Friday, March 7, 2025
Câu chuyện giả tưởng:
”Giả sử Cộng sản Việt Nam hoàn toàn sụp đổ,
chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó?” Phần II
Đất nước chuyển đổi có thể là cơ hội, nhưng phải có chiến lược thông minh để tránh hỗn loạn như đã phân tích ở Phần I. Trong trường hợp Việt Nam hiện tại, dù muốn dù không, vài trò của quân đội và công an là hai lực lượng cần thiết để "gìn giữ" ổn định xã hội trong giai đoạn chuyển đổi.
Vấn đề đặt ra là, công cuộc chuyển đổi ước tính kéo dài trong khoảng thời gian bao lâu là hợp lý để công cuộc quản lý quốc gia “phải” trả lại cho... dân sự?
Thời gian quân đội và công an "gìn giữ" ổn định xã hội trước khi trả lại quyền quản lý quốc gia cho dân sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng có thể ước tính dựa trên các trường hợp lịch sử tương tự. Dưới đây là một số kịch bản có thể xảy ra:
1. Chuyển giao nhanh chóng trong vòng 1-2 năm
Theo kinh nghiệm chuyển đổi của những quốc gia trên thế giới qua dân chủ đòi hỏi vài điều kiện ưu tiên sau:
• Quân đội chỉ tạm thời ổn định tình hình, sau đó nhanh chóng tổ chức bầu cử.
• Có một lực lượng chính trị dân sự đủ mạnh để tiếp nhận quyền lực.
• Kinh tế và xã hội không quá xáo trộn, không xảy ra biểu tình hay nội chiến.
Điển hình là Bồ Đào Nha (1974): Quân đội lật đổ chế độ độc tài, nhưng nhanh chóng tổ chức bầu cử và trao quyền lại cho dân sự trong vòng 1 năm. Tunisia (2011): Sau khi chính quyền độc tài sụp đổ, quân đội chỉ giữ vai trò trung gian trong vài tháng, sau đó tổ chức bầu cử và trao quyền cho chính phủ dân sự. Kịch bản này ít gây xáo trộn, nhưng đòi hỏi phải có sẵn một lực lượng chính trị dân sự mạnh.
2. Quân đội giữ quyền lực trung hạn trong vòng 5-10 năm
Nếu lực lượng dân chủ chưa kịp thành hình và chuẩn bị, hoặc chưa có một tổ chức dân sự đủ mạnh để lãnh đạo, quân đội phải tiếp tục duy trì trật tự xã hội. Trong giai đọan nầy, xã hội có nhiều biến động, cần thời gian để viết lại hiến pháp, thiết lập hệ thống chính trị mới. Và sau cùng, quân đội có thể nắm giữ quyền lực, nhưng phải cam kết chuyển giao dần dần có thể kéo dài từ 5 đến 10 năm. Điển hình là:
• Chile (1973-1990): Sau cuộc đảo chính, quân đội giữ quyền lực 17 năm, nhưng cuối cùng tổ chức trưng cầu dân ý và chuyển giao cho dân sự.
• Myanmar (2011-2021): Quân đội nắm quyền gần 50 năm, sau đó mới mở cửa dần cho dân chủ (nhưng lại đảo chính năm 2021 vì sợ mất quyền lực).
• Hàn Quốc (1961-1987): Quân đội nắm quyền 26 năm, sau đó mới chuyển dần sang dân chủ.
Cũng cần nên ghi nhận, nếu quá trình kéo dài trên 5 năm, nguy cơ quân đội quen với quyền lực và không muốn rời đi rất cao.
3. Quân đội giữ quyền lâu dài trên 10 năm hoặc vĩnh viễn
Trong điều kiện quân đội và công an sau khi nắm quyền lực và trở thành một thế lực chính trị mới, vì tham quyền cố vị, không còn ý định trao trả quyền quản lý lại cho một chính phủ dân sự . Chuyện gì sẽ xảy ra?
Kinh nghiệm đau thương của Đệ I Việt Nam Cộng Hòa ngay sau cuộc đảo chánh TT Ngô Đình Diệm, xã hội rơi vào tình trạng bất ổn kéo dài, các phong trào dân sự bị đàn áp. Chánh phủ dân sự được quân đội trao lại lúc đầu, nhưng cuối cùng cũng dành lại, tạo ra sự bất ổn chánh trị suốt thời Đệ II CH. Chính sự bất ổn, xáo trộn nầy là một trong những yếu tố đưa đến ngày mất nước 30/4/1975.
Cũng như trong trường hợp Miến Điện – Myanmar, quân đội giữ quyền lực từ năm 1962 đến nay, chỉ có vài thời kỳ "cởi mở" trao quyền lại chánh phủ dân sự của Bà Aung San Suu Ky, nhưng cuối cùng vẫn hoàn toàn kiểm soát chính trị.
Trong trường hợp Ai Cập, từ năm 1952 đến nay, quân đội lật đổ chế độ quân chủ, từ đó luôn kiểm soát chính quyền, dù có bầu cử nhưng quyền lực thực sự vẫn thuộc về quân đội.
Còn Thái Lan qua nhiều lần đảo chính, mỗi khi chính quyền dân sự yếu kém, quân đội lại can thiệp và cầm quyền, tạo ra chu kỳ "quân sự - dân sự - quân sự".
Tóm lại, nếu chánh quyền quân đội/công an kiểm soát đất nước quá lâu, từ 10 năm trở đi… kịch bản này sẽ dẫn quốc gia đến việc mất dân chủ lâu dài, không khác gì một chế độ độc tài mới dù không còn mang tên chuyên chính vô sản nữa.
4- Dự đoán cho Việt Nam từ 3-5 năm là hợp lý
Nếu giả sử có một biến động chính trị lớn, quân đội và công an có thể cần 3-5 năm để giữ ổn định trong trường hợp Việt Nam hiện tại. Nhóm nầy có nhiệm vụ viết lại hiến pháp, xác định hệ thống chính trị mới. Để rồi, từ đó khuyến khích việc xây dựng và tập hợp các đảng phái dân sự để có sự lựa chọn cho cử tri. Nếu không thể/không muốn tổ chức bầu cử, và nếu thời kỳ quân quản kéo dài trên 10 năm, chắc chắn sẽ có nguy cơ quân đội không chịu trao trả quyền lực cho dân sự.
Vì vậy, nếu có cuộc chuyển đổi diễn ra ở Việt Nam, quân đội và công an nên giữ vai trò "bảo đảm ổn định" trong 3-5 năm, sau đó tổ chức bầu cử và trả lại quyền quản lý cho dân sự để tránh đi vào vết xe đổ của Myanmar hay Thái Lan.
5- Xác suất chuyển đổi ở Việt Nam ước tính được bao nhiêu %?
Xác suất một cuộc chuyển đổi quyền lực có kiểm soát ở Việt Nam, trong đó quân đội và công an giữ quyền tạm thời rồi chuyển giao cho dân sự, có thể ước tính dựa trên các yếu tố lịch sử, chính trị và xã hội. Dưới đây là phân tích xác suất cho từng giai đoạn tùy theo thời gian chuyển giao quyền quản lý quốc gia cho dân sự
Chuyển giao nhanh từ 1 đến 2 năm: Trong trường hợp Việt Nam, xác suất ước tính từ 10-20%, với điều kiện nếu quân đội và công an chỉ tạm thời duy trì trật tự rồi tổ chức bầu cử nhanh, xã hội ổn định, không có xung đột lớn, và các nhóm lãnh đạo mới đủ khả năng điều hành đất nước ngay lập tức. Sở dĩ xác suất chuyển giao thấp là vì hiện tại Việt Nam chưa có một lực lượng chính trị dân sự mạnh để tiếp nhận quyền lực ngay vì CSBV đã kiểm soát chính trị toàn thề đất nước. Mọi sinh hoạt chính trị, đảng phái đều bị cấm hay bị triệt tiêu hoàn toàn nếu nhà cầm quyền phát hiện được.
Trên thực tế và trong điều kiện Việt Nam hiện tại, không cho phép một cuộc chuyển đổi quá nhanh, nguy cơ rơi vào hỗn loạn hoặc quyền lực rơi vào tay các nhóm không có kinh nghiệm quản lý hay được dựng lên từ những thế lực quốc tế. Xác suất xảy ra cũng vào khoảng từ 10 đến 20%.
Ý thức dân chủ, nhân quyền của tiểu trẻ việt hiện nay tuy được nâng cao và tương đối phổ quát, nhưng trước sự kiểm soát và hình phạt gắt gao nếu bị phát hiện làm cho tuổi trẻ khó kết hợp và tổ chức thành đoàn thể được.
Quân đội giữ quyền trung hạn từ 3 đến 5 năm rồi chuyển giao: Điều nầy có xác suất từ 40 đến 50% nếu có vài điều kiện dưới đây như quân đội và công an giữ vai trò ổn định xã hội, sau đó tổ chức cải cách và chuyển giao dần dần không làm mất đi sự ổ định xã hội. Thành lập ban tu chỉnh hay viết lại hiến pháp cho hợp với hệ thống chính trị mới và ứng hợp với việc hội nhập vào cộng đồng thế giới. Trong giai đoạn nầy, Ban/Hội đồng Quân quản vừa chuẩn bị chuyển giao cho dân sự, vừa điều hành quốc gia cả về chính trị, quân sự, an ninh lãnh thổ.
Sau cùng, các nhóm lãnh đạo dân sự có thời gian để phát triển trước khi tiếp quản quyền quản lý quốc gia từ quân đội.
Khả năng chuyển giao quyền lực trong điều kiện trên có xác suất cao là vì mô hình này đã từng áp dụng thành công ở nhiều nước như Chile, Hàn Quốc, trong đó, quân đội có thể đóng vai trò trung gian, giúp quá trình chuyển đổi diễn ra an toàn, bảo đảm quyền lợi cho nhóm cầm quyền hiện tại, tránh xung đột, và trấn an sẽ không có những cuộc thanh trừng hay tắm máu sau đó!
Quân đội giữ quyền 10+ năm hay vĩnh viễn có xác suất từ 30 đến 40%
Nếu không có sự đồng thuận về chuyển đổi, quân đội quyết định nắm quyền lâu dài. Từ đó, xã hội sẽ rơi vào tình trạng quân phiệt bất ổn hoặc có mâu thuẫn với/giữa các nhóm chính trị. Chính điều nầy sẽ khiến cho quân đội và công an thiết lập một mô hình mới, nhưng vẫn duy trì kiểm soát chặt chẽ. Đây chính là mô hình của số nước trong khu vực như Myanmar, Thái Lan ngày nay. Quân đội có thể không muốn rời bỏ quyền lực nếu thấy lợi ích và bản thân của mình bị đe dọa nếu có chuyển đổi.
Theo nhận định của người viết, dự báo hợp lý và lý tưởng nhứt trong điều kiện chính trị, quân sự, và sự phân tán cũng như đấu đá nội bộ của đảng CSBV, nếu có bất cứ một biến động chính trị nào, quân đội và công an có thể giữ quyền 3-5 năm rồi chuyển giao dần dần cho chánh phủ dân sự.
6- Sau cùng vai trò của người dân trong giai đoạn chuyển giao sẽ như thế nào?
Trong giai đoạn chuyển giao quyền lực, vai trò của người dân sẽ rất quan trọng vì họ là yếu tố quyết định tốc độ, mức độ thành công và hướng đi của quá trình chuyển đổi nầy. Có thể nói điều kiện tiên quyết cần phải có là giữ ổn định xã hội, tránh rơi vào hỗn loạn. Vì, khi một chế độ cũ sụp đổ, nếu người dân hoảng loạn, bạo loạn hoặc chia rẽ, đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn. Điển hình trong quá khứ như Iraq (2003), sau khi chế độ Saddam Hussein bị lật đổ, không có sự đồng thuận trong xã hội vì khác biệt giai tầng, thức bậc trong xã hội, vì khác biệt tôn giáo … dẫn đến nội chiến. Tại Libya (2011), người dân chia rẽ theo phe phái, cuối cùng không có chính quyền ổn định.
Vì vậy, vai trò của người dân rất quan trọng như không tham gia vào các hoạt động cực đoan như đập phá, trả thù chính trị, tích cực hợp tác với lực lượng an ninh để duy trì trật tự, và nhứt là không lan truyền tin giả, kích động thù hận trên mạng xã hội, truyền thông đại chúng.
Cần thúc đẩy đối thoại thay vì đối đầu: Nếu người dân bị chia rẽ về ý thức hệ, xung đột có thể bùng phát trở lại ngay sau khi chuyển đổi. Nếu có sự đồng thuận của đa số người dân, cuộc cách mạng có xác suất thành công rất cao. Trong buổi giao thời, người dân cần phải chấp nhận sự khác biệt về quan điểm, không cực đoan hóa vấn đề chính trị, tham gia đối thoại ôn hòa giữa các nhóm khác nhau để tìm giải pháp chung, và nhứt là ủng hộ các giải pháp trung dung, tránh để đất nước rơi vào tình trạng "bên thắng bên thua".
Bài học từ Nam Phi sau khi chế độ Apartheid sụp đổ, Nelson Mandela kêu gọi hòa hợp dân tộc, nhờ đó Nam Phi tránh được nội chiến và xã hội tiếp tục tiến bước trên con đường phát triển thông thoáng.
Giám sát và gây áp lực để đảm bảo chuyển giao diễn ra đúng lộ trình như đã vạch sẵn. Nếu không có sức ép từ người dân, quân đội hoặc lực lượng cầm quyền có thể kéo dài quá trình chuyển giao hoặc độc quyền hóa quyền lực. Như ở Myanmar là một điển hình. Quân đội hứa chuyển giao cho dân sự nhưng sau đó lại đảo chính, quay về chế độ độc tài quân phiệt nhiều lần bằng vũ lực.
Vai trò của người dân trong trướng hợp nầy cần đòi hỏi sự minh bạch trong quá trình chuyển giao quyền lực, trực tiếp tham gia các phong trào xã hội ôn hòa để bảo đảm không có sự lạm quyền. Người cần ủng hộ các tổ chức dân sự, giúp xây dựng một chính quyền dân chủ. Thí dụ tốt như ở Chile, sau khi chế độ độc tài quân sự sụp đổ, người dân đã gây sức ép để có một cuộc trưng cầu dân ý công bằng, đảm bảo quyền lực không rơi vào tay một nhóm lợi ích.
Người dân tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội để định hướng đất nước
Một chính quyền mới muốn hoạt động tốt cần có lực lượng dân sự có năng lực quản lý. Nếu người dân chỉ đứng ngoài quan sát, đất nước có thể bị kiểm soát bởi một nhóm nhỏ có lợi ích riêng.
Vì vậy, vai trò của người dân là cần phải tham gia vào các tổ chức chính trị mới, đóng góp ý tưởng và giám sát chính sách, tham gia hội đồng địa phương, hiệp hội xã hội để định hình tương lai đất nước, tránh suy nghĩ thụ động xem đó là chuyện của người khác, của các nhóm chính trị, không nhứt thiết phải tham gia.
Trường hợp Ba Lan chẳng hạn, khi chế độ Cộng sản sụp đổ, phong trào Công đoàn “Solidarity” đóng vai trò lớn trong việc xây dựng một nền dân chủ bền vững với sự tập hợp đông đảo dân chúng ngày từ đầu..
Tóm lại, người dân là yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong mỗi lần lột xác của đất nước. Nếu người dân hành động có trách nhiệm, quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra suôn sẻ. Nếu người dân bị kích động, chia rẽ, đất nước có thể rơi vào bất ổn hoặc nội chiến.
Nếu người dân hành động khôn ngoan, Việt Nam có thể học theo mô hình chuyển đổi thành công của Hàn Quốc, Đài Loan, Chile… thay vì rơi vào tình trạng như Myanmar hay Libya.
7- Thay lời kết
Người viết vừa trang trải một giấc mơ về một câu chuyện giả tưởng “Giả sử Cộng sản Việt Nam hoàn toàn sụp đổ, chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó?” trong đó tưởng tượng ra nhiều giả thiết có thể xảy ra cho Việt Nam tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan của đất nước. Và ước vọng của người viết (hy vọng cũng là ước vọng của người dân) là nếu có chuyển đổi xảy ra thì nên xảy ra trong ôn hòa, không bạo động. Và diễn biến của cuộc chuyển đổi sẽ được giới hạn trong vòng từ 3 đến 5 năm.
Qua hình bên cạnh, hình ảnh hàng triệu người dân Estonia (Bắc Âu) tay nắm tay tới tận biên giới Nga để tỏ sự đoàn kết và sức mạnh dân tộc của một quốc gia với vài triệu dân dám đối đầu với 160 triệu con gấu Nga, khiến cho người viết càng tin tưởng câu chuyện giả tưởng trên đây sẽ thành … sự thật!
Nếu được như vậy, đây sẽ là một cuộc Cách Mạng Nhung mang dân tộc xích lại gần nhau trong nghĩa tình Một Mẹ Trăm Con của tiền nhân.
Như hiện nay, dù đã 50 năm thống nhứt toàn cõi từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, nhưng niềm đau dân tộc vẫn còn dai dẳng. Tuy không còn dòng Sông Bến Hải ngăn đôi bờ địa lý, nhưng dân tộc thực sự đã bị phân liệt, không phân liệt vì vùng miền Bắc – Trung – Nam, mà bị phân liệt vì… hận thù chủ nghĩa từ một chủ nghĩa không tưởng ngoại lai vận vào!
Bài học lịch sử của dân tộc Đức ngày nay qua việc giựt xập bức tường Bá Linh để không còn Đông Đức và Tây Đức nữa chính là nhờ ý chí thống nhứt của toàn dân tạo dựng lại một quốc gia Đức - Germany. Chính người dân Đức tự họ đập tan bức tường ô nhục Berlin, chứ không phải bị phía nào xâm lăng vì bạo lực cả. Phía Đông, người dân đập phá một mảng tường, phía Tây, người dây Tây Đúc chuẩn bị thực phẩm, nước uống, quần áo chào đón đồng bào ruột thịt. Đây chính là một bài học lớn cho những người con Việt còn nặng nợ với quê hương trong và ngoài nước.
Sợi dây chia cắt tuy vô hình nhưng đã cách chia Nam Bắc hàng 50 năm qua!
Hởi tất cả những người con Việt, phải chăng đã đến lúc cần phải khơi dậy tình tự dân tộc trong cơn chuyển đổi sắp tới của Việt Nam.
Mong lắm thay!
Mai Thanh Truyết
Giấc mơ cuối đời - 2025
Khi đảng CS tự xóa bỏ chình mình
Wednesday, March 5, 2025
Câu chuyện giả tưởng:
”Giả sử Cộng sản Việt nam hoàn toàn sụp đổ,
chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó?” Phần I
Lời người viết: Đây là một câu chuyện giả tưởng không căn cứ và bất cứ sự kiện nào cả. Tất cả hoàn toàn do trí tưởng tượng của người viết. Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến diễn biến tiếp theo sau sự kiện đó. Nếu giả sử chính quyền Cộng sản Việt Nam sụp đổ hoàn toàn, chuyện gì sẽ xảy ra cho Việt Nam?
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Bắc Việt tan rã
1. Khoảng trống quyền lực và bất ổn tạm thời
Khi một nhà cầm quyền sụp đổ, đặc biệt là một hệ thống có tổ chức chặt chẽ như Đảng Cộng sản Việt Nam, khoảng trống quyền lực có thể dẫn đến bất ổn trong ngắn hạn.
Các nhóm chính trị đối lập, lực lượng quân đội, các nhóm lợi ích trong đảng còn lại, và các tổ chức xã hội dân sự có thể tranh giành ảnh hưởng để thiết lập một chính quyền mới.
Các cuộc biểu tình, đình công, hoặc thậm chí xung đột vũ trang có thể xảy ra nếu không có sự chuyển tiếp quyền lực có trật tự do nhiều thành phần trong xã hội tạm thời đứng ra “quản lý” xã hội.
2. Vai trò của quân đội và lực lượng công an
Dù muốn dù không, một khi Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương đảng, cơ quan đầu não của đảng “bị” giải tán, Quân đội Việt Nam có thể can thiệp để duy trì trật tự, hoặc thậm chí tiếp quản chính quyền trong một thời gian ngắn.
Một chính quyền quân sự tạm thời có thể được thành lập trước khi chuyển giao sang một thể chế mới.
Nếu không có sự thống nhất trong quân đội và công an (một lực lượng đối trọng và ngang hang với quân đội hiện tại), sẽ có nguy cơ chia rẽ và đấu đá nội bộ.
Quan trọng hơn cả là trong tình trạng nội bộ của đảng CSBV, TBT Tô Lâm, người đã nắm công an với số lượng nhân sự “kín và hở” trên 1 triệu người, do đó hiện là một lực lượng mạnh nhứt nước, có thể trong trường hợp giả định trên sẽ gồm thâu tất cả về một mối, và trở thành độc tài như Putin sau khi Yeltsin giải tán đảng cộng sản Nga. Đây là một kịch bản có xác suất lớn nhứt hiện nay.
3. Ảnh hưởng của các lực lượng chính trị khác
Các tổ chức chính trị lưu vong có thể tìm cách quay về Việt Nam để tham gia tái thiết chính quyền. Nhưng thực tế nhìn lại hiện trạng ở ngoại quốc, Những tổ chức nào có thể “được” nêu danh. Các đảng phái quốc gia có từ thời thập niên 40 của thế kỷ trước: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, cũng như các đảng phái mờ mờ ảo ảo, cùng nhiều chánh phủ lâm thời, chánh phủ quốc gia, chánh phù VNCH tương lai, Đệ Tam CH v.v…cũng chỉ là những lá bài ảo mà thôi. Hoàn toàn không ảnh hưởng gì cả!
Các đảng phái dân chủ hoặc phong trào tự do trong nước có thể trỗi dậy. Nói như vậy là để liệt kê trong suốt chuỗi luận lý, thật sự trong nước chắc cũng không khá hơn hải ngoại sau 50 nằm dưới sức ép và sự kiểm soát của cường quyền.
Chỉ còn các nhóm lợi ích kinh tế trong và ngoài nước có thể tác động đến tiến trình chuyển đổi chính trị. Nhưng các nhóm nầy là những ai? Họ là những tài phiệt ở hải ngoại, những “ông chạy cờ” cho Mỹ. Và ở trong nước, các nhóm lợi ích kinh tế dực vào quyền lực của các lãnh tụ lớn để khuynh đảo thị trường, gây thanh thế, chiếm hữu đất đai và tài sản dân tộc. Họ có thể tác động đến tiến trình chuyển đổi chính trị của Việt Nam, nhưng chỉ có thể đóng góp vai trò phụ trợ mà thôi.
4. Hệ lụy kinh tế
Thị trường có thể rơi vào tình trạng hỗn loạn do sự bất ổn chính trị ngay sau đó. Việc kiểm soát thị trường từ giai đoạn sản xuất, phân phối và tiêu thụ sẽ bị xáo trộn tạo cơ hội đầu cơ tích trữ của đám hoạt đầu. Từ đó, sẽ làm xáo trộn xã hội có thể đi đến hỗn loạn quốc gia.
Các nhà đầu tư nước ngoài có thể rút vốn, dời cơ sở sản xuất gây ảnh hưởng bất lợi cho xã hội và đời sống kinh tế của người dân. Qua kinh nghiệm, xác suất nầy có thể có tỷ lệ rất cao.
Nếu có cải cách nhanh chóng theo hướng thị trường tự do, nền kinh tế có thể phục hồi và phát triển mạnh hơn. Nhưng điều nầy hoàn toàn không tưởng.
5. Ảnh hưởng của các cường quốc
Trung Cộng có thể tìm cách duy trì ảnh hưởng của mình tại Việt Nam, có thể thông qua kinh tế hoặc thậm chí hỗ trợ các nhóm chính trị thân Bắc Kinh. Đây là một quốc gia có tầm ảnh hưởng lên Việt Nam nhiều nhứt. TC sẽ mau chân chuẩn bị những “con gà” nhằm tham gia/áp đặt vào chánh quyền mới.
Mỹ và phương Tây có thể thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và cung cấp hỗ trợ tài chính và đứng ngoài với tư thế “wait and see”. Mỹ và Tây phương lúc nào cũng đi chậm và đi sau TC. Vì mang tinh thần dân chủ, Tây phương luôn có thái độ dè dặt “không tham dự vào nội bộ chính trị” của nước khác, cho nên không biết cướp thời cơ/chụp giựt như TC.
Còn Nga, dù sao cũng là đàn anh của CSBV một thời, cũng muốn tạo ra nhóm ảnh hưởng từ các đảng viên CSBV cũ thân Nga.
Và các nước láng giềng như Thái Lan, Campuchia, và Lào có thể theo dõi sát sao tình hình để điều chỉnh chính sách ngoại giao của họ cho thích hợp với chính quyền mới. Dù sao các quốc gia kể trên vẫn còn kính nể Việt Nam một phần nào, nhứt là Lào.
6. Hướng đi “mới” của Việt Nam
Nếu quá trình chuyển đổi diễn ra trong hòa bình, Việt Nam có thể tiến tới một nền dân chủ đa đảng hoặc một chính phủ hỗn hợp có sự tham gia của nhiều phe phái sẽ được thiết lập trong hòa bình ngay sau đó. Xác suất xảy ra: 0%!
Nếu xung đột nội bộ kéo dài, Việt Nam có thể rơi vào tình trạng mất ổn định, thậm chí là chia rẽ vùng miền. Kinh nghiệm Việt Nam Cộng hòa sau khi Đệ I CH bị xóa sổ, Quân đội và các Nhóm chính trị dân sự dằn co làm cho đất nước rơi vào hỗn loạn chính trị. Xác suất xảy ra: 100%.
Một số mô hình có thể xảy ra:
- Dân chủ kiểu phương Tây (giống Đài Loan hoặc Hàn Quốc sau khi chuyển đổi từ chế độ độc tài).
- Chế độ chuyên quyền mới (một nhóm lãnh đạo khác lên nắm quyền nhưng vẫn duy trì quyền lực tập trung như trường hợp Miến Điện, Nga).
- Liên minh chính trị hỗn hợp (các đảng phái mới cùng chia sẻ quyền lực trong tinh thần quốc gia trên hết). Xin ghi ra đây thôi, thật sự giả thiết nầy chỉ là … lý thuyết. Nhắc lại câu chuyện “Giỏ cua” của người Việt không có nắp đậy…vì con cua nào trồi lên cũng bị các con cua phía dưới … kéo xuống!
Không có một kịch bản đơn độc và đơn giản nào cho sự kiện này, vì nó sẽ phụ thuộc vào cách thức chính quyền sụp đổ trong trật tự hay hỗn loạn, yên ẳng hay bạo động…và ai là người kiểm soát quyền lực sau đó, và phản ứng của người dân cũng như các thế lực bên ngoài.
Một sự thay đổi lớn như vậy có thể mang lại cơ hội nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro.
Nếu Quân đội và công an ổn định trật tự
Có thể nào họ lại dàn dựng lại một loại
chế độ xã hội chủ nghĩa khác hay không?
Giả thiết nầy có thể xảy ra hay không? Một loại độc tài kiều “Putin”, nghĩa là chỉ thay đổi toàn bộ nhân sự lãnh đạo đảng mà thôi và dưới danh nghĩa “Độc tài Công an trị”,
Trả lời:
Có, kịch bản này hoàn toàn có thể xảy ra, và trên thực tế, nó đã từng diễn ra ở một số quốc gia hậu cộng sản. Nếu quân đội và công an duy trì được sự ổn định và nắm quyền kiểm soát, họ có thể dàn dựng một hệ thống mới mang danh nghĩa khác nhưng thực chất vẫn giữ nguyên nhiều yếu tố của chế độ xã hội chủ nghĩa trước đó.
Dưới đây là một số viễn cảnh khả thi:
1. Giữ lại hệ thống, chỉ thay đổi lãnh đạo
Trong trường hợp này, chính quyền mới có thể tuyên bố "cải tổ", loại bỏ những nhân vật lãnh đạo cũ bị cho là tham nhũng, yếu kém, bất lực, hoặc mất uy tín với “nhân dân”.
Đảng Cộng sản Bắc Việt có thể bị giải tán trên danh nghĩa, nhưng các nhóm lãnh đạo mới (chủ yếu từ quân đội, công an hoặc giới tinh hoa chính trị cũ) vẫn giữ quyền lực.
Họ có thể lập ra một "đảng mới" có tên mới, hoặc một liên minh chính trị thay thế nhưng vẫn hoạt động theo mô hình cũ. Rượu mới nhưng vẫn bình cũ.
2. Chuyển đổi theo mô hình "độc đảng mềm"
Chính quyền có thể cho phép một số cải cách dân chủ hình thức, chẳng hạn như thành lập thêm một số đảng đối lập nhưng bị kiểm soát chặt chẽ. Giống y như thời HCM cướp chánh quyền Trần Trọng Kim xong, cho thành lập đảng Dân chủ làm cò mồi, nhưng thực chất lãnh đạo của đảng cũng la2tha2nh phần chủ chốt của đảng cộng sản.
Đây là mô hình đã từng xuất hiện ở Nga thời hậu Xô Viết, nơi đảng cầm quyền thay đổi hình thức nhưng vẫn giữ quyền lực thông qua cơ chế kiểm soát báo chí, bầu cử và chính sách kinh tế. Putin là một điển hình…
Trung Cộng hiện tại cũng duy trì một hệ thống xã hội chủ nghĩa nhưng đã chuyển sang nền kinh tế thị trường “theo định hướng xhcn”, tức là một loại kinh tế chỉ huy.. Việt Nam có thể theo hướng này nhưng với một bộ máy chính trị ít ý thức hệ hơn, tuy nhiên vẫn cố rập khuôn theo TC!
3. Mô hình "độc tài quân sự kiểu mới"
Quân đội có thể thành lập một chính quyền quân sự lâm thời, goi là chế độ “quân quản” như ở miền Nam ngay sau ngày 30/4/1975. Nhưng sau đó xây dựng một thể chế chính trị mới nhưng vẫn tập trung tất cả quyền lực vào tay CSBV.
Nhóm quân phiệt nầy có thể sử dụng các khẩu hiệu dân tộc chủ nghĩa thay vì xã hội chủ nghĩa để duy trì sự chính danh hầu xóa tan xhch độc tài độc đoán đã qua dù họ cũng đã từng là những lãnh đạo và lãnh tụ.
Một số quốc gia như Myanmar đã từng thực hiện mô hình này khi quân đội nắm quyền và chỉ tổ chức các cuộc bầu cử có kiểm soát. Kết quả là độc tài vẫn là độc tài
4. Chuyển đổi sang chế độ "tư bản thân hữu"
Nếu chính quyền quân đội hoặc một nhóm lãnh đạo mới nắm quyền, họ có thể chọn hướng cải cách kinh tế mạnh mẽ dưới sự kiểm soát của họ nhưng được nới lỏng hơn, tuy nhiên, việc kiểm soát chính trị vẫn được siết chặt như cũ.
Mô hình này có thể giống Trung Cộng hoặc Nga, nơi các nhóm lợi ích kinh tế mới (thường là các cựu quan chức hoặc quân đội) thao túng nền kinh tế và chính trị của hai quốc gia nầy.
Việt Nam có thể trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển nhưng chính trị vẫn tập trung vào tay một nhóm quyền lực nhất định tập trung hơn, khác hẳn tập thể lãnh đạo như Bộ chính trị đảng CS như trước kia nữa.
5. Khả năng xảy ra kịch bản Quân đội - Công an
Kịch bản này có khả năng xảy ra nếu dưới nhiều góc độ và trường hợp có thể xảy ra:
Quân đội và công an thống nhất trong hành động, tránh được chia rẽ nội bộ. Xã hội trong điều kiện nầy sẽ ít bị xáo trộn chính trị hơn. Họ sẽ kiểm soát được tình hình chính trị và kinh tế mà không để xảy ra hỗn loạn xã hội và gây hoang mang trong dân chúng. Nhóm lãnh đạo mới có đủ kỹ năng và sự linh hoạt để tái cấu trúc hệ thống nhà nước mà vẫn duy trì quyền lực.
Người dân không có đủ tổ chức hoặc phong trào mạnh nào có khả năng tập hợp trong điều kiện nầy để thúc đẩy một hệ thống dân chủ thực sự.
Tóm lại, nếu quân đội và công an ổn định tình hình sau sự kiện sụp đổ, họ hoàn toàn có thể tạo ra một mô hình "xã hội chủ nghĩa kiểu mới", trong đó quyền lực vẫn nằm trong tay một nhóm nhỏ thay vì mở ra một nền dân chủ thực sự. Đây là một chiến lược mà một số quốc gia hậu cộng sản đã áp dụng để tránh hỗn loạn nhưng vẫn giữ quyền lực trong tay giới tinh hoa chính trị cũ. Và có lẽ, Tô Lâm hiện nay cũng đang cố thực hiện kịch bản nầy cho Việt Nam trong những ngày sắp đến.
Có thể gọi "giả sử" trên lá cách mạng nhung không?
Người viết xin trả lời ngay là giả thiết trên không hoàn toàn giống với một cuộc cách mạng nhung - Velvet Revolution, mặc dù có một số điểm tương đồng.
Tại sao?
Cách mạng nhung thường dẫn đến dân chủ thực sự: Trong lịch sử, các cuộc cách mạng nhung (như ở Tiệp Khắc năm 1989) thường do các phong trào dân sự, trí thức và quần chúng lãnh đạo, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cũ và thay thế hoàn toàn bằng một hệ thống đa đảng, dân chủ thực sự. Trong giả sử trên, quân đội và công an vẫn kiểm soát tình hình và có thể chỉ thay đổi nhân sự lãnh đạo mà không thực sự chuyển sang chế độ dân chủ đa nguyên.
Không có sự chuyển giao quyền lực thực sự: Nếu quân đội và công an chỉ thay đổi một nhóm lãnh đạo nhưng vẫn duy trì mô hình cai trị tập trung, thì đó chỉ là một cuộc thay đổi nội bộ trong hệ thống chứ không phải một cuộc cách mạng nhung.Cách mạng nhung thường dẫn đến bỏ điều 4 hiến pháp (độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản) và cho phép các đảng phái đối lập hoạt động tự do. Nếu điều này không xảy ra, thì đó chưa thể gọi là cách mạng nhung. Cách mạng nhung thường là phi bạo lực và do người dân chủ động. Nếu sự thay đổi được thúc đẩy từ nội bộ quân đội/công an chứ không phải từ phong trào quần chúng, thì nó có thể giống một cuộc đảo chính nội bộ hơn là một cuộc cách mạng nhung. Trong các cuộc cách mạng nhung điển hình, người dân và các phong trào đối lập đóng vai trò trung tâm, chứ không phải là quân đội hay công an.
Vậy gọi là cách mạng gì?
Nếu có sự thay đổi lãnh đạo nhưng giữ nguyên hệ thống chính trị, thì nó có thể được gọi là một cuộc thanh trừng nội bộ hoặc chuyển đổi chính trị có kiểm soát.
Nếu quân đội nắm quyền và tự tái cấu trúc hệ thống, nó có thể được xem là một cuộc đảo chính mềm hoặc chuyển đổi theo mô hình độc tài quân phiệt mới.
Nếu có cải cách chính trị sâu rộng nhưng vẫn dưới sự kiểm soát của một nhóm quyền lực, thì nó có thể là một cuộc cải tổ từ trên xuống nhưng không đổ máu (giống cách Trung Cộng từng thực hiện dưới Đặng Tiểu Bình).
Qua trên, Việt Nam có cần "chuyển đổi" để
đẩy mạnh phát triển hơn không?
Tùy theo nhiều góc nhìn khác nhau:
Nếu mục tiêu là phát triển kinh tế mạnh hơn, Việt Nam đã có sự chuyển đổi đáng kể từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 với Đổi Mới. Tuy nhiên, mô hình nầy vẫn có hạn chế như tham nhũng và lợi ích nhóm cản trở sự minh bạch và cạnh tranh lành mạnh. Doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, làm giảm năng suất kinh tế. Hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, làm hạn chế đầu tư và sáng tạo. Ba nhận định trên giải thích được việc phát triển chậm và làm trì trệ việc nâng Việt Nam thành Rồng suốt 40 năm qua!
Vì vậy,
Nếu còn giữ nguyên hệ thống chính trị nhưng thực hiện cải cách thể chế mạnh và thông thoáng hơn (giống TC thời Đặng Tiểu Bình) thì có thể giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh hơn mà không cần thay đổi mô hình toàn diện.
Nếu chuyển sang nền kinh tế tự do hơn, hạn chế quyền lực nhà nước trong kinh doanh, thì Việt Nam có thể đi theo hướng của Hàn Quốc hoặc Đài Loan sau những năm 1980.
Hướng đi đúng đắn của Việt Nam
Hiện tại, Việt Nam đang có bất bình đẳng kinh tế gia tăng, đặc biệt giữa thành thị và nông thôn. Ngoài ra, môi trường bị khai thác quá mức, giáo dục và y tế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển dài hạn, Xã hội có nhiều vấn đề về lao động, an sinh xã hội và phẩm chất cuộc sống của người dân.
Vì vậy phải cần:
- Cải cách thể chế để giảm độc quyền và tăng sự giám sát của người dân.
- Cần các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân và sáng tạo thay vì chỉ tập trung vào doanh nghiệp nhà nước.
- Cần chuyển đổi theo hướng minh bạch hơn, nhưng không nhất thiết phải thay đổi chế độ chính trị ngay lập tức.
Việt Nam đang ở thế phải cạnh tranh với các nước mạnh như Hàn Quốc, Trung Cộng, Thái Lan, Malaysia. Để không bị tụt hậu, Việt Nam cần một hệ thống pháp luật công bằng và minh bạch hơn. Mở cửa hơn với đầu tư nước ngoài và công nghệ cao. Giảm bớt kiểm soát nhà nước với doanh nghiệp tư nhân.
Việt Nam cần chuyển đổi để phát triển mạnh hơn, nhưng mức độ chuyển đổi có thể khác nhau:
Nếu chỉ muốn tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, cần cải cách kinh tế theo hướng thị trường nhiều hơn.
Nếu muốn phát triển bền vững hơn, cần cải cách thể chế để minh bạch hơn.
Nếu muốn phát triển toàn diện như Hàn Quốc hay Đài Loan, có thể cần thay đổicả hệ thống chính trị.
Làm sao tránh được hỗn loạn và bất ổn xã hội trong quá trình chuyển đổi?
Tránh hỗn loạn và bất ổn xã hội trong quá trình chuyển đổi là một thách thức lớn. Để thành công, cần một chiến lược từng bước, ổn định và kiểm soát tốt. Dưới đây là một số yếu tố quan trọng để bảo đảm tiến trình này diễn ra suôn sẻ:
Chuyển đổi dần dần thay vì đột ngột.
Qua bài học từ Đông Âu sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng kinh tế do chuyển đổi quá nhanh trong việc tư nhân hóa. Ngược lại, Trung Cộng và Việt Nam áp dụng mô hình “cải cách nhưng giữ ổn định” sau những năm 1990, giúp tăng trưởng mạnh mà không gây sốc hệ thống. Như:
Cải cách từ từ, bắt đầu từ kinh tế, sau đó mới đến chính trị mềm mỏng dần.
• Giữ nguyên một số thể chế quan trọng (như quân đội, hành chính) để tránh khoảng trống quyền lực.
• Không vội vã thay đổi toàn bộ lãnh đạo, mà thay dần theo lộ trình và khuynh hướng mở của lớp lãnh đạo trẻ hấp thụ phần nào văn hóa Tây phương.
• Bảo đảm sự đồng thuận của các nhóm quyền lực vì nếu nhóm cầm quyền cảm thấy bị đe dọa hoàn toàn, họ có thể chống lại sự thay đổi bằng bạo lực.
• Trường hợp Miến Điện (Myanmar), quân đội đã đảo chính vì lo ngại mất quyền lực khi dân chủ hóa quá nhanh. Cho nên thất bại, cho đến bây giờ đất nước nầy vẫn còn nằm trong khủng hoảng chính trị nội bộ, xã hội bị xáo trộn hoàn toàn.
• Ở Nam Phi, Nelson Mandela đàm phán với chế độ Apartheid thay vì đối đầu trực tiếp, giúp chuyển đổi diễn ra trong hòa bình.Thỏa thuận với các nhóm quyền lực để họ không cản trở quá trình cải cách.
• Đảm bảo lợi ích nhất định cho giới lãnh đạo cũ, giúp họ yên tâm tham gia quá trình chuyển đổi thay vì chống lại nó. Điều nầy sẽ làm cho họ … yên tâm đi xuống!
• Duy trì vai trò của quân đội và công an, nhưng đặt họ dưới sự giám sát dân sự dần dần qua các hội đồng dân sự.
Bảo đảm kinh tế ổn định trong tiến trình chuyển đổi.
Nến nền kinh tế suy thoái có thể dẫn đến thất nghiệp, lạm phát và bất ổn xã hội. Duy trì ổn định tài chính và tiền tệ, tránh sốc nền kinh tế. Mở cửa kinh tế dần dần, không tư nhân hóa quá nhanh. Đầu tư vào an sinh xã hội, tránh để người dân rơi vào cảnh nghèo đói khi chuyển đổi.
Đảm bảo truyền thông minh bạch, tránh tin giả và kích động
Nhiều cuộc cách mạng thất bại vì thông tin bị bóp méo, gây ra hiểu lầm và xung đột. Ở Ukraine, mâu thuẫn giữa các vùng miền bị truyền thông kích động, dẫn đến nội chiến kéo dài. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến việc Nga huy động võ lực ngày 24/2/2022. Ở Tiệp Khắc, truyền thông đóng vai trò tích cực trong cách mạng nhung, giúp quá trình chuyển đổi diễn ra hòa bình. Do đó, truyền thông cần được kiểm soát tốt tránh loan tin giả và tuyên truyền thù hận. Tạo ra một môi trường truyền thông cởi mở nhưng có trách nhiệm. Khuyến khích đối thoại thay vì đối đầu.
Xây dựng một lộ đồ chuyển đổi rõ ràng
Nếu không có kế hoạch rõ ràng, dễ rơi vào hỗn loạn. Ở Iraq, sau khi chính quyền Saddam Hussein bị lật đổ, vì không có kế hoạch tái thiết rõ ràng, cho nên dẫn đến nội chiến kéo dài. Ở Chile, sau khi chế độ độc tài của Pinochet sụp đổ, có một kế hoạch rõ ràng giúp đất nước chuyển sang dân chủ một cách trật tự và tương đối bền vững.
Vì vậy,
Cần định rõ từng giai đoạn chuyển đổi: giai đoạn Một (cải cách kinh tế), giai đoạn Hai (mở rộng dân chủ), giai đoạn Ba (ổn định chính trị lâu dài) nhằm bảo đảm sự đồng thuận giữa các bên liên quan, không để xảy ra mâu thuẫn lớn. Cũng cần nên có một nhóm lãnh đạo đủ năng lực để dẫn dắt quá trình chuyển đổi.
Chuyển đổi Việt Nam cần phải được kiểm soát nghiêm chỉnh
Chuyển đổi có thể là cơ hội, nhưng phải có chiến lược thông minh để tránh hỗn loạn. Việt Nam hoàn toàn có thể chuyển đổi để phát triển mạnh hơn, nhưng cần làm từ từ, có lộ trình rõ ràng, và bảo đảm ổn định xã hội. Quan trọng nhất là không để xảy ra khoảng trống quyền lực và tránh đối đầu gay gắt giữa các phe phái. Nếu làm tốt các việc trên, Việt Nam có thể chuyển đổi thành công như Hàn Quốc hoặc Đài Loan, thay vì rơi vào bất ổn như Miến Điện, Ukraine hay Iraq.
Mai Thanh Truyết
Houston 3-2025
Monday, March 3, 2025
Cuộc chiến mờ ảo qua vụ… Đất hiếm Ukraina
Căn cứ theo Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ - USGS, không thấy một ghi nhận nào về trữ lượng đất hiếm tại Ukraina, trong lúc đó, có ghi trữ lượng của Mỹ đứng thứ ba trên thế giới với 13 triệu tấn. Nếu khai thác Đất hiếm tinh chế sẽ được sản xuất dư thừa nhu cầu của Mỹ. Và mỏ Mountain Pass đã khởi động lại từ nhiều năm qua rồi (xin đọc phần dưới).
Như vậy, chiêu bài chính trị ở Ukraina qua “việc ngưng bắn giữa Nga và Ukraina” liên quan đến việc “Mỹ ký hợp đồng khai thác đất hiếm ở xứ nầy” là gì???
Có phải đây là một trò “Ma nớp” chính trị hay không?
Xin tùy người đọc tự suy gẫm.
Mỹ có trữ lượng đất hiếm khá lớn, ước tính khoảng 13 triệu tấn (theo Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ - USGS). Một số tiểu bang có nguồn tài nguyên đất hiếm đáng kể bao gồm:
1. California – Mỏ Mountain Pass (là mỏ đất hiếm lớn nhất Mỹ, thuộc công ty MP Materials).
2. Wyoming – Có các dự án khai thác tiềm năng, như mỏ Bear Lodge.
3. Texas – Có một số nguồn tài nguyên đất hiếm, đặc biệt là ở phía tây tiểu bang.
4. Alaska – Có tiềm năng đất hiếm ở khu vực Bokan Mountain.
5. Colorado – Một số trữ lượng được phát hiện.
6. Missouri – Đất hiếm có thể được khai thác từ các mỏ phốt phát.
Mặc dù Mỹ có trữ lượng đáng kể, nhưng phần lớn đất hiếm hiện nay vẫn được nhập khẩu, chánh yếu từ Trung Cộng (Mỹ xuất cảng đất hiếm thô sang TC), do chi phí khai thác và chế biến nội địa cao vì việc thanh lọc phế thải trong quá trình chế biến rất khắc khe và phức tạp.
Trữ lượng đất hiếm trên thế giới khoảng 87,7 triệu tấn (chưa qua tinh chế), tập trung vào các nước như: Trung Cộng (27 triệu tấn); Liên Xô trước đây (19 triệu tấn); Mỹ (13 triệu tấn), Australia (5,2 triệu tấn); Ấn Độ (1,1 triệu tấn), Canada (0,9 triệu tấn); Nam Phi (0,4 triệu tấn); Brazil (0,1 triệu tấn); các nước còn lại (21 triệu tấn). Nhu cầu hằng năm chỉ cần 125.000 tấn thì 700 năm nữa mới cạn kiệt loại khoáng sản này. (Có nhiều nguồn tài liệu khác, ước tính trữ lượng các nơi trên có thể khác nhau.)
Hoa Ký, từ năm 1965, khai thác đất hiếm ở vùng núi Pass, Colorado - Mỹ. Đến năm 1983, Mỹ mất vị trí độc tôn khai thác vì nhiều nước đã phát hiện mỏ đất hiếm. Trong đó, ưu thế khai thác dần nghiêng về phía TC vì nước này đã phát hiện được nhiều mỏ đất hiếm. Đến năm 2004, vùng mỏ Bayan Obo của TC đã sản xuất đến 95.000 - 102.000 tấn đất hiếm.
Đất hiếm ở Hoa Kỳ
Thống kê và tin tức về cung, cầu và sự luân lưu trên toàn thế giới của nhóm khoáng sản đất hiếm - scandium, yttrium và lanthanides cho thấy nguồn kinh tế chính của đất hiếm là các khoáng chất bastnaesite, monazite, loparite và ion Laterit- đất sét hấp phụ (ion-adsorption).
Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra hoạch hỗ trợ các nước phát triển nguồn khoáng sản như lithium, đồng và cobalt, nhằm giảm phụ thuộc vào TC về những khoáng sản quan trọng đối với ngành công nghiệp kỹ thuật cao.Trong thời gian gần đây, Washington quan ngại về việc phụ thuộc vào khoáng sản nhập khẩu sau khi có tin Bắc Kinh xem xét cắt giảm xuất khẩu đất hiếm sang Mỹ giữa lúc chiến tranh thương mại song phương leo thang.
Các công ty quốc phòng Mỹ Raytheon và Lockheed Martin dùng đất hiếm trong hệ thống hướng dẫn và bộ cảm biến cho tên lửa. Đất hiếm cũng rất cần thiết cho những thiết bị quân sự quan trọng khác như động cơ máy bay, laser, và thiết bị nhìn xuyên đêm.
Theo Reuters, 80% lượng đất hiếm nhập vào Mỹ trong giai đoạn 2014-2017 là từ TC trong khi hiện nay không có nhiều bên cung cấp khác có thể cạnh tranh với nước nầy.
“Hơn 80% chuỗi cung cấp đất hiếm toàn cầu bị một nước kiểm soát. Việc dựa vào bất kỳ một nguồn nào làm gia tăng nguy cơ bị gián đoạn về nguồn cung”, Bộ Ngoại giao Mỹ cảnh báo trong tài liệu về kế hoạch hỗ trợ các nước phát triển khoáng sản, được gọi là Sáng kiến quản lý nguồn năng lượng. Theo kế hoạch, Mỹ sẽ chia sẻ kỹ thuật khai thác nhằm hỗ trợ phát hiện và phát triển nguồn khoáng sản cũng như tư vấn cách quản lý nhằm đảm bảo ngành công nghiệp của các nước hấp dẫn đối với giới đầu tư quốc tế.
Bước đi này được kỳ vọng sẽ giúp đảm bảo nguồn cung khoáng sản toàn cầu có thể đáp ứng nhu cầu của thế giới. Nhu cầu về khoáng sản năng lượng thiết yếu có thể gia tăng gần 1.000% vào năm 2050, theo ước tính của giới chuyên gia.
Ở Bắc Mỹ, nguồn tài nguyên đất hiếm được đo lường và chỉ ra ước tính bao gồm 2,4 triệu tấn ở Hoa Kỳ và hơn 15 triệu tấn ở Canada.
Bao nhiêu phần trăm đất hiếm được khai thác ở Hoa Kỳ?
Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, nước này kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu.
Mỹ nhập khẩu bao nhiêu nguyên tố đất hiếm?
Hoa Kỳ nhập khẩu ròng 100% vào các nguyên tố đất hiếm trong năm 2018, nhập khẩu ước tính khoảng 11.130 tấn hợp chất và kim loại trị giá 160 triệu USD. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, 80% lượng hàng nhập khẩu đó có nguồn gốc từ TC.
Mỹ đang thắng thế về đất hiếm?
Cuộc cạnh tranh toàn cầu về các khoáng sản quan trọng đang nóng lên và Mỹ chưa giành được chiến thắng. Trong số các khoáng sản quan trọng này có một tập hợp con được gọi là các nguyên tố đất hiếm (Rare Earth Element-REE), rất quan trọng đối với mọi hoạt động từ quá trình chuyển đổi năng lượng sang kỹ nghệ quốc phòng. Vào ngày 4 tháng 3, Tesla TSLA +6,2% đã công bố hợp tác với một mỏ niken ở New Caledonia.
Trước kia, Mỏ Mountain Pass của California là cơ sở đất hiếm duy nhất đang hoạt động của Hoa Kỳ. Nhưng Cty MP Materials mua lại mỏ Mountain Pass, quyết định, thay vì tinh chế, lại cho vận chuyển khoảng 50.000 tấn đất hiếm cô đặc mà họ khai thác mỗi năm từ California đến TC để chế biến. TC đã áp đặt mức thuế 25% đối với những mặt hàng nhập khẩu đó trong cuộc chiến thương mại.
Hiện tại, Mỏ Mountain Pass, CA hoạt động trở lại vào năm 2012 sau nhiều năm ngừng hoạt động, ngày nay, 2020 cung cấp khoảng 15% sản lượng đất hiếm của thế giới, một nhóm gồm 17 khoáng chất được sử dụng để chế tạo nam châm trong công nghệ thương mại và quân sự tiên tiến nhất của Mỹ, từ xe điện. cho các tàu ngầm tấn công lớp Virginia. Mountain Pass của California, một trong những mỏ lớn nhất thế giới, nơi sản xuất 43.000 tấn REO vào năm 2022, theo USGS.
Nhưng trong vòng ba thập niên qua, Bắc Kinh đã nắm chặt chuỗi cung ứng đất hiếm của thế giới đến mức gần như tất cả nguyên liệu – bất kể chúng được khai thác ở đâu trên thế giới – đều phải chuyển đến TC để sàng lọc trước khi chúng có thể được xử dụng trong công nghệ.
Theo Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hiện nay, TC kiểm soát gần 60% hoạt động khai thác đất hiếm, hơn 85% công suất chế biến và hơn 90% sản lượng nam châm vĩnh cửu.
Đây là một vấn đề gây ra lỗ hổng lớn trong chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ và gây ra những rủi ro an ninh quốc gia tiềm ẩn, xét đến mối quan hệ căng thẳng của Washington với Bắc Kinh. Khi tín hiệu nhu cầu về công nghệ dựa trên các yếu tố này được dự đoán sẽ tăng vọt, cả ngành công nghiệp và chính phủ đều đang đầu tư vào các phương pháp nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng đất hiếm trong nước.
Mặc dù được dán nhãn là “hiếm”, nhưng 17 nguyên tố khác nhau được gọi là đất hiếm lại tương đối dồi dào trong lớp vỏ Trái đất. Chính quyền Biden coi chúng là một trong những vật liệu và khoáng sản chiến lược và quan trọng để xử dụng trong một số công nghệ thương mại và quốc phòng hiện đại - bao gồm điện thoại thông minh, thiết bị y tế và nam châm chuyên dụng cao được dùng trong xe điện, máy bay chiến đấu phản lực và máy bay không người lái.
Nhưng do đặc tính hóa học của các nguyên tố đất hiếm gần như không thể phân biệt được với nhau nên việc tách và tinh chế riêng lẻ chúng để có thể xử dụng chế tạo nam châm và các công nghệ khác là một quá trình phức tạp, Linda Chrisey, giám đốc chương trình tại Cơ quan Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến, cho biết.
“Hai nguyên tố đất hiếm khác nhau có thể là những phần nhỏ của một angstrom có đường kính khác nhau - điều đó có nghĩa là rất khó phân tách bằng các phương pháp vật lý. Các quy trình hiện đang được áp dụng… có thể gồm 100 bước”, Chrisey cho biết, đồng thời lưu ý rằng quy trình này có thể rất tốn kém và nguy hiểm cho môi trường do các hóa chất được dùng để tách và tinh chế kim loại. Bà nói thêm: “Đây là tất cả những lý do khiến việc duy trì kiểu hoạt động đó ở Hoa Kỳ trở nên khó khăn”.
Tuy nhiên, trên đỉnh núi ở sa mạc Mojave tại mỏ đất hiếm lớn nhất nước Mỹ, MP Materials đang cố gắng đảo ngược xu hướng đó. Với quy mô và năng lực cơ sở vật chất của mình, MP Materials đang cố gắng trở thành “nhà vô địch về nam châm” ở Tây bán cầu, Matt Sletcher, phó chủ tịch cấp cao về truyền thông và chính sách của MP Materials cho biết. Ông nói: “Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là xây dựng một chuỗi cung ứng từ tính hoàn chỉnh và chúng tôi muốn có thể sản xuất tất cả các vật liệu cần thiết và tái chế những vật liệu cần thiết để có được chuỗi cung ứng từ tính đó”.
Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, kể từ khi mua lại mỏ Mountain Pass vào năm 2017, MP Materials đã khôi phục hoạt động sản xuất các nguyên tố đất hiếm tại địa điểm này và tạo ra hỗn hợp đất hiếm cô đặc, đóng góp khoảng 15% lượng khoáng chất đất hiếm được tiêu thụ mỗi năm.
Và chẳng bao lâu nữa, MP Materials sẽ không còn phải vận chuyển hỗn hợp này ra nước ngoài tới TC để thực hiện quá trình tách và tinh chế các nguyên tố đất hiếm kéo dài. Sau hai năm xây dựng, công ty đã thông báo vào tháng 11, 2019 rằng họ sắp mở cơ sở tinh chế đất hiếm đầu tiên ở Hoa Kỳ tại cơ sở Mountain Pass.
Đầu tiên, họ phải vận hành tài sản cho cơ sở mới cho giai đoạn sản xuất thứ hai, đây là một quá trình kiểm tra sức chịu đựng của thiết bị của cơ sở để đảm bảo nó hoạt động theo tốc độ được thiết kế, Slestcher cho biết trong chuyến thăm công trình đang diễn ra tại nhà máy cho biết thủ tục này sẽ diễn ra trong suốt năm 2023.
Ông giải thích, giai đoạn sản xuất thứ hai bắt đầu bằng quá trình sấy khô, rang, lọc và tinh chế hỗn hợp đất hiếm cô đặc. Sau đó, đất hiếm được đưa vào một trong những bể chứa cao chót vót nằm trong một tòa nhà dài hơn một sân bóng đá Mỹ. Ông cho biết, trong những thùng này, quy trình chiết dung môi sẽ tách hỗn hợp thành các oxit đất hiếm riêng lẻ.
Mặc dù đây chỉ là một cơ sở sàng lọc đang cạnh tranh với nhiều cơ sở ở TC, nhưng việc khai trương cơ sở này đánh dấu một bước quan trọng trong nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm giải quyết chuỗi cung ứng đất hiếm dễ bị tổn thương. Theo thông cáo báo chí của Ngũ Giác Đài, vào năm 2020, Bộ Quốc phòng đã đầu tư 10 triệu USD vào dự án trị giá 200 triệu USD này.
Sletcher lưu ý, MP Materials sẽ tập trung vào việc tinh chế hợp chất neodymium và praseodymium - một trong những vật liệu phổ biến nhất được dùng để chế tạo nam châm đất hiếm - cũng như lanthanum và xerium. Những nguyên tố này được phân loại là “đất hiếm nhẹ”.
Chính phủ cũng đang thúc đẩy sản xuất trong nước “đất hiếm nặng”, loại đất khó tinh chế hơn nhưng cũng được sử dụng để chế tạo nam châm chuyên dụng hơn. Ví dụ, terbium và dysprosium đất hiếm nặng cần thiết để tạo ra nam châm vĩnh cửu đất hiếm có thể hoạt động ở nhiệt độ cao, trong khi samarium được dùng để sản xuất nam châm samarium-coban được dùng trong các ứng dụng hàng không vũ trụ và quốc phòng.
Bộ Quốc phòng đã trao cho MP Materials một hợp đồng trị giá 35 triệu USD vào tháng 2 năm 2022 để xây dựng một cơ sở được thiết kế đặc biệt để xử lý các nguyên tố đất hiếm nặng tại mỏ Mountain Pass. Sletcher cho biết đất hiếm nặng sẽ được tinh chế ở một tòa nhà khác và nói thêm rằng dự án chỉ mới bắt đầu.
Để thuần hóa hoàn toàn chuỗi cung ứng nam châm, MP Materials cũng đã bắt đầu xây dựng nhà máy từ tính đất hiếm đầu tiên của Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 2022. Tọa lạc tại Fort Worth, Texas, cơ sở này sẽ có thể sản xuất khoảng 1.000 tấn neodymium-sắt hàng năm. Theo công ty, nam châm boron từ các nguyên tố đất hiếm được khai thác và tinh chế tại các cơ sở của Mountain Pass.
Sletcher lưu ý rằng do thị trường quốc phòng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nhu cầu về đất hiếm của Hoa Kỳ - khoảng 5% - nên công ty đang tìm cách giải quyết các nhu cầu trong ngành thương mại trước tiên.
Theo báo cáo của công ty nghiên cứu độc lập Adamas Intelligence, nhu cầu toàn cầu về oxit đất hiếm được dự báo sẽ tăng gấp ba lần từ 15 tỷ USD vào năm 2022 lên 46 tỷ USD vào năm 2035.
Đất hiếm hiện tập trung nhiều nơi ở Hoa Kỳ và hiện đang được khai thác ở: North Dakota, West Virginia, Appalachian Basin — North (Kentucky, Maryland, Ohio, Pennsylvania and West Virginia), Appalachian Basin — Central (Kentucky, Tennessee, Virginia and West Virginia), Appalachian Basin — South (Alabama, Georgia and Tennessee), San Juan River-Raton-Black Mesa Basin (Arizona, Colorado and New Mexico), Illinois Basin (Kentucky, Illinois, Indiana and Tennessee), Williston Basin (Montana, North Dakota and South Dakota), Powder River Basin (Montana and Wyoming), Uinta River Basin (Colorado and Utah): University of Utah (Salt Lake City, Utah), Green River — Wind River Basin (Colorado and Wyoming), Gulf Coast Basin (Alabama, Arkansas, Georgia, Louisiana, Mississippi and Texas), Alaska (Alaska): University of Alaska Fairbanks (Fairbanks, Alaska)
1- Kết luận
Tại hội nghị thượng đỉnh các nước G7 ở Hiroshima, Nhật từ 19 đến 21 tháng 5, 2023, bà Ursula von der Leyen, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu (EC) , đã nhấn mạnh cần phải hợp tác với những đối tác và các quốc gia có tầm nhìn chung để “giảm thiểu sự phụ thuộc của chúng ta vào Trung Cộng” ở một số lĩnh vực then chốt, trong đó có đất hiếm. Ngày 18/5/2023, Bộ Tài nguyên của Australia, là khách mời tham dự G7 tương tự như Việt Nam, đã ra thông báo chính sách tài trợ cho ngành khai thác mỏ, trong đó có chiến lược khai thác đất hiếm, nhằm giảm thiểu các rủi ro về chủ quyền và tăng cường năng lực cho chuỗi cung ứng của các lĩnh vực sản xuất.
Trong thời đại của nền kinh tế công nghệ cao cấp, các nguyên tố đất hiếm có mặt khắp mọi sản phẩm công nghiệp như xe hơi, điện thoại di động, vệ tinh, động cơ, tên lửa dẫn đường bằng tia laser, một số linh kiện dùng trong kỹ nghệ tình báo và quân sự như trong động cơ và các thiết bị điện tử của mỗi chiếc máy bay chiến đấu F-35 Lightning II thế hệ mới nhất của Hoa Kỳ có khoảng 450 kg nguyên tố đất hiếm và dĩ nhiên, không cần công bố chi tiết chính xác …
Khai thác đất hiếm và công cuộc bảo vệ môi trường trong quá trình tinh chế đất hiếm đòi hỏi các kỹ năng khoa học kỹ thuật cao và cân bằng với việc bảo vệ môi trường. Từ một nguồn đất thô và phải qua nhiều giai đoạn tinh lọc, tinh chế…, phát thải một số lượng quá lớn phế thải độc hại lỏng, rắn, và khí. Các công ty Hoa Kỳ, chỉ vì chú trọng vào hiệu quả kinh tế hơn vấn đề an ninh quốc phòng, cho nên trước một phí tổn rất lớn do EPA quy định trong việc thanh lọc phế thải, người Mỹ đã từng ngủ một giấc ngủ dài trong việc tinh chế các đất hiếm nầy.
Ngược lại, TC với quyết tâm đại hán, muốn trở thành bá chủ toàn cầu, vì vậy họ xem nhẹ việc bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn sống của hơn 1,4 tỷ người Tàu nhằm sản xuất đất hiếm và làm ngơ việc thanh lọc phế thải lỏng. Nên nhớ, sản xuất chỉ 1kg đất hiếm, phát thải ra hàng chục ngàn lít phế thải lỏng độc hại…cần phải thanh lọc.
Cuộc chiến về đất hiếm giữa TC và Mỹ đang lần lần được cân bằng sau cuộc chiến cấm vận của Hoa Kỳ và TC, cũng như thương chiến về đất hiếm khơi nguồn từ tranh chấp giữa Nhật và TC năm 2010.
Vấn đề là, đất hiếm một khi đã được tinh luyện rồi cần phải…được dùng để sản xuất những sản phẩm “công nghệ tối tân” nhằm phục vụ trong công kỹ nghệ quốc phòng, y tế, không gian v.v…chứ không nhằm để xuất cảng như hầu hết đất hiếm của TC.
Và, về điểm trên, Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế, vì TC không đủ khả năng để chạy theo các tiến bộ khoa học - kỹ thuật của HK. Nên nhớ, dưới thời TT Reagan, chì vì chạy theo chính sách không gian của Mỹ, mà Liên Sô bị hụt hơi và “tự” bứt từ vào năm 1991.
Và cũng cần nên nhớ, tuy Trung Cộng được xem như một nhà máy cung ứng cho toàn cầu …với giá rẻ, nhưng chưa bao giờ có đủ linh kiện “tự sáng chế” để hoàn tất 100% một sản phẩm cao cấp nào cả, từ những mặt hàng công nghệ tiêu dùng hay trong lãnh vực quân sự hoặc quốc phòng hay không gian!
Sẽ còn lâu lắm Trung Cộng mới có khả năng đuổi kịp thế giới tự do.
Có chăng là Trung Cộng sẽ bị xẻ ra làm sáu mãnh do những mâu thuẫn chủng tộc tiềm ẩn dưới ách cai trị độc đoán của Hán tộc.
Gương Liên Sô cũ hãy còn sờ sờ trước mắt. Chờ xem.
Saturday, March 1, 2025
LAO-TRUNG LÃNH-VẬN 73
Nói về Cụ Trần Văn Hương, một nhân sĩ miền Nam, có lẽ
Cụ là người duy nhứt đã dự phần trong suốt cuộc ba đào ở
miền Nam trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước. Từ
một Ông thầy giáo, qua một Ông Đô trưởng, rồi lại thành Ông
“phạm nhơn”, bước lên làm Ông Thủ tướng, rồi Ông Phó Tổng
Thống, sau cùng làm Ông Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa…
Một giai đoạn xuyên suốt chiều dài của một đời người quyện
cùng những nét nhạc trầm bổng của quê hương, nhưng buồn
nhiều hơn vui! Đó chính là Cụ Trần Văn Hương.
Cụ Trần Văn Hương sinh ngày 01 tháng 12 năm 1902 tại
làng Long Châu, quận Châu Thành (nay là thành phố Vĩnh
Long), tỉnh Vĩnh Long trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và
được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được
ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp,
ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Collège
ĐỌC THI PHẨM
“LAO-TRUNG LÃNH VẬN”
“Nhắn ai muốn học vào đây học:
Phong-độ nhà lao có dễ đâu!”
(CTT Trần Văn Hương)
Subscribe to:
Posts (Atom)