2019 - Sự Hoài Nghi Về Biến Đổi Khí Hậu
Hôm nay, 23/9/2019 là ngày bắt đầu
của mùa Thu, nhưng nhiệt độ ở thành phố Houston vẫn còn trên dưới 900F
vào lúc trưa.
Hôm nay cũng là ngày khai mạc Thượng đỉnh khí hậu tại trụ sở Liên
Hiệp Quốc ở NewYork, do Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc triệu tập và dưới áp lực của
giới trẻ.
Sự kiện đặc biệt này tiếp theo phiên họp Đại Hội Đồng LHQ lần
thứ 74. Nhưng trong số 136 nhà lãnh đạo có mặt tại NewYork, chỉ có 60 vị
nhận lời tham dự cho dù đã nhận được thư mời từ nhiều tháng qua. Tuy
nhiên,trong số những người vắng mặt có lãnh đạo những nước có tiếng gây ô nhiễm
nhất địa cầu: Donald Trump, Tập Cận Bình, Vladimir Putin, Narendra Modi...
Tổng thư ký LHQ Antonio Guterres đã quyết định không
chờ đến năm 2020, thời điểm được dự trù để các nước thông báo
những nỗ lực mới, chỉ tiêu mới trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
TTK LHQ thúc đẩy cơ quan quốc tế đốt giai đoạn. Thượng đỉnh New York là một
minh chứng: khí hậu đã trở thành hoạt động ưu tiên của nhiệm kỳ với động lực là
giới trẻ. Trước cử tọa gồm 500
đại biểu thanh thiếu niên được mời trao đổi sáng kiến hành động cụ thể hôm thứ
Bảy, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc khuyến khích họ tiếp tục tranh đấu, gây sức ép
với các chính phủ kể cả dùng lá phiếu để phản kháng.
Theo nhận định của
một nhà hoạt động: Chống biến đổi khí
hậu là động lực duy nhất còn có thể huy động hợp tác đa phương. Chính
vì thế mà TTK Antonio Guterres sử dụng hồ sơ khí hậu để cứu vãn uy tín của LHQ
mà nhiệm vụ gốc là bảo vệ an ninh hoà bình thế giới.
Trong bản báo cáo công bố hôm qua, cơ quan LHQ này cũng ghị nhận
rằng, nồng độ khí gây hiệu ứng nhà kính trong khí quyển cũng đã đạt những mức cao
lịch sử: “Tốc
độ tăng trưởng của nồng độ CO2 trong không khí cao hơn gần 20% so
với những gì quan sát được trong giai đoạn 5 năm trước đó”.
Dữ liệu của bản báo cáo tính đến tháng 7,
2019, cũng cho thấy nhiệt độ trung bình của trái đất đã tăng 1,1°C kể từ thời tiền công
nghiệp và 0,2°C kể từ giai đoạn 2011-2015.
TTK LHQ Antonio Gueterres kêu gọi quốc tế hãy "bắt tay hành động" và ông đã mất một năm để chuẩn bị cho
hội nghị khai mạc hôm nay ở New York. Nhưng đa số khoa học gia lo ngại thành công
sẽ không bao nhiêu. Bởi lãnh đạo các nước gây ô nhiễm nhất, như Trung Cộng
hay Ấn Độ và nhất là Hoa Kỳ đều vắng mặt. Ngay cả Nhật hay Canada vốn đã cam
kết rất nhiều về quyết tâm phát triển năng lượng sạch cũng không tham dự hội
nghị về môi trường mở ra tại trụ sở Liên Hiệp Quốc.
Theo sự nghiên cứu gần đây, Công
nghệ tin học vừa tiêu thụ nhiều tài nguyên thiên nhiên, vừa là giải pháp cho
phép tiết kiệm năng lượng. Thí dụ cụ thể là mỗi lần dùng Google tìm kiếm thông tin, chúng ta thải ra 0,2 gr
CO2. Khối lượng đó không
nhiều so người dùng xe hơi để di chuyển. Nhưng nếu tinh trung bình trong mỗi
tháng, trên thế giới có tới 13 tỷ lượt truy cập vào Google, lượng khí carbonic thải ra như vậy tương
đương với mức tiêu thụ điện của 4300 gia đình Mỹ trong một tháng.
Đó là chưa kể ở đầu bên kia máy điện toán của chúng ta, Google
phải tích trữ không biết bao nhiêu dữ liệu để cung cấp cho người sử dụng. Việc
tích trữ dữ liệu đó cũng rất tốn năng lượng. Nhưng bù lại, cũng nhờ có các
phương tiện tìm kiếm như Google hay những ứng dụng mà chúng ta tiết kiệm được
không biết bao nhiêu điện, xăng, và xử dụng trí não...
Như vậy,
Câu hỏi đầu tiên của rất nhiều người
ngay từ những ngày đầu của Thượng đỉnh COP21 vào cuối tháng 11, 2015 là "các
lãnh đạo quốc gia trên thế giới sẽ đồng ý với nhau về sự hâm nóng toàn cầu như
thế nào?"
Chúng ta vẫn còn nhớ Kỳ hội nghị tại Copenhagen cách đây sáu
năm, một số nhà lãnh đạo thế giới, bao gồm cả Tổng thống Barack Obama và Thủ
tướng Trung Cộng Ôn Gia Bảo, đã tham dự; nhưng sau đó, các ông cảm thấy
xấu hổ khi hội nghị kết thúc trong cảnh hỗn loạn và chống phá lẫn nhau. Các ông cố gắng làm tất cả
nỗ lực lớn nhất để cùng nhau có một thỏa thuận chung vào thời điển trên, nhưng
rồi đã đi vào bế tắc vì những bất đồng giữa các nước phát triển, đang phát triển và
một Trung Cộng cứng ngắt trong não trạng của mình.
Suốt 22 năm qua, từ khi thành hình Nghị định thư Kyoto
(1997), các nước trên thế giới đã phải vất vã để đến với một giải pháp chính
trị cho những mối đe dọa do sự biến đổi khí hậu, trong khi cộng đồng khoa học đã nhiều lần làm rõ và tái
làm rõ những mối đe dọa trên.
Nhưng tất cả đều thất bại vì cho đến bây giờ, thế giới chưa
bao giờ đạt được sự đồng thuận, mặc dù Thỏa thuận và một số Lời hứa vừa được ký
kết ở ngày bế mạc COP21 vào ngày 12
tháng 12 năm 2015.
1- Tại sao có sự khác biệt trong sáu năm làm việc với nhau từ
sau hội nghị Copenhagen?
Trong khoảng thời gian này, các quốc gia thành viên đã gặp
hàng năm kể từ khi đồng ý với các mục tiêu xác định các điểm chính của thỏa
thuận và bất đồng để tập trung cho COP21. Mặc dù đã chuẩn bị trước như vậy,
nhưng vẫn còn 916 khu vực và quan điểm bất đồng trước khi nhóm họp đã
được đúc kết trong một văn bản gồm 25.325 chữ.
Một xoay quanh mục tiêu mà các quốc gia trên thế giới trước
đó đã cam kết hạn chế sự gia tăng nhiệt độ trung bình trên khắp hành tinh ở mức
20C, nhưng nhiều quốc đảo nhỏ muốn có một mục tiêu táo bạo hơn là
hạn chế sự nóng lên đến 1,50C.
Tất cả các nước đều hứa sẽ đạt mục tiếu phát thải đề ra
"càng sớm càng tốt", nghĩa
là giảm thiếu hay ngưng hẳn số lượng carbonic phát thải tại một số thời điểm
giữa năm 2050 và 2100.
Nhưng, theo đa số các nhà khoa học nói điều này phải xảy ra
vào năm 2070 là chậm nhất. Thật không may, không ai trong số các cam kết đưa ra tại hội nghị
được ràng ràng buộc pháp lý rõ ràng - một điều rất cần thiết để
Hoa Kỳ có thể tránh đặt các điều ước quốc tế trong một cuộc bỏ phiếu tại Thượng
viện do đảng Cộng hòa kiểm soát. Liên Hiệp Quốc đang
hy vọng rằng áp lực thay vào đó sẽ làm cho các nước theo dõi, mặc dù không có
hình phạt pháp lý nào đối với các quốc gia không thể đáp ứng thỏa thuận.
Có lẽ rào cản lớn nhất bao quanh dòng chữ
"thiệt hại".
Các quốc gia nhỏ và quốc gia đang phát
triển thấy đây là một câu hỏi liệu họ sẽ nhận được sự trợ giúp đặc biệt từ các
quốc gia giàu khi bị thiên tai do khí hậu gây nên hay không?
Có lẽ chính vì vậy mà tạp chí Economist, ngay trong số
19/12-2015 đến 1/12016 đã nêu ra hai đề tựa: "Hopelessness and
Determination" và "Green light: What to expect after
the deal that exceeded expectations".
Như vậy rõ ràng là, ngay cả những quốc gia nêu ra nguyên
nhân và hậu quả của sự thay đổi khí hậu cũng như đề xướng những hành động cần
có của cá nhân, quốc gia v.v…để giải quyết vấn đề đặt ra, dự luận khắp thế giới
vẫn đặt nghi vấn cho những hành động trong tương lai, ngay từ khi mối quan tâm
đã được khơi dậy từ Thương đỉnh Rio de Janneiro từ năm 1992!
Bài viết nhằm mục đích nêu rõ một số bất đồng của các quốc
gia thành viên ngay sau khi Thượng đỉnh COP21 chấm dứt, để từ đó, góp ý cho
nhiều suy nghĩ khác trong việc giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu trên trái
đất.
2- Sự khác biệt quan điểm về việc thì hành Thương đỉnh COP21
Nhìn lại các Thỏa thuận COP21 về khí hậu, chúng
ta thấy những điểm gai góc trong các cuộc đàm phán bao gồm:
* Mức độ ràng buộc về pháp lý của thỏa thuận,
* Và những gì các nước giàu phải làm để
giúp các nước nghèo thích nghi và giảm thiểu tình trạng biến đổi khí hậu.
2.1 Thiên tai: Châu Á đứng mũi chịu sào
Cũng liên quan tới vấn đề khí hậu, tuần báo Courrier
International trích dẫn báo The Strait Times của Singapore cho
biết tại châu Á, bốn quốc gia hứng chịu nhiều thiên tai nhất vẫn là Trung Cộng, Ấn Độ, Philippines và Indonesia.
Tình trạng biến đổi khí hậu trên toàn cầu khiến cho thiên tai ngày càng diễn ra
thường xuyên hơn, mức độ thiệt hại vì thế cũng nghiêm trọng hơn.
Dựa vào bản báo cáo dày 30 trang của LHQ dành riêng cho lục
địa châu Á, tờ báo cho biết cường độ thiên tai đã tăng đáng kể trong 20 năm vừa
qua. Tính tổng cộng, đã có 300.000
người dân các nước châu Á thiệt mạng trong các trận bão, lũ lụt, cháy rừng, hạn
hán hay động đất. Về nhịp độ, Trung Cộng đứng đầu bảng xếp hạng với
441 lần thiên tai trong vòng hai thập niên, Ấn Độ về nhì (288 lần), Philippines
xếp hạng ba (274 lần) và Indonesia đứng hạng tư (163 lần).
Nhưng nếu so sánh với toàn thế giới, thì Hoa Kỳ vẫn là quốc
gia bị nhiều thiên tai nhất: 472 lần trong 20 năm qua, nhưng số nạn nhân thiên
tai ở Bắc Mỹ vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia châu Á.
Trường hợp của Miến Điện là một cá biệt, trận bão
Nargis đổ ập vào nước này vào năm 2008 đã gây nhiều thiệt hại nhân
mạng nhất trong hai thập niên qua. Số người chết và mất tích tại Miến Điện lên
tới 138.000 nạn nhân. Hàng trăm ngàn người dân khác buộc phải di dời chỗ
ở. Biến đổi khí hậu làm cho thiên tai thêm trầm trọng, đặc biệt là vào
năm 2002, hậu quả không thấy ngay trước mắt mà lại tác động chậm về lâu về dài.
Hạn hán tác hại đến đời sống của 300 triệu dân Ấn Độ trên một vùng rộng lớn,
các đợt bão cát cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt của 100 triệu dân Trung
Cộng.
Theo bà Margareta Wahlstrom, chuyên gia LHQ về
các rủi ro thiên tai, kế hoạch giảm
thiểu các loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính là một trong những biện pháp cần
thiết để hạn chế các thiệt hại nhân mạng và vật chất, nhất là đối với các vùng
đông dân cư ven miền duyên hải, trong khi mực nước biển vẫn dâng cao. Sau
khi tàn phá nhà cửa mùa màng, thiên tai còn làm ô nhiễm các nguồn
nước sạch, gieo mầm bệnh tật, tạo thêm gánh nặng cho các hộ gia đình, gây nhiều
phí tổn cho ngành y tế công cộng.
2.2 Những hoài nghi về biến đổi khí hậu
a- Phản đối của dân sống ở các hải đảo
Triển vọng đó đã khơi ra sự hoài nghi trong các đại biểu của
các nước đang phát triển ở Paris, vẫn tin rằng bất kỳ thỏa thuận nào đạt được
sẽ chỉ là sự lập lại những lời hứa không được thực hiện vốn đã thấy tại các
cuộc họp thượng đỉnh trước đây về khí hậu.
Ông Tony De Brum, ngoại trưởng Quần đảo
Marshall, đã họp với các thành viên của đảng Cộng hòa tại Quốc hội Hoa Kỳ, và
cho biết họ đã nói với ông rằng, "đứng quá tin chắc vào những
gì sẽ có được ở Paris bởi vì chúng tôi không chắc nó sẽ cất cánh trong nước."
Đặc biệt là các hải đảo, nạn nhân chính của hiện tượng biến
đổi khí hậu. Trên thế giới có tổng cộng 44 đảo quốc. Tuy chỉ chiếm có 1% dân số
toàn cầu, và là những quốc gia nghèo nhất, nhưng tiếng nói của những quốc gia
này đang đè nặng lên các cuộc thương lượng.
Libération trong bài phóng sự cho biết, các đảo quốc
nhỏ không đồng tình với mức hạn chế tăng nhiệt độ ở 2°C mà phải là ở mức 1,5°C.
Đại diện đảo Maurice cho rằng: « Không
phải chính các đảo quốc làm biến đổi khí hậu, mà chính họ mới là nạn nhân, đang
gánh chịu hậu quả của hiện tượng này. Các quốc gia gây ô nhiễm phải hiểu là
chúng tôi cần một cách giải quyết khác khác và đặc biệt hơn».
b- Hoa Kỳ
Thỏa thuận về khí hậu toàn cầu đang phân chia hai luồng ý
kiến trái chiều mang tính đảng phái ở thủ đô của Mỹ.
"Thỏa thuận này sẽ có nghĩa là ít ô nhiễm khí carbonic
hơn đe dọa tới hành tinh của chúng ta, và thêm nhiều công ăn việc làm và tăng
trưởng kinh tế hơn được thúc đẩy bởi đầu tư vào carbon thấp", Tổng thống Barack Obama hân hoan phát biểu ngay sau
khi thỏa thuận được công bố.
Nhưng những nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ trong Quốc hội đã ồ
ạt lên Twitter ca ngợi thỏa thuận này. Thế nhưng những nghị sĩ Đảng Cộng hòa
thì khác, họ đã tuyên bố phản đối ngay cả trước khi đạt được thỏa thuận này.
"Tổng thống Obama đã hứa sẽ cắt giảm mạnh sản lượng
năng lượng của Mỹ," Thượng nghị sĩ Cộng hòa John Barrasso phát biểu:"Người
dân Mỹ chống đối gửi tiền tới nguồn quỹ khí hậu bất chính của Liên Hiệp
Quốc."
Trong một thông cáo, lãnh đạo khối Đa số Thượng viện Mitch
McConnell chỉ trích thoả thuận là "không thể thành tựu được" và
"dựa trên một kế hoạch năng lượng nội địa mà có phần chắc là bất hợp pháp, đã
bị một nửa các bang khởi kiện để đình chỉ, và đã bị Quốc hội bỏ phiếu bác
bỏ."
Mặc dù đã thỏa thuận, nhưng những bất đồng vẫn chưa giải
quyết được ngay sau ngày bế mạc 12/12. Có 3 chủ đề bất đồng lớn:
- Việc chia sẻ nổ lực giảm khí thải giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển;
- Việc đóng góp tài chánh;
- Và mục tiêu hạn chế mức tăng nhiệt độ.
Có khoảng 100 quốc gia đòi giữ nhiệt độ trái đất không tăng
quá 1,5OC vào cuối năm 2100. Tuy nhiên Nga và Arab Saudi phản đối
kịch liệt và đòi hỏi việc thúc đẩy quá trình chuyển sang nền kinh tế
xanh là năm 2025 (không là 2020). Các tổ chức môi trường phản đối đề
nghị nầy.
Quốc gia sau nầy và Irak đòi bác bỏ nguyên tắc đánh
thuế Carbon, trong lúc đó, Hoa Kỳ, LH Âu châu, Úc cho rằng "phần đóng
góp của các nước phát triển cho các nước đang phát triển là quá lợi cho các
nước đang phát triển".
c- Ân Độ đòi công bằng
Thủ tướng Ấn độ Narendra Modi đã đòi điều mà ông gọi
là ''Công lý về Khí hậu''.
Theo đó, sau quá trình công nghiệp hóa trong những thế kỷ
vừa qua, các nước giàu có trách nhiệm lớn trong việc phát thải các loại khí gây
hâm nóng trái đất. Các nước giàu giờ đây khó
thể nào áp đặt các nước đang phát triển phải kềm hãm tăng trưởng của họ, để
giúp chống biến đổi khí hậu.
Ấn Độ biện minh cho quan điểm của mình và đòi được quyền
phát triển. New Delhi chỉ cam kết nhân lên gấp 20 lần mức sản xuất năng lượng
mặt trời, và dùng 40% năng lượng sạch để sản xuất điện lực từ đây cho tới năm
2030. Theo Le Monde, Ấn Độ trước hết bảo vệ quyền lợi riêng: “Ở một đất nước mà hàng trăm triệu hộ gia đình chưa có nhà
vệ sinh, không có đủ điện nước để sinh hoạt, thì việc chống biến đổi
khí hậu vẫn là một điều gì đó còn trừu tượng xa vời, một thứ xa xỉ phẩm mà
người nghèo chưa dám nghĩ tới”.
Hiện tại, Ấn Độ vẫn còn xử dụng than đá và dầu là nguồn điện
năng chính cho quốc gia nầy, chiếm 71%. Làm sao quốc gia nầy thực hiện được lời
hứa là cho đến năm 2022, sẽ tăng nguồn năng lượng mặt trời lên 100GW, trong lúc
hiện tại, Ấn Độ chỉ sản xuất được 5GW cho nguồn năng lượng nầy mà thôi!
Vì vậy,
…Nếu các lãnh đạo quốc gia đã phát triển không mở đường,
chính dân chúng sẽ tự vạch đường đi.
d- Và Hướng đi nào phải đi cho tương lai?
Các nước phát triển nên có bao nhiêu trách nhiệm?
Các nhà lãnh đạo thế giới đã đồng ý từ những nỗ lực chống
biến đổi khí hậu đã bắt đầu các nước phát triển có trách nhiệm lớn hơn để giải
quyết vấn đề biến đổi khí hậu so với các quốc gia đối tác trong việc trao đổi
dịch vụ của họ. Hoa Kỳ và Liên minh Âu Châu đã phát thải hơn một nửa
trong tổng số carbonic thải ra đến đầu thế kỷ này, cần phải đóng góp nhiều hơn
vào sự ấm lên toàn cầu so với các đối tác của họ là các nước đang phát triển; mặc dù hiện tại hai nhóm quốc gia nầy chỉ
còn phát thải 19% cho Hoa Kỳ, và 9% cho LH Âu Châu.
Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là các nước phát triển cần phải
làm nhiều hơn là các quốc gia đang tác phát triển. Đây là một đều không cần tranh cãi nữa!
Vì vậy họ phải giúp các nước đang phát triển
trong việc ngăn chặn khí thải carbonic.
3- Làm thế nào thực hiện được các thỏa thuận đấy tham vọng
trên?
Các nước phát triển, trong đó có Mỹ và các thành viên của
Liên minh Âu Châu đã hợp tác với 160 quốc gia dễ bị tổn thương nhứt bởi biến
đổi khí hậu để tạo thành một liên minh tham vọng cao để
kêu gọi và thực hiện một mục tiêu đầy tham vọng để ngăn chặn
khí nhà kính phát thải. Trong nhiều năm qua, hoạch định chính sách đã nói rằng
hội nghị nên nhằm mục đích để giữ cho nhiệt độ tăng hơn 20C (3,60F)
vào năm 2100, điểm tới hạn (threshold limit) mà các nhà khoa học đã xác định
được. Nhưng các nhóm tham vọng cao hơn đang kêu gọi các thỏa thuận để thực hiện
các mục tiêu 1,50C (2,70F).
Nhưng điều đáng chú ý là sự vắng mặt của hai nhóm tham vọng
cao là Ấn Độ và Trung Cộng, hai nước đang phát triển lớn nhất và có ảnh hưởng
nhất hiện tại. Cả hai nước đã bày tỏ lo ngại rằng một mục tiêu quá tham
vọng cuối cùng sẽ có nghĩa là giảm phát thải mà sẽ làm giảm đi sự tăng trưởng
kinh tế.
Các liên minh tham vọng (high-ambition coalition) cao cũng
đã kêu gọi các nước để đánh giá và báo cáo về những nỗ lực của họ để chống lại
biến đổi khí hậu mỗi năm năm. Chính
thời gian đánh giá này sẽ giúp cho các nước có cơ may tăng cường thêm những nỗ
lực để ngăn chặn khí thải nhà kính dựa vào sự phát triển công nghệ cao hay sự
giúp đổ kinh phí của các quốc gia giàu.
4- Và Ai sẽ phải trả tiền (và trả bao nhiêu) để chống biến đổi
khí hậu ở các nước đang phát triển?
Tài trợ cho các nỗ lực để giảm thiểu và thích ứng với biến
đổi khí hậu là một vấn đề quan trọng đã được nêu ra từ lâu, trước khi hội nghị
COP21 bắt đầu. Từ năm 2009, các quốc gia phát triển đã cam kết là đóng góp 100
tỷ Mỹ kim mỗi năm cho các nước đang phát triển nhằm chống lại sự biến đổi khí
hậu. Các nước phát triển đã không rút lại cam kết, nhưng họ cũng đã không hoàn
toàn hoạch định ra các chi tiết về món tiền trên sẽ đến từ đâu, và mức độ chịu
trách nhiệm của mỗi thành viện là bao nhiêu. Chính vì vậy mà vấn đề vẫn còn dận
châm tại chỗ.
Theo một báo cáo của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
(OECD) nhận thấy rằng 62 tỷ Mỹ kim đã được chuyển từ các nước đã phát triển đến
các giốc gia đang phát triển trong năm 2014, tăng trên 10 tỷ so với năm 2013.
Về thỏa thuận COP21, Đại sứ New Zealand, Jo Tyndall không
hài lòng và nói rằng nó thiếu vắng "công lý khí hậu".
5- Thay lời kết
Một thí dụ dí dỡm trong việc so sánh mức giàu-nghèo của các
nhóm quốc gia ở Bắc và Nam bán cầu như sau: "người giàu muốn đóng tiền bảo
hiểm nhà cửa, trong khi người nghèo bữa ăn chưa no, tiền đâu mà tính đến chuyện
mua nhà.
Vì thế cho nên, để đạt được mục tiêu, hội nghị COP21
phải giải quyết đầu tiên hết một vấn đề trọng đại và thực tế là: các nước giàu
chịu chi ra bao nhiêu tiền và trong bao lâu, để khuyến khích, giúp đỡ thực sự
các nước nghèo (hay các quốc gia đang phát triển) trong nỗ lực chống biến đổi
khí hậu?"
Hơn 2.100 học giả
trong nhiều lãnh vực khác nhau đến từ hơn 80 quốc gia đã nêu lên tuyên bố
"một phát biểu đạo đức và chính trị" (moral and
political statement) để các nhà lãnh đạo toàn cầu suy gẫm. Cần phải kể đến vài
trong số những người ký tên là những học giả nổi tiếng và được nhiều người biết
đến bao gồm triết học và ngôn ngữ học Noam Chomsky (MIT); nhà khoa học
nhận thức Stephan Lewandowsky (Đại học Bristol); nhà khoa học khí hậu Michael
E Mann (PSU); nhà văn và nhà môi trường Bill McKibben (Middlebury
College); nhà sử học và khoa học gia Naomi Oreskes (Harvard); và triết
học đạo đức Peter Singer (Princeton).
Do đó, chúng ta nhận thấy rằng, vấn
đề thay đổi khí hậu toàn cầu không phải là một vấn đề thuần túy môi trường là còn là
nhiều vấn đạo đức và đạo lý nữa.
5.1 Cần phải nghĩ đến thế giới thực sự mà
chúng ta đang sống ngày hôm nay.
Sự hâm nóng toàn cầu là một vấn đề đạo đức quan trọng nhất
của thời đại chúng ta, và là mối đe dọa lớn nhứt trong hiện tại mà con
người đã phải đối mặt. Vì vậy, việc ứng phó với biến đổi khí hậu từ các nhà
triết học nêu ra là điều không đáng ngạc nhiên.
Những nguyên nhân chính cho sự thay đổi khí hậu tương đối ít
so với số lượng lớn của những người sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhứt. Thật vậy, sự
thay đổi khí hậu sẽ, bằng cách này hay cách khác, tác động tất cả sự sống trên
Trái đất.
Nếu chúng ta không dứt khoát giải quyết các vấn đề hiện nay,
sự hâm nóng toàn cầu có thể leo thang trong một thời gian tương đối ngắn vượt
quá điểm hợp lý mà con người có thể dự kiến được để
đối phó, vì đây là bản chất của hiệu ứng phản hồi (nature of feedback effects).
5.2 Con người ở các nước đang phát triển
chịu trách nhiệm ít nhất đối với sự biến đổi khí hậu, nhất là khả năng thích
ứng với nó, và dễ bị tổn thương nhất đối với tác động của nó.
Vì vậy, đây mới là một thực tế được mong đợi ở các quốc gia
đang phát triển về ý nghĩa hạn chế sự phát thải khí nhà kính mà không bị ràng
buộc pháp lý về những cam kết từ các nước công nghiệp.
Và đây là một điều cần thiết thực tế và yêu cầu về đạo
đức cho các quốc gia giàu.
Sau đây là năm giải pháp cụ thể đúc kết suy nghĩ của 357 tổ chức NGO về việc giải quyết vấn
nạn hâm nóng toàn cầu:
· Thay
vì luôn luôn tập trung vào việc sản xuất năng lượng nhiều hơn, hãy tiết kiệm
năng lượng bằng cách cải tổ và nâng cao những thiết bị ra năng lượng hiện có
một cách hiệu quả hơn;
· Thúc
đẩy các nguồn năng lượng tái tạo;
· Đừng
đòi hỏi mọi người phải hy sinh cung cách sống của họ, mà cần cung cấp cho họ
các thiết bị tiết kiệm năng lượng;
· Thúc
đẩy quá trình chuyển đổi các nguồn năng lượng tái tạo;
· Tập
trung vào giáo dục quần chúng.
Phải chăng năm giải pháp đề nghị trên cần được mỗi người
trong chúng ta suy gẫm!
Mai Thanh Truyết
Houston 23/9/2019
No comments:
Post a Comment