Con đường Việt Nam – Phần XIII
Hóa hợp hay Hòa hợp – Con đường nào cho Việt
Nam?
Vietnam at the Crossroads between Assimilation
and Reconciliation
Reflection – Recovery - Reconciliation
Nửa
thế kỷ sau 1975, người Việt Nam vẫn chưa thực sự có được một tình tự dân tộc
toàn vẹn. Những chia rẽ lịch sử, chính trị, văn hóa, cùng với sự thiếu vắng một
tiến trình hòa giải minh bạch, đã khiến công cuộc “đại đoàn kết dân tộc” nhiều khi chỉ dừng lại ở khẩu hiệu. Vấn đề
trọng tâm đặt ra là: “Việt Nam đang đi theo con đường “hòa hợp” hay “hóa hợp”?
Và con đường nào mới thực sự đứng về phía dân tộc Việt Nam?”
1-. Khái niệm “hòa hợp” và “hóa hợp”
1.1-
Hòa hợp
“Hòa”
là hài hòa, bao dung. “Hợp” là cùng nhau chung sống, chung mục tiêu. Hòa hợp
nghĩa là nhiều khác biệt vẫn có thể tồn tại song song, miễn là cùng đặt lợi ích
dân tộc lên trên hết. Đây là sự tôn trọng đa dạng, chấp nhận khác biệt như một
phần của tổng thể.
Để đạt
được tình tự dân tộc, tức là sự gắn kết, đồng lòng của người Việt trong và
ngoài nước, trước hết cần có một tiến trình hòa hợp nhắm vào thực chất, chứ
không chỉ là lời kêu gọi hình thức.
Hòa
hợp không chỉ đơn thuần là kêu gọi đoàn kết, mà là công nhận sự đa dạng lịch
sử, chính kiến và trải nghiệm của từng lớp người Việt, đặc biệt là khối hải
ngoại vốn mang nhiều vết thương và ký ức riêng sau 1975.
Hòa
hợp phải gắn liền với hòa giải tức thừa nhận những sai lầm, bất công trong
quá khứ, thay vì chỉ yêu cầu một chiều người dân phải "quên đi".
Ví dụ:
Nam Phi sau chế độ Apartheid đã chọn con đường Truth and Reconciliation
Commission – Ủy ban Sự thật và Hòa giải. Họ không phủ nhận quá khứ, nhưng cũng
không trả thù; họ chọn cách đối diện sự thật, thừa nhận lỗi lầm và hướng tới
tương lai. Đây là một điển hình của hòa hợp thật sự.
1.2-
Vì sao phải bắt đầu từ hải ngoại và dân tộc?
Người
Việt hải ngoại là một thành tố của dân tộc, vừa là một nguồn lực kinh tế, trí
thức, và chính trị quan trọng. Nếu chưa thực sự hòa hợp với họ, mọi khẩu hiệu
“đại đoàn kết dân tộc” sẽ thiếu thuyết phục.
Người dân trong nước gồm nhiều thành phần xã hội vẫn
còn có cảm giác bị gạt ra bên lề xã hội, hoặc chưa được tham gia bình đẳng vào
tiến trình phát triển quốc gia. Nếu không đối thoại và công bằng với chính đồng
bào trong nước, thì làm sao nói tới tình tự dân tộc?
1.3-
Điều kiện cần để có hòa hợp
CSBV
cần thẳng thắn nhìn lại lịch sử: không né tránh những vết thương chiến tranh, cải
tạo, vượt biên, trại tù, kỳ thị chính trị. Bình đẳng và tôn trọng: coi mọi người
Việt đều có quyền và tiếng nói ngang nhau, không phân biệt “thành phần”. Cởi mở
về chính trị và văn hóa chấp nhận đối thoại đa chiều, thay vì một chiều áp đặt.
Xây dựng niềm tin, không thể chỉ bằng lời nói; cần hành động cụ thể như minh bạch,
bảo vệ nhân quyền, và cải cách thể chế.
Nếu
Việt Nam không bắt đầu tiến trình hòa hợp thực sự với người Việt hải ngoại và với
chính dân tộc trong nước, thì tình tự dân tộc sẽ chỉ còn là khẩu hiệu.
Hòa
hợp trước, tiếp theo là tình tự dân tộc. Đây là một quy luật tự nhiên trong xã
hội loài người với công bằng, tôn trọng, và đối thoại; từ đo, mới có đồng lòng.
1.2-
Hóa hợp
“Hóa”
là biến đổi, đồng hóa. “Hợp” là nhập lại thành một. Hóa hợp là yêu cầu
bên yếu phải thay đổi bản chất, từ bỏ sự khác biệt để tan chảy vào khuôn mẫu sẵn
có. Đây là sự áp đặt, đồng hóa, chứ không phải hòa giải.
Ví dụ:
Chính sách đồng hóa của Trung Cộng đối với Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ như ép bỏ
ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hóa bản địa. Tất cả các điều trên chính là một hình
thức “hóa hợp cưỡng bức”.
Rốt
lại, điểm mấu chốt cần rõ ràng và minh bạch giữa hai khái niệm là:
· Hòa hợp đặt trọng tâm vào việc tôn trọng sự khác biệt
để cùng tồn tại.
· Hóa hợp nhằm xóa bỏ sự khác biệt để phục vụ quyền lực
thống trị của cường quyền, tức là đồng hóa.
2- Thực trạng Việt Nam: Hòa hợp hay Hóa hợp?
2.1-
Những tuyên bố về “đại đoàn kết dân tộc” của CSBV
CSBV
thường rêu rao và kêu gọi: “Dù ở đâu, người Việt Nam cũng là
con dân đất Việt”, là “máu thịt của dân tộc”,
là “khúc ruột ngàn dặm”. Người Việt hải ngoại được
khuyến khích về đầu tư, đóng góp cho quê hương. Đây là dấu hiệu cho thấy mong
muốn kết nối cộng đồng.
Tuy
nhiên, trên thực tế, các lời kêu gọi này phần nhiều mang tính một chiều:
· Yêu cầu người Việt hải ngoại “gác lại quá khứ”,
nhưng không có tiến trình thừa nhận trách nhiệm hay đối thoại bình đẳng.
· Trong nước, các thành phần có ý kiến khác biệt chính
trị, tôn giáo, hay xã hội vẫn bị kiểm soát, thậm chí gạt ra ngoài lề.
2.2-
Biểu hiện của “hóa hợp”
Với
CSBV, độc quyền chính trị vì chỉ có một đảng duy nhất được thừa nhận, các quan
điểm khác biệt không có không gian tồn tại. Những cộng đồng thiểu số, hay các tổ
chức tôn giáo độc lập, thường phải điều chỉnh theo khuôn mẫu của nhà nước, nói
cùng một tiếng nói chung với đảng. Đảng chấp nhận những đóng góp kinh
tế, xây dựng “quê hương”, nhưng không thừa nhận khác biệt quan điểm chính trị.
Người Việt hải ngoại có thể về đầu tư, nhưng không được tham gia một cách bình
đẳng vào đời sống chính trị, xã hội, hay góp ý xây dựng và phát triển quốc gia.
Vì vậy,
Việt Nam hiện nay nghiêng về “hóa hợp” hơn là “hòa hợp”. Dú có mở cửa kinh tế,
văn hóa, nhưng thiếu cơ chế đối thoại và tôn trọng sự đa dạng chính trị, xã hội
tương tự như ở các quốc gia đã phát triển.
3- Hậu quả nếu “hóa hợp” tiếp tục kéo dài
3-1-
Mất lòng tin và chia rẽ âm ỉ trong lòng dân tộc trong và ngoài nước
Người
dân, cả trong và ngoài nước, sẽ thấy “đại đoàn kết” chỉ là một khẩu hiệu chính
trị. Người sống ở hải ngoại cảm giác bị bắt buộc “quên đi quá khứ” mà không được
thừa nhận như là một thành phần dân tộc. Đối với người trong nước, cung cách đối
xử của nhà cầm quyền khiến họ có cảm giác chỉ được chấp nhận khi im lặng, không
khác biệt. Nếu không, chắc chắn sẽ có biện pháp răn đe…bịt miệng!
3.2-
Lãng phí trí tuệ và nguồn lực
CSBV
luôn luôn muốn kiểm soát và dập tắt tất cả mọi phản biện. Các trí thức, nhà
khoa học, chuyên gia có chính kiến khác biệt không được phát huy. Từ đó, nguồn
lực hải ngoại bị bỏ phí, nhiều người chọn sống xa cách thay vì gắn bó hợp tác,
tạo ra khoảng cách cướng quyền - dân tộc ngày càng cách xa, tình tự dân tộc từ
đó bị xói mòn.
Thay
vì “chúng ta cùng là người Việt Nam”, xã hội chỉ còn “chúng ta đang được “xếp đặt”
sống chung”, không có tinh thần hiến dâng, đóng góp mà chỉ có sự chịu đựng và
chấp nhận.
4- Nguy cơ lệ thuộc ngoại bang
Một quốc gia
thiếu hòa hợp dân tộc, thiếu đoàn kết nội bộ sẽ khó đứng vững trước sức ép quốc
tế. Từ đó, cường quyền sẽ dễ chọn cách dựa vào ngoại
bang, đặc biệt trong trường hợp Việt Nam, sự chọn lựa lúc ban đầu là Liên Sô,
và hiện tại là Trung Cộng để nắm chặt quyền lực.
Chính
vì lệ thuộc ngoại bang, từ đó nội lực dân tộc sẽ lần lần bị suy yếu, nguy cơ mất
tự chủ chiến lược trên trường quốc tế.
Căn cứ vào lịch sử thế giới, chúng ta thấy rõ trong
trường hợp Liên Sô, chính vì sự áp đặt “hóa hợp” trong một mô
hình Sô viết thống nhất. Và, một khi hệ thống sụp đổ, các dân tộc lập tức tách
ra, vì chưa bao giờ có “hòa hợp thật sự”.
Còn ở
Trung Cộng, chính sách “hóa hợp” ở Tân Cương, Tây Tạng tạo ra bất mãn âm ỉ, khiến
an ninh dài hạn luôn bất ổn, xáo trộn xã hội dường như sẽ không bao giờ chấm dứt
vì việc “hòa hợp giả tạo” của cường quyền.
5- Hai thí dụ điển hình: Nam Phi và Trung
Cộng
5.1-
Nam Phi sau Apartheid – Con đường Hòa hợp
Sau
khi chế độ Apartheid chấm dứt (1994), Nam Phi đứng trước nguy cơ nội chiến: người
da đen khao khát trả thù, người da trắng lo sợ bị trả đũa. Trước tình thế bế tắc
trên, Nelson Mandela và Tổng giám mục Desmond Tutu đã chọn con đường Truth and Reconciliation Commission - Ủy ban
Sự thật và Hòa giải nhắm vào hai mục tiêu chính:
·
Không che giấu
tội ác, cũng không chủ trương trả thù, mà là thừa nhận, xin lỗi, tha thứ,
và tiến tới tương lai chung.
·
Đây chính là hòa hợp nhằm
chấp nhận rằng hai bên khác nhau, nhưng đều là người Nam Phi, cùng nhau xây dựng
lại đất nước.
Kết
quả sau cùng là, chỉ sau một thời gian ngắn, Nam Phi tránh được một cuộc nội
chiến, tuy còn bất công kinh tế, nhưng tình tự dân tộc từ từ trở về với quê
hương. Hòa hợp ở đây đứng về phía dân tộc Nam Phi.
5.2- Trung
Cộng và dân tộc thiểu số – Con đường Hóa hợp
Tại Tân Cương và Tây Tạng, chính quyền TC áp dụng
chính sách đồng hóa:
- Cấm ngôn
ngữ, hạn chế tôn giáo, đưa người Hán đến định cư để thay đổi cơ cấu dân số.
- Người
Duy Ngô Nhĩ bị đưa vào các “trại cải huấn” để học tiếng Hán, bỏ phong tục bản
địa của họ. Đây chính là hóa hợp nhằm
ép buộc một dân tộc phải biến thành người Hán.
- Chính
sách Hán hóa bằng cách đưa dân Hán vào định cư, thay đổi cơ cấu dân số. Kiểm
soát tôn giáo, hạn chế giáo dục và thực hành đạo Hồi theo truyền thống. Xử
dụng các “trại cải huấn” (re-education camps) để ép người Duy Ngô Nhĩ học
tiếng Hán, tôn trọng hệ tư tưởng trung ương, bỏ các phong tục và tín ngưỡng
truyền thống. Tất cả, nhắm vào mục đích là tạo ra một thế hệ “trung thành”
với nhà nước, loại bỏ nguy cơ ly khai.
Và kết
quả sau cùng là, tạo ra sự căm phẫn âm ỉ trong lòng dân dù bề ngoài có vẽ “ổn định”,
nhưng trong lòng dân tộc thiểu số đầy bất mãn. Hóa hợp ở đây đứng về
phía quyền lực chính trị, chứ không đứng về phía thành phần dân tộc đa dạng
của Trung Cộng.
Đặc
biệt, riêng về trường hợp Liên Sô, vì từng chọn “hóa hợp” bằng cách đồng hóa
các dân tộc nhỏ vào một hệ tư tưởng Sô Viết. Nhưng khi hệ thống sụp đổ, các dân
tộc ấy lập tức tách ra, vì chưa bao giờ có “hòa hợp thật sự”.
6- Con đường Hòa hợp - Giải pháp cho Việt
Nam tương lai
Trước
hết, CSBV cần phải can đảm nhìn nhận đã áp đặt nhiều chính sách sai lầm ngay từ
khi thống nhứt toàn cõi đất nước ngày 30/4/1975. Họ cần nhìn lại và xét lại quá
khứ chiến tranh và thống nhứt, từ chính
sách ba dòng thác cách mạng, tù cải tạo, cải cách kinh tế thành kinh tế chỉ
huy, vượt biên v.v…Họ cần can đảm nhận trách nhiệm, không che giấu, không né
tránh, và quan trọng là thừa nhận sai lầm.
Nếu “hóa hợp”
buộc người khác phải bỏ đi niềm tin, ký ức, hay tiếng nói riêng, thì sự gắn
kết quốc gia trở thành giả tạo. Người dân sẽ chỉ
“sống chung” chứ không “sống cùng”. Tức là xã hội tuy vẫn tồn tại,
nhưng thiếu tinh thần tình tự dân tộc, thiếu sự đồng lòng thật sự.
Cần phải đặt dân tộc
lên trên chế độ, qua đó, mọi người Việt Nam, trong và ngoài nước, đều là công dân bình đẳng, không phân biệt “thành phần
chính trị”. Cần xây dựng niềm tin bằng hành động bắng cách cải tổ luật pháp, mở
rộng tự do dân sự.
Nếu
hiểu hòa hợp là thực tâm đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi
đảng phái, chế độ, thì chắc chắn đó là điều mà Việt Nam cần nên chọn lựa.
Khi
mọi người Việt, trong và ngoài nước, bất kể quá khứ chính trị, đều được công nhận
là một nhân tố của cộng đồng dân tộc, thì sức mạnh tập hợp mới đủ lớn để bảo
vệ và phát triển đất nước. Từ đó, giữ được nội
lực dân tộc trong bối cảnh bị kẹp giữa các thế lực quốc tế và giải tỏa mặc cảm
lịch sử, để các thế hệ sau không còn bị chia rẽ. Và nhứt là, biến
nguồn lực hải ngoại thành sức mạnh mềm thay vì để họ trở thành lực lượng
đối kháng.
Có
được như vậy, mới tạo dựng được không gian cho đối thoại đa chiều, bảo vệ nhân
quyền như nền tảng nhằm gắn kết xã hội.
Có
được như vậy, mới có bao dung và đối thoại.
CSBV
cần học kinh nghiệm từ Nam Phi tức là không trả thù, nhưng cũng không phủ nhận
sự thật với tinh thần “thắng không kiêu, bại không hận” cần trở thành triết lý
quốc gia.
Từ đó, may ra mới có thể
bắt đầu “câu chuyện hòa hợp hòa giải dân tộc”.
5- Thay lời kết - Hướng tới tương lai
Việt Nam hiện tại
đang đứng trước một ngã ba lịch sử.
Thực trạng “hóa hợp”, tức
là sự dung hòa bề ngoài, thoả hiệp mang tính quyền lợi, thiếu gốc rễ văn hóa
đang diễn ra nhiều hơn là “hòa hợp” thật sự. Đảng cầm quyền muốn “hóa hợp” để níu
kéo người Việt hải ngoại về đóng góp kinh tế, nhưng lại chưa đủ thành tâm “hòa
hợp” để nhìn nhận trách nhiệm lịch sử, để xin lỗi, để sửa chữa, để đặt quyền lợi
dân tộc trên quyền lợi đảng phái.
Ngược lại, một
bộ phận người Việt hải ngoại cũng chỉ “hóa hợp” ở mức tình cảm, gắn bó về quê
hương qua kiều hối hay du lịch, nhưng chưa tìm được một nền tảng chung đủ mạnh
để cùng nhau viết lại khế ước dân tộc.
Nếu
tiếp tục như vậy, Việt Nam sẽ mãi sống trong vòng luẩn quẩn: người trong nước
thì ngờ vực người ngoài nước, còn người ngoài nước thì hoài nghi thiện chí
trong nước. Kết quả là dân tộc không có một sức mạnh thống nhất, và đó
chính là điều khiến đất nước dễ bị lôi kéo, chi phối bởi ngoại bang, một bi kịch
đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt 4 ngàn năm lịch sử.
Chỉ
khi nào có một sự chuyển hóa tinh thần từ “hóa hợp” sang “hòa hợp”,
nghĩa là từ thỏa hiệp ích kỷ sang đồng cảm nhân bản, từ lợi ích đảng phái sang
quyền lợi dân tộc, thì Việt Nam mới thực sự đứng lên làm chủ vận mệnh.
Hòa hợp không có nghĩa là quên đi hận
thù bằng sự lãng quên, mà là vượt lên trên hận thù bằng sự đối diện và tha thứ.
Hòa hợp không có nghĩa là xóa nhòa khác biệt, mà là thừa nhận và tôn trọng khác
biệt để cùng nhau xây dựng một nền tảng chung.
Trong
chiều sâu ấy, hòa hợp là con đường duy nhất để phục hồi tình tự dân tộc,
sợi dây vô hình nhưng bền chặt nối kết 100 triệu người trong nước với hơn 5 triệu
người ngoài nước. Nếu không, chúng ta chỉ dừng lại ở “hóa hợp”, một lớp sơn đẹp
nhưng sẽ bong tróc ngay khi có “sự cố” thử thách lịch sử ập đến.
Vậy
nên, câu hỏi lớn cho thế hệ hôm nay không phải là “có hòa hợp hay không”, mà
là CSBV “có
dám bước ra khỏi vùng an toàn của hóa hợp để thật sự hòa hợp vì tương lai dân tộc
hay không?”.
Hòa hợp không chỉ
để hàn gắn quá khứ, mà còn để thế hệ trẻ không phải mang gánh nặng chia rẽ của
cha ông. Do đó, cần phải xây dựng một nền giáo dục nhấn mạnh tình tự dân tộc và
nhân bản, thay vì tuyên truyền một chiều theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hòa
hợp dân tộc, nếu làm thật sự và đúng nghĩa, thì luôn đứng về phía quê hương Việt
Nam.
Còn xử
dụng “hòa hợp” như một mỹ từ, không gắn với hành động cụ thể, thì đó chỉ
là đứng về phía quyền lực, không phải đứng về phía dân tộc.
Tóm
lại, “Hòa
hợp” đứng về phía Việt Nam, còn “Hóa hợp” đứng về phía quyền lực.
Chỉ
khi CSBV dám chuyển từ “hóa hợp” sang “hòa hợp thật sự”, Việt Nam mới có thể tạo
dựng một tình tự dân tộc đúng nghĩa, biến chia rẽ thành sức mạnh, và bước đi vững
vàng trong thế kỷ XXI.
Mai Thanh Truyết
Con đường Việt Nam
Tháng 10 - 2025
No comments:
Post a Comment