Phần IV
- Bất tuân Dân sự và Xã hội Dân sự
Lời người viết: Trong buổi học tập nội bộ của một Nhóm chính trị mà người viết có dịp tham dự, bài học xã hội dân sự (xhds) đã được phân tích và áp dụng cho cuộc đấu tranh cho dân chủ Việt Nam trong những ngày tới. Xin được chia xẻ các phân tích và nhận định trong quyển sách: “Khu vực thứ ba: Các tổ chức cộng đồng, phi chính phủ và phi lợi nhuận” - “The Third Sector: Community Organizations, NGOs, and Nonprofits” của hai tác giả Meghan Kallman và Terry Clark, nhằm đẩy mạnh công cuộc khai triển và tăng trưởng phong trào “xã hội dân sự” qua qua các hành động bất tuân dân sự trong tình trạng Việt Nam hiện tại.
1- Về cuốn
sách Khu vự thứ ba…
Hai tác giả: - Meghan Elizabeth Kallman
là Giảng viên tại Trường Phát triển Xã hội và Hòa nhập Toàn cầu tại Đại học Massachusetts
Boston - School for Global Inclusion and Social Development at the University
of Massachusetts Boston. - Terry
Nichols Clark là Giáo sư xã hội học tại Đại học Chicago và là đồng tác
giả của cuốn sách Sự sụp đổ của chính trị giai cấp: Cuộc tranh luận về sự phân
tầng hậu công nghiệp.
Cuốn sách của Meghan Kallman
và Terry Clark gồm 259 trang, là một nỗ lực học thuật quý hiếm và có giá trị tổng
hợp sự phát triển của khu vực thứ ba ở sáu quốc gia điển hình, đồng thời làm
sáng tỏ mối quan hệ giữa nhà nước và khu vực thứ ba ở mỗi quốc gia.
Trước hết, ngay phần đầu, hai tác giả đưa ra quan điểm về “Quản trị dân chủ và tính hợp lý về thể chế trong Khu vực thứ ba” – “Democratic Governance and Institutional Logics within the Third Sector” gồm: Các Tổ chức Xã hội Dân sự - Civil Society Organizations), Tổ chức Phi lợi nhuận - Nonprofit Organizations), Tổ chức Phi chánh phủ - Nongovernmental Organizations), Tổ chức Phi Chánh phù Quốc tế - International nongovernmental Organizations, và nhiều hiệp hội chính thức và không chính thức đã hợp nhất thành một lực lượng chính trị thế giới. Mặc dù các thành phần của cái gọi là khu vực thứ ba này khác nhau tùy theo quốc gia, nhưng tác động tích lũy của chúng đóng vai trò ngày càng lớn hơn trong các vấn đề toàn cầu.
Nếu chúng ta quan sát các tổ
chức cứu trợ và phúc lợi, tổ chức đổi mới, mạng xã hội và nhiều loại nhóm khác,
Meghan Elizabeth Kallman và Terry Nichols Clark khám phá các chức năng, tác động
và thành phần của khu vực phi lợi nhuận ở sáu quốc gia chính. Ví dụ, các tổ chức
TC tuân theo mô hình tài trợ của chính phủ ở châu Á, liên kết sứ mệnh của họ với
các mục tiêu chính trị quốc gia. Ngược lại, các nhóm trên ở Tây phương thường
thách thức các mục tiêu của chính phủ một cách rõ ràng và thậm chí đạt được mức
độ tranh đấu trong tinh thần dân chủ phân lập.
Ngoài ra, Kallman và Clark kiểm
tra các nhóm trong bối cảnh thế giới thực, cung cấp nhiều kiến thức về lịch sử,
chính trị, xem xét sâu về các tương tác với các thể chế nhà nước, so sánh giữa
các vùng và gợi ý về cách các nhóm có thể vay mượn các lựa chọn chính sách trên
toàn thế giới trong các hệ thống quyền lực khác nhau. Khu vực thứ ba cung cấp một
cái nhìn quốc tế hiếm có về các tổ chức và chương trình nghị sự thúc đẩy sự
thay đổi trong các vấn đề quốc tế ngày nay.
Tạp chí Xã hội học Hoa Kỳ nhận
định về cuốn sách rằng:”Đóng góp hứa hẹn nhất của tập sách nằm ở tập hợp các
phân tích đặc biệt là chương về sự xuất hiện của xã hội dân sự ở TC. Bằng cách
chú ý đến các khu vực thứ ba đang phát triển trên khắp châu Á, cuốn sách có tiềm
năng tái tạo sức sống cho nghiên cứu xã hội học về so sánh phát triển xã hội
dân sự cũng như các tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ một cách rộng rãi
hơn
CSO (Tổ chức xã hội dân sự),
NPO (Tổ chức phi lợi nhuận), NGO (Tổ chức phi chính phủ), INGOS (Tổ chức phi
chính phủ quốc tế) và các hiệp hội chính thức và không chính thức là một phần của
một lĩnh vực quan trọng, tương đối mới hiện là lực lượng chính trị thế giới. Mặc
dù các thành phần của “khu vực thứ ba” này khác nhau tùy theo quốc gia, nhưng
tác động ròng của chúng ngày càng quan trọng trên toàn cầu. Khu vực thứ ba này đóng một vai
trò quan trọng trong việc tạo ra các giá trị trên toàn thế giới, thông qua hoạt
động cung cấp dịch vụ, vận động chính sách, các chương trình văn hóa và phong
trào xã hội. Lĩnh vực thứ ba bao gồm các loại tổ chức cứu trợ và phúc lợi, tổ
chức đổi mới, tổ chức dịch vụ công, tổ chức phát triển kinh tế, nhóm vận động
cơ sở, nhóm vận động,...
2- Xã hội
dân sự, vốn xã hội và sự phát triển của khu vực thứ ba
Văn học hàn lâm ở
Bắc Mỹ và Tây Âu thường đánh đồng khu vực thứ ba và chủ nghĩa hiệp hội với khái
niệm xã hội dân sự. Khái niệm nầy hữu ích cho mục đích suy nghĩ về
sự tham gia của công dân và hơn nữa, bởi vì xã hội dân sự đã cho thấy bản thân
nó gắn bó sâu sắc với sự phát triển chính thức của khu vực thứ ba trên toàn thế
giới. Do đó, phần này bắt đầu với một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về xã hội dân
sự và vốn xã hội, sau đó chỉ ra cách nó giúp hiểu được hoạt động của logic thể
chế từ phần giới thiệu.
Theo định nghĩa của Walzer,
xã hội dân sự là “một lĩnh vực mà các công dân và tổ chức không bị hạn chế...
3- Khu vực
thứ ba ở Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, với lịch sử là
chính quyền trung ương yếu kém, khu vực thứ ba được coi là đóng vai trò thiết yếu
trong việc cung cấp dịch vụ, cũng như trong việc tổ chức và tạo ra sự đa dạng
chính trị và tạo ra vốn xã hội. Nói chung, việc hiểu các cá nhân là “các chủ thể xã hội hợp pháp và hợp
lý, với các lợi ích có vị thế tập thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra
rất nhiều tổ chức chính thức” (Jepperson và Meyer). Tổ chức
chính trị và v iệc điều hành quốc gia của chính quyền Mỹ đã cung cấp một mảnh đất
màu mỡ cho các hiệp hội dân sự kể từ khi thành lập đất nước. Vì điều này, ba
logic bất di bất dịch về thể chế như hành pháp, lập pháp và tư pháp có thể nhìn
thấy rộng rãi trong khu vực thứ ba của Hoa Kỳ.
4- Khu vực
thứ ba ở Pháp
Khu vực thứ ba của Pháp được thành hình trong những hoàn cảnh đặc biệt của đất nước nầy. Nó không được tạo ra như một hệ quả tổng hợp của các nhóm tư nhân cố gắng giải quyết các vấn đề xã hội, như ở Hoa Kỳ, cũng không phải là một hệ thống các tổ chức “đã được/bị quản lý” của bên thứ ba, như ở nhiều nơi ở châu Á. Thay vào đó, khu vực phi lợi nhuận ở Pháp (thường được gọi là “nền kinh tế xã hội” – “social economy”) được hình thành như một hệ quả của cuộc đấu tranh ý thức hệ - giữa Giáo hội Công giáo và chủ nghĩa cộng hòa về quyền của cá nhân. Cho đến năm 1901, các cá nhân có rất ít cơ hội hợp pháp để thậm chí liên kết thành nhóm; các hiệp hội chỉ được phép theo các điều kiện cụ thể do chính phủ quy định. Hiện tại, khu vực thứ ba đã được “nới rộng ra” đôi chút, nhưng vẫn còn nằm trong sự …theo dõi của chn1h quyền.
5- Khu vực
thứ ba ở Nhật Bản
Nhật Bản chia xẻ với Pháp một truyền thống văn hóa lâu đời chống lại các tổ chức tách biệt với nhà nước. Tuy nhiên, không giống như Pháp, Nhật Bản chưa bao giờ có một cuộc cách mạng với lực đẩy bình đẳng. Thay vào đó, “cuộc cách mạng” Minh Trị vào cuối thế kỷ 19 là một minh họa mạnh mẽ về việc giới tinh hoa Nhật Bản tạo ra các thể chế mới thích ứng với thời kỳ hiện đại. Hoàng đế và nhà nước là nguồn gốc của tính hợp pháp truyền thống của Nhật Bản, được tiếp tục bởi các nhà quản lý nhạy cảm trong thế kỷ 21. Lịch sử chính trị này đã đánh dấu sự phát triển của khu vực thứ ba của Nhật Bản sao cho tính hợp lý về thể chế nổi bật có thể nhìn thấy là logic của bộ máy quan liêu, cộng thêm tư cách quản lý bảo thủ của nhà nước làm cho khu vực thứ ba của Nhật bị gò bó cho dù ý thức dân chủ của người Nhật rất cao.
6- Khu vực
thứ ba ở Hàn Quốc
Trong 40 năm qua, Hàn Quốc
không chỉ trải qua một cuộc chuyển đổi dân chủ quy mô lớn mà còn là một cuộc
chuyển dịch kinh tế quy mô lớn không kém. Mặc dù từng được coi là một chế độ phục
tùng, đặc biệt là dưới chế độ quân sự của những năm 1970, xã hội Hàn Quốc hiện nay được đặc
trưng bởi sự tham gia tích cực của công dân và sự gia tăng của các loại hình tổ
chức cộng đồng và hiệp hội mới. Là một phần và là hệ quả của những
thay đổi chính trị nhanh chóng và sâu rộng này, bản chất và thành phần của khu
vực thứ ba của đất nước cũng đã được chuyển đổi. Các nhà hoạt động và những người
bất đồng chính kiến đã tham gia vào quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ hiện
đang đứng trong hàng ngũ tổ chức phi lợi nhuận của đất nước đang phát triển rộng
rãi.
7- Khu vực
thứ ba ở Đài Loan
Giống như Nhật Bản và TC, Đài
Loan cũng trở thành nạn nhân của lập luận học thuật rằng xã hội dân sự bằng
cách nào đó không tương thích với các đặc điểm phi dân chủ của châu Á, bao gồm
cả Nho giáo. Chương này trong sách, cùng với việc làm của những người khác nhằm
mục đích chứng minh rằng xã hội dân sự không chỉ hiện diện trên khắp Đài Loan
mà còn có sự phát triển mạnh mẽ trong suốt ba mươi năm qua. Theo xu hướng toàn cầu, xã hội
dân sự của Đài Loan đang chuyên nghiệp hóa, mặc dù vai trò tương đối gần đây của
xã hội này trong quá trình chuyển đổi sang dân chủ cũng là trao quyền cho xã hội
này để vận động thay mặt cho những người không được đại diện và không được phục
vụ, kết hợp hợp lý về một thể chế của chủ nghĩa tích cực với một trong
vài trò của một công dân.
8- Khu vực
thứ ba ở Trung Cộng
Truyền thống thống kê lâu đời
và mạnh mẽ của TC thoạt đầu có thể cho thấy sự thù địch với khu vực thứ ba, đặc
biệt là khu vực thứ ba thuộc loại Phi tập trung ( Decentralized variety) đang
chiếm ưu thế ở Bắc Mỹ. Tất nhiên, chúng sẽ trông khác với các khu vực thứ ba ở
Hoa Kỳ, với lịch sử lâu đời của một nhà nước trung ương yếu kém và một khu vực
liên kết mạnh mẽ. Trong trường hợp của TC, một số người đã lập luận rằng sự
phát triển của khu vực thứ ba được liên kết chặt chẽ với hoạt động của nhiều xã
hội dân sự tập hợp lại.
9- Hướng
tới tương lai: Hiểu về các mối liên hệ và các khuôn mẫu tin cậy
Qua các tóm tắt về các khu vực
điển hình trên, chúng ta thấy rất rõ là ở mỗi quốc qua tùy theo điều kiện văn
hóa, tập tục …đời sống và điều kiện sống của người dân thay đổi tùy theo từng
quốc gia một. Tuy nhiên, trước tiến trình toàn cầu hóa hiện tại,biên giới quốc
gia bị thu hẹp qua cuộc cách mạng điện tóan, mọi chuyển biến và ảnh hưởng về xã
hội dân sự đã được phổ cập khắp nơi, vì vậy, một xã hội dân sự “hợp lý” đã được
mô phỏng và phổ biến đến với các xã hội loài người trên toàn cầu. Những nơi như
quán trà ở TC, Đấu trường La Mã ở Ý và Agora ở Hy Lạp là những minh họa còn sót
lại về cách mọi người trong suốt lịch sử đã tụ tập, nói chuyện, chia xẻ và cùng
nhau giải quyết những khác biệt của họ mà không cần qua sự trung gian của nhà cầm
quyền.
10- Liên
quan giữa Xã hội dân sự và Bất tuân dân sự
Qua các nhận định trên, từ những
kinh nghiệm về khu vực thứ ba của các quốc gia kể trên, từ đó, sẽ có nhiều lựa
chọn cho các nhà hoạch định chính sách, chỉ ra một số ý tưởng hay và bao gồm
các liên kết đến thông tin đặc thù của từng quốc gia. Các nền tảng văn hóa,
kinh tế và chính trị khác nhau của mỗi nước đã tạo ra các khu vực thứ ba rất
khác nhau ở các quốc gia khác nhau, đặc biệt là sự khác biệt về mức độ tham gia
hay xâm nhập của nhà nước với các tổ chức phi lợi nhuận. Chúng ta thấy rõ ràng
rằng, muốn có một nền dân chủ thực sự cho quốc gia, điều tiên quyết là cần phải
có các XHDC dân chủ để cân bằng với các định chế do chính quyền đặt ra. Vì vậy,
XHDS cần phải độc lập với “nhà nước”, vừa là đối tác mà cũng là đối lập. Có như
vậy mới thực sự phối hợp cung cách điều hành quốc gia trong mô hình “kiểm soát
và cân bằng”.
Tuy cùng là phương Tây, nhưng
mô hình khu thứ ba của Pháp lại chẳng giống gì Mỹ mà chia xẻ nhiều điểm chung với
Nhật hơn qua sự phát triển XHDS; và tuy cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Đông, nhưng người Nhật và Đại Hàn thể hiện cung cách XHDS khác xa TC vì trình độ
và dân trí hai nước trên cách xa dân trí người Tàu. Và Đài Loan thì nằm đâu đó
giữa giữa sự cai trị “đóng” của chính quyền và người dân tương đối mở so với
người Tàu.
Tóm lại, một khi người dân có
dân trí cao, XHDS ngày càng phát triển cho dù chính quyền có kềm kẹp như thế
nào đi nữa…và cho dù ảnh hưởng của những yếu tố lịch sử, văn hóa và chính trị
riêng biệt cũng không ngăn cản được sức mạnh của người dân.
Câu hỏi được đặt ra là “Liệu
cách mạng bất tuân dân sự có giúp XHDS thăng tiến và đạt được mục tiêu yêu cầu hay
không?
Câu trả lời là: CÓ và KHÔNG.
CÓ, là khi cách mạng bất tuân dân sự khởi động và nhiều XHDS cùng có
chung quyết tâm và can đảm để huy động cuộc tổng cách mạng toàn quốc.
KHÔNG, là khi cách mạng bất tuân dân sự bị dập tắt từ trứng nước và các
XHDS thiếu phối hợp và tự phát và không có kế hoạch dài hạn.
Qua các phân tích trên, trở về
Việt Nam, Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều dịp đẩy mạnh XHDS đến tổng nổi dậy qua qua
các hành động bất tuân dân sự với quy mô lớn trong quá khứ gần 15 năm qua như:
· Việc
phản kháng, biểu tình công cuộc khai thác bauxite ở Tân Rai, BẢo Lộc, và Nhân
Cơ, Đắk Nông và những năm 2008-2008;
· Vụ xả
thải của Cty Hưng Nghiệp Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh năm 2016 làm chết àang ngàn
tấn cá và ô nhiễm vùng biển từ Hà Tĩnh Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên;
· Vụ quốc
hội hợp thức hóa ba khu tự trị: Vân Đồn, Bắc Vân Phong, và Phú Quốc đưa đến cuộc
“nổi dậy” ngày 10/6/2018 ở Phan Rí. Đây là một dịp bằng vàng đã bị lỏ lỡ vì có
thể xóa tam cơ chế chuyên chính vô sản của CSBV. Rất tiếc cuộc nổi dậy bị dập tắt
vì thiếu phối hợp cũng như không có kế hoạch chuẩn bị trước cùng sự thiếu vắng lãnh
đạo.
· Và sau
cùng, vụ phản đối toàn quốc qua việc từ khước đóng phí cho các BOT năm 2019.
Từ những thất bại trong quá khứ
kể trên, chúng ta rút tỉa được điều gì?
Chuẩn bị ngay từ bây giờ những XHDS tập hợp đủ mọi thành phần dân tộc
thành các nghiệp đoàn sĩ nông công thương hiện đang đóng góp cho công cuộc phát
triển quốc gia như: nghiệp đoàn may mặc, nghiệp đoàn đóng giày da; nghiệp đoàn
nuôi cá da trơn, nghiệp đoàn đành bắt hải sản, nghiệp đoàn nông dân, nghiệp đoàn
công nhân cơ khí, nghiệp đoàn công nhân hốt rác, nghiệp đoàn buôn bán hàng rọng,
nghiệp đoàn “xe ôm”, taxi v.v…
Một khi các XHDS trên đã được
đoàn ngũ hóa, họat động phối hợp với nhau, thì một hành động bất tuân dân sự nhỏ
như “công nhân hốt rác” đình công chỉ trong một ngày cũng đủ làm tê liệt guồng
máy cai trị của cộng sản Bắc Việt, qua việc “ối đọng” 6.000 tấn rác ở Sài Gòn
và ở Hà Nội (mỗi nơi có 12 triệu dân và mỗi người dân xả 0.50 Kg rác/ngày),
cùng với sự tiếp tay đồng loạt của các nghiệp đoàn bạn.
Ngày xưa, lực lượng nông dân
và công nhân là hai lực lượng “nồng cốt”
trong cuộc cách mạng cộng sản,
nhưng hôm nay cũng chính hai lực lượng trên nằm trong các XHDS kể trên sẽ là
hai thành tố căn bản cho ông cuộc xóa tan cơ chế chuyên chính vô sản của Việt Cộng.
Các bạn có thấy công cuộc giải
thể CS Bắc Việt có khó lắm không?
Mai
Thanh Truyết
Houston
11-11-2022
No comments:
Post a Comment