBV để hòa
cùng bản nhạc mà họ đã tuyên bố vào năm 2007 dưới thời Nguyễn Tấn Dũng là “Việc
biến nghĩa trang quân đội thành một nghĩa trang dân sự là một hành động hòa hợp
hòa giải dân tộc” (Lời của Tướng Chỉ huy Quân khu 7 lúc đó).
Xin để Bà Con thẩm định.
No comments:
Post a Comment