Tiếc Cho Một Người Vừa Nằm Xuống
Bài này của tác giả
Mai Thanh Truyết viết sau khi cố BS Dương Quỳnh Hoa mất. Mới mà đã 8 năm rồi.
Một số các bạn muốn biết về nữ chí sĩ được xem là người đầu tiên thẳng thắn ra
khỏi đảng cộng sản ở Việt Nam vào năm 1979. Bài viết tương đối đầy đủ. Ai chưa
đọc thì nên đọc, vì gần đây rộ lên phong trào ra khỏi đảng của những nhân vật
một thời sùng kính đảng cộng sản như một tôn giáo. Hôm nay, tôi xin lưu lại ở
đây như một nén hương tưởng nhớ 8 năm ngày mất của Bà, một đồng nghiệp đàn Chị,
mà tôi đã từng gặp, và tâm sự năm 1986 và vài lần sau đó năm 2001. Vẫn còn
nhiều vấn đề về Bà mà một số bài báo phỏng vấn sau này đều bịa đặt để bôi nhọ
Bà.
Mai Thanh Truyết
Bà Bác sĩ Dương Quỳnh
Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được
hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề
loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy
và phát đi ngày 28/2.
Sự im lặng của Việt
Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ
về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất
“chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.
Ô. Bà DQH và Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
BS DQH là một người
sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở
Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung
Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y
tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó
cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là
do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.
Về phần Bà Hoa, được
đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và
về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó
Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.
Từ những suy nghĩ
trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào
Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho
đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu –Mõ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay
sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của
Mặt Trận.
Khi vào trong bưng, Bà
gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông
cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm
1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân
sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và
được kết nạp vào đảng sau đó.
Do “uy tín” chính trị
quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt,
muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về
mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một
người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở
theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong
trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều
lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở
trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bõ
không tiếp tục theo học trường nầy nữa.
Nhưng chính nhờ uy tín
của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng
cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng
ông từ chối.
Ô.B DQH và Đảng Cộng
sản VN
Chỉ một thời gian ngắn
sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó
mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976,
trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông
đã công khai tuyên bố với các bạn như sau:”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi
trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã
có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn
thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại
là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại
học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người
viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông
Diệu đang cư ngụ ở Canada.
Trở lại BS DQH, sau
khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng
trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà
Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc,
chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị
Bình, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt
thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà
chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.
Vào khoảng cuối thập
niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ:”Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù
nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ
cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh
biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính
phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ
trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh
những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà
sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng
trong vòng 10 năm.
Mười năm sau đó, sau
khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo
trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại
yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời
gian nầy Bà tuyên bố :” Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ),
xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong
những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng
bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn
và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân
đội điều hành.
Sau khi rời nhiệm vụ
trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với
giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên
để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền
và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là
acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam
đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ,
nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì…nhân dân (của Đảng!). Về tình
trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây
báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày
1/12/03 tại Hà Nội :” Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3%
trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ,
Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3%
khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ
trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%.
Vào năm 1989, Bà đã
được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những
lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on
Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự
thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà
không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau
buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú là
đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã
đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.
Sau cùng, chúng tôi
xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là:”Trong chiến
tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi
quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù
tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của
một ảo tưởng vĩ đại”.
BS DQH và Vụ kiện Da
Cam
Theo nhiều nguồn dư
luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng
thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến
là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ
sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập
vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong t ương lai.
Có lẽ vì “mật ước”
Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da
cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ
Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do
Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban
đầu gồm:
- Bà Nguyễn Thị Bình,
nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;
- Thượng tướng Đặng Vũ
Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;
- GS,BS Nguyễn Trọng
Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ
tịch;
- Ô Trần Văn Thụ làm
Thư ký.
Trong buổi lễ ra mắt,
Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất
độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý.
Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào
danh sách trợ cấp”. Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một
tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện
đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện
pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan
trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam
trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm
2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho
VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong
Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do
đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho
việc kiện tụng mà thôi.
Vào ngày 30/1/2004,
Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn,
New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris.
(Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ
Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang
trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:
- Hội Nạn nhân Chất Da
cam/Dioxin Việt Nam;
- Bà Phan Thị Phi Phi,
giáo sư Đại học Hà Nội;
- Ông Nguyễn Văn Quý,
cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là
Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);
- Bà Dương Quỳnh Hoa,
Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là
Huỳnh Trung Sơn; và
- Những người cùng
cảnh ngộ.
Đây là một vụ kiện tập
thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố
các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm
luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu
nơi công cộng và làm giàu bất chánh để: (1) Đòi bồi thường bằng tiền do thương
tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) Yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm
môi trường, và (3) Để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua
việc sản xuất thuốc khai quang.
Không có một bằng
chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin
tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn
kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa
thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của
Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường
Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia,
New York.
Chúng tôi đặc biệt
quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của
Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng
là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.
Theo nội dung của hồ
sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông
Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến
1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa
miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng
bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã
đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy
200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ
1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được
phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).
Năm 1970, Bà hạ sinh
đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên
đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ
thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.
Trong thời gian chấm
dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đầu bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có
mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa,
lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau
cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử
nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có
nồng độ là 20 ppt (phần ức).
Và sau cùng, kết luận
trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.
Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?
Để tìm giải đáp cho
những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong
một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ
miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên)
thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli).
Tên tôi đã được ghi
vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo
cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy
tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với
một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người
khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc
da cam.”Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ
xảy ra.
Bà còn thêm rằng:”
Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc
dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết
quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”
Đến đây, chúng ta có
thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh
án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New
York.
Bài học được rút ra từ
cái chết của BS DQH.
Từ những tin tức về
đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn
quảng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt
huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính
vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết
không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió
lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.
Khi đã nhận diện được
chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà
không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị
chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng
góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể
nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong
những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó
họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.
Hôm nay, chúng ta có
thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng
chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy
nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông
tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự
thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về
tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản
của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có
được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát
không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân
quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ
biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất
và Nước cả.
Bài học DQH là một bài
học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những
người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây
dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những
thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí
mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày
21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu
mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng
quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta, những người
Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm
trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự
thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.
Tổ quốc là đất nước
chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa
bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.
Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên
ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có
viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.
Mong tất cả trí thức
Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường
hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.
Mai Thanh Truyết
Người con Việt
No comments:
Post a Comment