Saturday, September 14, 2024

Trị liệu pháp logo: Sáng tạo một nền văn hóa có mục đích Logotherapy: creating a culture of purpose Mọi thứ đều có thể bị lấy đi khỏi một người đàn ông ngoại trừ một thứ: quyền tự do cuối cùng của con người, quyền lựa chọn thái độ của mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào” – Viktor Frankl Everything can be taken from a man but one thing: the last of the human freedoms to choose one’s attitude in any given set of circumstances” – Viktor Frankl Logotherapy dịch sang tiếng Việt là "Trị liệu pháp ý nghĩa" hoặc "Trị liệu pháp tìm kiếm ý nghĩa". Đây là một phương pháp trị liệu tâm lý được Viktor Frankl phát triển, tập trung vào việc giúp cá nhân tìm kiếm và xác định ý nghĩa trong cuộc sống của họ, đặc biệt khi họ đối mặt với đau khổ, khủng hoảng, hoặc thử thách. "Logotherapy" xuất phát từ từ Hy Lạp "logos," có nghĩa là "ý nghĩa" hoặc "mục đích," và "therapy," có nghĩa là "trị liệu" hoặc "chữa trị." Do đó, "Liệu pháp ý nghĩa" phản ánh mục tiêu chính của phương pháp này là giúp con người khám phá và kết nối với những yếu tố ý nghĩa và giá trị trong cuộc sống của họ. Trị liệu pháp Logotherapy của Viktor Frankl dựa trên tiền đề rằng con người được thúc đẩy bởi “ý chí hướng đến ý nghĩa”, một sức hút bên trong để tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống. Theo Frankl: “Chúng ta có thể khám phá ý nghĩa này trong cuộc sống theo ba cách khác nhau: • Bằng cách tạo ra một tác phẩm hoặc làm một việc gì đó; • Bằng cách trải nghiệm điều gì đó hoặc gặp gỡ ai đó; • Và bằng thái độ chúng ta dành cho nỗi đau khổ không thể tránh khỏi (unavoidable suffering). Do đó, liệu pháp Logotherapy “ý chí hướng đến ý nghĩa – the will to meaning” rất phù hợp và có ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi chúng ta. 1- Logotherapy là gì? Logotherapy là một phương pháp trị liệu tâm lý được phát triển bởi Viktor Frankl, một bác sĩ tâm lý học và nhà thần học người Áo. Logotherapy dựa trên giả thuyết rằng nhu cầu căn bản nhất của con người là tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống của họ. Theo Frankl, cảm giác thiếu ý nghĩa có thể dẫn đến cảm giác trầm cảm, lo âu và khủng hoảng tinh thần. Do đó, mục tiêu của logotherapy là giúp người bệnh tìm ra ý nghĩa và mục đích cá nhân của họ, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Logotherapy có ba nguyên tắc chính: 1. Tìm kiếm ý nghĩa: Theo Viktor Frankl, mỗi người có nhu cầu tìm kiếm một mục đích và ý nghĩa trong cuộc sống của mình. Việc này không chỉ giúp con người cảm thấy cuộc sống có giá trị mà còn cung cấp động lực trong những thời điểm khó khăn. Mỗi người có thể tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống của mình qua các trải nghiệm, mục tiêu và giá trị cá nhân. 2. Tự do và trách nhiệm: Con người có quyền tự do và trách nhiệm trong việc lựa chọn cách họ phản ứng với hoàn cảnh và tìm kiếm ý nghĩa trong đó. Sự tự do này cho phép họ định hình cuộc sống của mình theo cách phù hợp với giá trị và mục tiêu cá nhân. 3. Khả năng vượt qua đau khổ: Ngay cả khi đối mặt với đau khổ, người ta vẫn có thể tìm thấy ý nghĩa trong những trải nghiệm đó. Việc chấp nhận và hiểu rằng đau khổ có thể là một phần của cuộc sống có thể giúp tăng cường sự chịu đựng và phát triển cá nhân. Logotherapy đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, từ trị liệu tâm lý đến tư vấn nghề nghiệp và phát triển cá nhân. 2- Cách tiếp cận Logotherapy • Bước 1: Suy ngẫm về lý do cốt lõi khi bước vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Bằng cách xem lại động lực ban đầu (ví dụ: mong muốn giúp đỡ người khác, tạo ra sự khác biệt hoặc mang lại sự an ủi), cá nhân có thể kết nối lại với các khía cạnh có ý nghĩa của vai trò của mình. • Bước 2: Xác định những khoảnh khắc có ý nghĩa trong các nhiệm vụ hàng ngày. Ví dụ, nhận ra rằng hành động của họ đóng góp vào sự hồi phục của bệnh nhân hoặc mang lại sự thoải mái trong những thời điểm khó khăn có thể giúp thay đổi công việc của họ thành một nỗ lực ý nghĩa hơn là chỉ là một nguồn căng thẳng. • Bước 3: Khám phá những con đường mới để hoàn thiện bản thân. Điều này có thể bao gồm đặt ra những mục tiêu nghề nghiệp mới, chẳng hạn như nâng cao kiến thức trong một lĩnh vực y tế cụ thể hoặc tình nguyện cho các sáng kiến sức khỏe cộng đồng, củng cố cảm giác về mục đích và phương hướng. 3- Trong đời sống logotherapy giúp con người vượt qua những bất ổn tâm lý như thế nào? Cách áp dụng liệu pháp logotherapy vào cuộc sống hàng ngày 1. Tạo ra thứ gì đó. 2. Xây dựng các mối quan hệ. 3. Tìm mục đích trong nỗi đau. 4. Hiểu và chấp nhận rằng cuộc sống là bất công. 5. Nắm bắt sự tự do để tìm kiếm ý nghĩa. 6. Tập trung vào người khác. 7. Chấp nhận điều tồi tệ nhất. Logotherapy tập trung vào việc tìm kiếm và khôi phục ý nghĩa trong cuộc sống, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn hoặc khủng hoảng. Từ việc truy tìm ý nghĩa căn bản của cuộc sống, từ đó suy nghiệm ra cung cách thực hành logotherapy. Logotherapy còn có thể giúp con người vượt qua các bất ổn tâm lý bằng cách tập trung vào việc tìm kiếm và khôi phục ý nghĩa trong cuộc sống. Trong đời sống, luôn có khoảng trống hiện sinh. Đây chính là trạng thái trống rỗng bên trong và thiếu mục đích, thường biểu hiện qua sự buồn chán, thờ ơ hoặc cảm giác vô nghĩa. Khi con người không thể tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống, họ có thể trải qua "rối loạn tâm lý - mental disorder," đặc trưng bởi cảm giác vô nghĩa, dẫn đến các vấn đề tâm lý như trầm cảm, nghiện ngập hoặc lo âu. Với trọng tâm là tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống, Logotherapy có thể hỗ trợ trong quá trình điều trị trầm cảm, nhưng không nên xem nó như là một phương pháp duy nhất hoặc thay thế cho các phương pháp điều trị khác. Đặc biệt trong trường hợp trầm cảm nghiêm trọng, việc tìm kiếm sự giúp đỡ từ chuyên gia tâm lý học hoặc bác sĩ là cực kỳ quan trọng. Dưới đây là cách bạn có thể áp dụng logotherapy như một phần trong quá trình điều trị trầm cảm:cũng như việc hỗ trợ trong việc giải quyết và vượt qua các bất ổn tâm lý: Trong trường hợp trầm cảm nặng hoặc kéo dài, logotherapy nên được xử dụng như một phần trong kế hoạch điều trị tổng thể, bao gồm tư vấn từ các chuyên gia tâm lý học, bác sĩ tâm thần, hoặc các phương pháp điều trị khác như thuốc hoặc liệu pháp tâm lý khác. Trầm cảm là một tình trạng sức khỏe nghiêm trọng và cần được điều trị toàn diện và chuyên nghiệp. 3- Trị liệu pháp logotherapy có gì gây tranh cãi? Ngày nay, liệu pháp logotherapy được Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ và Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ công nhận là một trong những trường phái trị liệu tâm lý có cơ sở khoa học. Rollo May, một nhà phê bình trị liệu pháp logotherapy, tin rằng phương pháp nầy mang tính độc đoán và không cho phép cá nhân khám phá ý nghĩa. Những người khác chỉ trích tính tôn giáo của liệu pháp logotherapy, cho rằng nó chịu ảnh hưởng của tôn giáo Do Thái của Frankl. Các nguyên tắc cốt lõi của trị liệu pháp logotherapy như sau:”Mỗi người là một con người độc nhất và không thể thay thế, sự tồn tại của họ là điều đặc trưng bởi sự tự do lựa chọn, trách nhiệm cá nhân và tinh thần nhân văn.” Yếu tố chính là, mỗi người đều có quan điểm riêng, bạn có quan điểm của bạn, họ có quan điểm của họ. Và nếu chúng ta phân tích cả hai quan điểm này, thì mỗi quan điểm đều có vẻ hợp lệ và hợp lý như nhau. Do đó, mục tiêu là không để cuộc chiến trở thành cuộc chiến về quan điểm. Trên thực tế, mục tiêu của chúng ta là tham gia vào một cuộc thảo luận và hiểu được người kia cảm thấy bạn đã làm họ thất vọng ở đâu và tự kiểm tra xem bạn có thể hoàn thành những gì họ mong đợi ở bạn trong một tình huống nhất định hay không. Người ta có thể nói rằng mỗi khoảnh khắc quyết định quỹ đạo cuộc sống của chúng ta, nhưng trị liệu pháp Logotherapy sẽ nói rằng, cách chúng ta phản ứng với từng khoảnh khắc trong cuộc sống sẽ quyết định cách nó diễn ra. Thật khó để sống với nhận thức này vì thông thường, chúng ta đang ở chế độ “lái tự động” và chúng ta cần ở chế độ đó để thích nghi với cuộc sống. Trị liệu pháp logotherapy nhấn mạnh rằng có một thứ gì đó vượt ra ngoài con người, đó là sự sống. Nếu con người chọn cách vượt qua và thừa nhận sự hiện diện của một thứ gì đó vượt ra ngoài họ, con người sẽ có một cuộc sống có ý nghĩa. 4- Kết luận Cuộc sống vốn đã bất toàn. Đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống không phải là một chuyện làm dễ dàng, nhứt là trong những lúc tâm trạng bất an, rối bời vì chính cuộc sống mang lại.Làm sao mà hiểu được cái Đẹp trong sự bất toàn trong tinh thần Wabi-sabi của Nhựt? Người viết chỉ nhìn thấy được “cái đẹp” nầy trong vòng 10 năm trở lại đây thôi, nghĩa là tâm thức đã “mù lòa” trong suốt một chặng đường dài trong cuộc sống. Người viết trong một mãn thời gian thật dài ước chừng khoảng trên dưới 60 năm, đã từng “cứng ngắt” với quan điểm về người “đàn ông” của chính mình, đã từng “cứng rắn” huấn luyện con khi còn rất nhỏ:”Là con trai, không bao giờ để lộ tình cảm của mình trước người khác, không cho ai thấy giọt nước mắt của mình cả, nhứt là trước một người con gái”. Với tinh thần đó, cuộc sống đã quá … khô cằn trong một thời gian … dài!. Người viết đã từng để lỡ một mái gia đình êm ấm hạnh phúc. Tất cả cũng chỉ vì cái ngã của bản thân. Đã từng từ chối bước xuống tàu trong cơn can qua của đất nước vì muốn đứng trên bàn chân của mình, không lệ thuộc vào người khác, cho dù quyết định trên đã đánh đổi trên 7 năm sống dưới chế độ csBV. Người viết đã từng “không chịu” quay đầu về núi, khuất phục VC theo lịnh của một người”! Người viết, với quan niệm không bao giờ “looking back” mà chỉ biết “go forward”, nhưng hôm nay, nhìn lại chính mình khi suy nghĩ về… ý nghĩa đích thực của cuộc sống? Không có gì mâu thuẫn cả, tất cả chỉ là một tiến trình chuyển hóa của con người theo thời gian mà thôi. Cái tôi, cái ngã, cái “đã từng chạy theo hào quang hào nhoáng” rồi cũng phải nhường chỗ cho bản năng tích thiện trong mỗi con người. Hôm nay, nhân chia xẻ về việc tìm hiểu và “truy tìm” ý nghĩa của cuộc sống đích thực, đây cũng là lần đầu tiên, với tuổi trên 80, người viết một lần… nhìn lại bản thân. Tóm lại, nhìn lại bản thân, tức là đã áp dụng những lới khuyên qua logotherapy dưới đây: 1. Tìm hiểu về ý nghĩa cá nhân; 2. Chấp nhận sự đau khổ; 3. Tập trung vào sự tự do lựa chọn; 4. Tạo giá trị qua hành động và quan hệ; 5. Khám phá các tài liệu của Viktor Frankl. Đọc các tác phẩm của Viktor Frankl, đặc biệt là cuốn "Man's Search for Meaning" (Tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời), có thể giúp bạn hiểu sâu hơn về logotherapy và cách áp dụng nó trong cuộc sống hàng ngày. Điểm mạnh của Logotherapy nằm ở việc tập trung vào ý nghĩa, điều này giúp cá nhân nhìn xa hơn những khó khăn hiện tại và chấp nhận giá trị nội tại của sự tồn tại của họ. Bằng cách tìm kiếm mục đích trong cuộc sống, con người có thể vượt qua đau khổ, nuôi dưỡng sức mạnh bên trong và đạt được sự bình an trong tâm hồn. Dù là qua công việc, các mối quan hệ hay vượt qua nghịch cảnh cá nhân, logotherapy cung cấp một lộ trình để điều hướng những thách thức của cuộc sống bằng cách làm nổi bật sức mạnh biến đổi của ý nghĩa. Theo lời của Nietzsche, “Người có lý do để sống có thể chịu đựng hầu như bất kỳ hoàn cảnh nào” - “He who has a why to live for can bear almost any how”. Trong Man’s Search for Meaning, Viktor Frankl kể lại những trải nghiệm của mình trong các trại tập trung khác nhau của Đức Quốc xã để giải thích về khám phá của ông về liệu pháp logotherapy. Những lời của Nietzsche cho thấy giọng điệu mà Frankl xử dụng khi giải thích khái niệm trị liệu pháp logotherapy vì nó tóm tắt các trụ cột mà phương pháp nầy dựa trên trong một câu. Frankl định nghĩa trị liệu pháp logotherapy là một khái niệm tâm lý nhằm mục đích trao cho bệnh nhân khả năng nhìn thấy ý nghĩa trong cuộc sống của họ thay vì áp đặt một câu trả lời chắc chắn cho cuộc tìm kiếm của bệnh nhân trong cuộc sống. (Frankl defines logotherapy as a psychological concept that aims to confer the patient the ability to see meaning in their lives rather than imposing a definitive answer to the patient’s quest in life.) Hy vọng những lời góp nhặt cát đá trên sẽ giúp bạn tiếp cận logotherapy một cách hiệu quả và tìm thấy sự bình yên cũng như ý nghĩa trong cuộc sống của chính mình. Mai Thanh Truyết A sudden awakening Houston, 14/9/2024

Sunday, September 8, 2024

Hóa chất trong Thực phẩm và Trái cây Việt Nam BTV Đỗ Hiếu phỏng vấn Mai Thanh Truyết trên Radio Á Châu Tự do – RFA Đỗ Hiếu: Trong các chương trình phát thanh trước, chúng tôi có đề cập đến một số hóa chất được thêm vào thực phẩm ở Việt Nam với mục đích không chính đáng để trục lợi và không cần để ý đến ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu thụ. Hôm nay Tiến sĩ Mai Thanh Truyết (Ts MTT) sẽ tiếp tục đưa ra những nhận định về vấn đề này trong cuộc trao đổi với chúng tôi. Ông Peter Navarro, cố vấn thương mại cho cựu Tổng Thống Donald J. Trump, người góp phần đưa ra kế hoạch lật ngược kết quả cuộc bầu cử năm 2020, bị kết án bốn tháng tù hôm Thứ Năm, 25 Tháng Giêng, vì bất chấp trát đòi từ Uỷ Ban 6 Tháng Giêng của Hạ Viện, theo nhật báo The New York Times. Cựu Cố Vấn Navarro, 74 tuổi, bị kết tội hồi Tháng Chín về hai tội khinh thường Quốc Hội. Chánh Án Amit P. Mehta bác lời bào chữa chính của ông Navarro rằng ông Trump đích thân chỉ đạo không hợp tác với trát đòi cũng như tin rằng mình được bảo vệ bởi đặc quyền hành pháp. Chánh Án Mehta tuyên bố: “Những từ ‘đặc quyền hành pháp’ không phải là những câu thần chú.” Vị quan tòa nhấn mạnh: “Không! Đó không phải là thẻ ra tù miễn phí.” Câu chuyện hóa chất và cuốn sách “Chết bởi Trung Cộng – Death by China” của TS Navarro biến thành một câu chuyện chính trị với cái giá 4 tháng tù cho Ông. Trước hết xin Ts MTT cho biết thêm về hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm như sodium benzoate? Mai Thanh Truyết: Thưa Anh, trong kỹ nghệ, sodium benzoate là một hóa chất dùng để bảo quản thực phẩm để khỏi bị hư và có tính chống mốc. Hóa chất này sẽ giúp thực phẩm không bị đổi màu, giữ mùi nguyên thủy, và sau cùng bảo quản các thành phần cấu tạo sản phẩm cũng như không làm biến dạng. Công thức hóa học của sodium benzoate là NaO-C6H5. Theo Cơ quan Quản lý Thực phẩm Hoa Kỳ - FDA, mức chấp nhận của hóa chất nầy trong thực phẩm là 0,1%. Và nồng độ có thể gây tử vong khi xâm nhập vào cơ thể là 2g/Kg/trọng lượng cơ thể. Hóa chất trên thường được dùng trong xì dầu, tương, chao và các loại nước chấm khác. Qua độc tính kể trên, chúng ta cần phải nói đến quá trình điều chế hóa chất trên. Theo quy trình sản xuất sodium benzoate, một phế phẩm độc hại là phenol luôn hiện diện trong thành phẩm. Do đó, sodium benzoate sau khi sản xuất cần phải khử phenol trước khi tung ra thị trường cho kỹ nghệ thực phẩm. Nếu không, nguy cơ bị nhiễm độc do phenol rất lớn, và hóa chất nầy ảnh hưởng đến hệ thần kinh, nhất là đối với trẻ em và thai nhi trong bụng mẹ khi bị tiếp nhiễm qua đường thực phẩm. Hiện tại hóa chất trên được nhập cảng từ TC và dĩ nhiên có chứa rất nhiều tạp chất như phenol. Vì vậy, cần phải xem xét xuất xứ của hóa chất trước khi đem áp dụng vào thực phẩm. Hỏi: Còn các hóa chất làm trắng trong thực phẩm có ảnh hưởng lên sức khỏe con người không thưa ông? Đáp: Anh muốn nói đến thuốc tẩy trắng chloride sodium hydrosufite. Hỏi: Đúng như vậy thưa Tiến sĩ. Đáp: Thưa Anh. Đây là một loại bột trắng, khi bị tiếp nhiễm qua đường khí quản, căn cứ theo Cơ quan Quyền lực Âu châu về An toàn Thực Phẩm (AESA), cơ thể con người sẽ cảm thấy bị khó thở và có thể bị nghẹt thở. Đôi khi bị ho rũ rượi. Sự hiện diện của nguyên tố chlor cũng là nguyên nhân của nguy cơ ung thư nếu bị tiếp nhiễm lâu dài. Trong kỹ nghệ thực phẩm, hóa chất nầy được dùng để làm trắng các sản phẩm để làm bắt mắt người tiêu dùng. Các sản phẩm được nhà sản xuất áp dụng tính chất nầy là: bánh tráng, các loại bột dưới dạng sợi như bánh canh, bánh hỏi, bún, miếng v.v… Một thí dụ điển hình là trước kia, bánh tráng sản xuất từ Việt Nam có màu ngà, và hay bị bể vì dòn. Trong thời gian sau nay, bánh tráng trở nên trắng phau, được cán mỏng, và đặc biệt rất dai, nhúng nước và cuốn không bị bể ra. Đó là do công lao của borax và chlorite sodium hydrosulfite. Hỏi: Còn các phẩm màu dự phần như thế nào trong thực phẩm thưa TS? Đáp: Trong thực phẩm, màu giữ một địa vị rất quan trọng. Nó làm cho sản phẩm bắt mắt hơn, gây chú ý cho người mua và gây ảnh hưởng tốt về phẩm chất của món hàng. Có hai loại màu: màu tổng hợp và màu thiên nhiên. Màu thiên nhiên được trích từ các mô của cây cỏ. Việc xử dụng loại màu nầy nảy sinh ra nhiều vấn đề như: màu không cố định có thể thay đổi hay biến dạng theo thời gian, nhiệt độ, ánh sáng, và nhất là có thể làm biến dạng phẩm chất của thực phẩm được nhuộm màu. Còn màu tổng hợp thường tan trong nước và ổn định hơn. Trên thị trường, màu tổng hợp có dưới dạng hạt, bột, dung dịch, hay dạng dẻo. Màu tổng hợp tác dụng với hydroxid nhôm Al(OH)3 để cho ra dung dịch gọi là hồ (lakes) sẵn sàng để nhuộm màu trong thực phẩm. Lợi điểm của màu tổng hợp là màu rất bền không bị tác dụng do thời gian, nhiệt độ hay ánh sáng. Các nhà sản xuất thực phẩm rất thích dùng loại màu tổng hợp nay. Chúng tôi xin đan cử ra hai màu căn bản là màu tartrazine có màu vàng và màu carmine màu đỏ ngã qua cam. Đứng về phương diện độc hại, màu rất nhạy cảm cho da, có thể làm nứt da, tạo ra những vảy nến, hay làm dị ứng cũng như nghẹt mũi căn cứ theo báo cáo của Ủy ban Khoa học Thực phẩm cho con người của EU (CSAH). Hỏi: Còn việc các hóa chất bảo vệ thực vật ảnh hưởng lên thực phẩm như thế nào thưa TS? Đáp: Đây là một vấn nạn lớn cho dân tộc, vì nó ảnh hưởng dài hạn lên nhiều thế hệ trong tương lai. Theo báo chí Việt Nam, các vụ ngộ độc chiếm đến 25% trên tổng số những trường hợp bị trúng thực. Điều nầy nói lên tính cách quan trọng của vấn đề. Xin hãy nghe tiếng nói của tác giả Liêu Tử ở Việt Nam: “Các bạn phải luôn đề cao cảnh giác, và nhớ luật nầy: các thứ rau, củ, quả, ngó thấy ngon chớ mà ham. Trái khổ qua, ngó như trái bị đèo thì hãy mua. Củ cải trắng, củ cà rốt cũng vậy. Người trồng trọt xứ mình chỉ ham trồng được rau củ quả to bự, cân có ký, bán có giá, mặc sức hóa chất tống vào trong đó”. Xin thưa, hóa chất tống vào đó chính là hóa chất bảo vệ thực vật tức là hóa chất diệt cỏ, trừ sâu rầy, trừ nấm mốc v.v… Các hoá chất diệt trừ cỏ dại nếu dùng liều lượng thích hợp sẽ biến thành các hóa chất “kích thích tố tăng trưởng”. Đó chính là lý do tại sau rau đậu, quả dưa, trái cà, thậm chí đếm cọng giá, cọng rau muống cũng to lớn, xanh mướt rất bắt mắt. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn, Trưởng phòng thí nghiệm Môi trường thuộc Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng I đã cho biết như sau:”Kết quả nhiều đợt phân tích cho thấy tất cả các loại hoa quả TC và cam Việt Nam đều có chứa thuốc diệt cỏ 2,4-D và 2,4,5-T. Đây là hai hóa chất cấu thành “chất độc da cam”, một loại thuốc diệt cỏ dại mà quân đội Hoa Kỳ dùng trong chiến dịch Ranch Hand để phun xịt các rừng rậm, nơi có Việt Cộng ẩn nấp trong chiên tranh Việt Nam. Hiện tại, các loại hóa chất nầy đang được nông dân xử dụng để bảo quản hoa quả. Trung tâm Thông tin và Chuyển giao Hà Giang đã chuyển đến chúng tôi (TS NQT) hai gói bột in chữ TC với hình ảnh quả hồng tươi rói. Qua phân tích chúng tôi tìm thấy nhiều hợp chất trong đó có hóa chất 2,4-D có hàm lượng đến 70%. Riêng gói thuốc diệt cỏ có nhãn hiệu màu xanh đậm còn tìm thấy hóa chất 2,4,5-T”. Các gói hóa chất nầy được bày bàn tự do ngoài thị trường ở Hà Nội và Tp Sài Gòn dưới giá khoảng 2.000 Đồng Việt Nam một gói độ 2g. Liền ngay khi kết quả trên được công bố, ngày 13/5/2004, ông Hoàng Thủy Tiến, Phó Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực Phẩm đã tuyên bố: “Các hóa chất bảo vệ thực vật 2,4-D và 2,4,5-T trong táo, mơ, trứng, sữa và các loại quả mọng khác có hàm lượng không quá 0,05 mg/kg hoa quả. Như vậy, lượng hóa chất độc hại tồn dư trong hoa quả vẫn dưới ngưỡng cữa cho phép. Người tiêu dùng không nên quá lo lắng”. Chúng tôi miễn bình luận về lời tuyên bố nầy vì không biết “ngưỡng cửa cho phép” của Việt Nam là bao nhiêu? Hỏi: Tiến sĩ vừa phác họa một hình ảnh rất tiêu cực trong thị trường thực phẩm, như vậy, trong hiện tại có hình ảnh tích cực nào trong lãnh vực thực phẩm ở Việt Nam hay không, thưa Ông? Đáp: Dạ có thưa anh. Gần đây nhất, vào ngày 29/9 vừa qua, Tổ chức Trợ giúp Hoa Kỳ (USAID) và Tổ chức Trợ Giúp Úc (AusAID) đã ký một bản thỏa hiệp với Viện Nghiên cứu Cây Ăn Quả Miền Nam nhằm mục đích phối hợp phát triển ngành sản xuất cây ăn trái qua dự án Ứng dụng Nông nghiệp Tốt (Good Agricultural Practices – GAP). Trong dự án nầy các doanh nghiệp và nông dân sản xuất cây trái sẽ được học hỏi đúng tiêu chuẩn bảo đảm an toàn sản phẩm theo quy trình vệ sinh và an toàn cho con người và môi trường dựa theo tiêu chuẩn thế giới. Hy vọng đây là một bước đầu để Việt Nam đi vào nề nếp trong sản xuất thực phẩm nhất là các sản phẩm dành cho xuất khẩu. Hỏi: Để kết thúc câu chuyện hóa chất trong thực phẩm và trái cây, Tiến sĩ nhận xét như thế nào về tình trạng chung hiện tại và ý kiến cá nhân của ông về việc giải quyết vấn nạn nầy? Đáp: Thưa Anh, việc người dân trong nước hoài nghi hầu hết những loại thực phẩm bày bán ở thị trường. Nhưng dù hoài nghi hay cẩn thận đến đâu đi nữa thì cũng phải tiêu thụ thực phẩm nầy. Ngoại trừ một thiểu số có nhiều tiền để có thể mua thực phẩm “an toàn” nhập cảng từ bên ngoài, thâm chí uống nước lọc nhập cảng luôn. Còn tuyệt đại đa số bà con vẫn phải chấp nhận và tiêu thụ nguồn thực phẩm làm từ trong nước cũng như phải dùng nguồn nước cung cấp từ Tổng công ty Cấp nước. Vì vậy, tình trạng trên cần phải được chấm dứt. Nếu không, nhiều hệ lụy không nhỏ sẽ xảy ra và đã xảy ra trong trường hợp các thực phẩm xuất cảng như xì dầu, cá basa, và tôm. Cá basa đã bị trả về vì dung lượng hóa chất fluoro-quinolones tồn tại trong cá, và mới đây nhất, tiểu bang Georgia đã khám phá ra thêm chất kháng sinh enrofloxacin trong cá nữa. Xì dầu bị trả về vì sự hiện diện của 3-MCPD. Còn tôm và một số thủy sản khác bị trả về vì chất kháng sinh chloramphenicol trước kia, nay lại bị trả vì sự hiện diện của nitrofuran, vì 3-amino-2-oxazole, vì semicarbazide. Riêng trong trường hợp tôm, Việt Nam đã bị Ngân hàng Thế giới cảnh báo vì đã dùng rhotenone, một độc chất có trong cây thuốc cá để thay thế chloramphenicol vì hóa chất nầy không nằm trong danh mục kiểm soát của Cơ quan FDA HK. Các hành động trên chứng tỏ rằng, nếu Việt Nam tiếp tục đi theo con đường nầy sẽ khó hội nhập vào cuộc chơi toàn cầu, vì nơi đây đòi hỏi một sự xuyên suốt về các thông tin an toàn thực phẩm trong trao đổi quốc tế. Để kết luận về các vấn nạn qua sự hiện diện của hóa chất trong thực phẩm và trái cây, chúng tôi có suy nghĩ như sau: Trước hết, cần phải xem lại cung cách quản lý của VN đối với công nghệ sản xuất xì dầu. Việt Nam không lý nào lại không quan tâm trong việc kiểm soát môi trường. Và một khi môi trường đã bị lạm dụng, tình trạng xáo trộn xã hội chắc chắn sẽ xảy ra qua sự phản kháng của người dân. Sau cùng, sự bất ổn chính trị sẽ kéo theo cùng với những bất trắc của quốc gia mà lãnh đạo VN sẽ khó tiên liệu được. Đã đến lúc Việt Nam cần phải chấp nhận thực tế nầy. Số lượng nạn nhân bị bình ung thư hang năm tăng dần (năm 2022 có trên 200.000 nạn nhân) và số tử vong vượt qua con số 50.000 năm 2022. Mai Thanh Truyết Hiệu đính 9/2024 Ghi chú: Thơ vui về hóa chất trong thực phẩm

Thursday, September 5, 2024

Dân tộc bản địa, hay còn gọi là các dân tộc nguyên thủy, là các nhóm người sống tại các khu vực mà họ đã sinh sống từ rất lâu trước khi các quốc gia hiện đại hình thành. Họ thường có các đặc điểm văn hóa, xã hội và kinh tế riêng biệt, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, và mối quan hệ đặc biệt với lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên của mình. Theo Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền của Các Dân Tộc Bản Địa (UNDRIP), dân tộc bản địa được định nghĩa dựa trên các yếu tố sau: 1. Tính Kế Thừa Văn Hóa: Họ có nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và hệ thống giá trị riêng biệt, thường khác biệt so với các nhóm dân cư chủ yếu trong quốc gia mà họ đang sống. 2. Liên Kết Với Lãnh Thổ: Họ có mối liên hệ lâu dài với các vùng đất và tài nguyên mà họ đã sống và quản lý trong một khoảng thời gian dài. 3. Tự Nhận Thức Về Danh Tính: Họ tự nhận mình là dân tộc bản địa và bị nhận diện bởi các thành viên trong cộng đồng quốc gia và quốc tế với tư cách là các nhóm dân tộc bản địa. 4. Sự Tồn Tại Đặc Thù: Họ thường phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bị ảnh hưởng bởi các chính sách và hành động của các chính phủ hoặc nhóm dân cư chính thống, ảnh hưởng đến quyền lợi và sự tồn tại của họ. Các dân tộc bản địa thường yêu cầu được công nhận quyền tự quyết, quyền bảo vệ văn hóa, và quyền đối với tài nguyên thiên nhiên mà họ phụ thuộc vào để duy trì lối sống và truyền thống của mình. Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc về Quyền của Các Dân Tộc Bản Địa United Nations Declaration on the Rights of Indigenous Peoples - UNDRIP Được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 13 tháng 9 năm 2007, UNDRIP phác thảo các quyền cá nhân và tập thể của các dân tộc bản địa trên toàn thế giới. Nó nhấn mạnh: Quyền Tự Quyết: Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết và tự do xác định tình trạng chính trị của mình cũng như theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của họ. Quyền Văn Hóa: Họ có quyền thực hành và phục hồi các truyền thống và phong tục văn hóa của mình. Đất Đai và Tài Nguyên: Các dân tộc bản địa có quyền đối với các vùng đất, lãnh thổ và tài nguyên truyền thống của họ. Họ nên được tham vấn trước khi có bất kỳ quyết định nào có thể ảnh hưởng đến đất đai và tài nguyên của họ. Tham Gia: Họ có quyền tham gia vào các quá trình ra quyết định ảnh hưởng đến họ, bao gồm cả các dự án quản trị và phát triển. Bảo Vệ Chống Phân Biệt Đối Xử: Các dân tộc bản địa có quyền được tự do khỏi sự phân biệt đối xử, và quyền của họ phải được bảo vệ. Giáo Dục: Họ có quyền tiếp cận giáo dục bằng ngôn ngữ và trong bối cảnh văn hóa của chính họ. Tuyên ngôn không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng đại diện cho tiêu chuẩn toàn cầu về bảo vệ quyền của các dân tộc bản địa. Nó khuyến khích các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp phù hợp với các nguyên tắc của nó và tôn trọng quyền của các dân tộc bản địa. United Nations Declaration on the Rights of Indigenous Peoples (UNDRIP) Adopted by the UN General Assembly on September 13, 2007, UNDRIP outlines the individual and collective rights of indigenous peoples around the world. It emphasizes: 1. Self-Determination: Indigenous peoples have the right to self-determination and to freely determine their political status and pursue their economic, social, and cultural development. 2. Cultural Rights: They have the right to practice and revitalize their cultural traditions and customs. 3. Land and Resources: Indigenous peoples have rights to their traditional lands, territories, and resources. They should be consulted before any decisions that might affect their lands and resources. 4. Participation: They have the right to participate in decision-making processes that affect them, including governance and development projects. 5. Protection Against Discrimination: Indigenous peoples are entitled to be free from discrimination, and their rights must be protected. 6. Education: They have the right to access education in their own languages and cultural contexts. The Declaration is not legally binding but represents a global standard for the protection of indigenous rights. It encourages member states to adopt measures in line with its principles and to respect the rights of indigenous peoples.