Tuesday, April 22, 2025

Một Phóng sự trên tạp chí Niềm Tin trong nước tường trình về cuộc hội thảo của Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam – VAST về Ô nhiễm nguồn nước ỡ ĐBSCL. Vị ký giả của báo Niềm Tin đã ghi :” TS Mai Thanh Truyết, Kiều bào Mỹ”. Thực sự, người viết d8i1ch thực là người Việt tị nạn Cộng sản Bắc Việt. Arsenic : Một hóa chất độc hại âm thầm ở đồng bằng sông Cửu Long Thêm nữa, Việt Nam cũng cần phải có kếhoạch và nhân sựgiải thích cho người dân hiểu được nguy cơnhiễm độc arsenic và mức độnguy hiểm cùng cách xửdụng đúng đắn các lọai thuốc bảo vệthực vật đểtránh những vụ ngộ độc hoặc tai nạn cho người dân như đã xảy ra thường xuyên, vì thông tin và giáo dục người dân là biện pháp phòng bịhay nhất trước các vấn nạn môi trường đang xảy ra ởViệt Nam. 9 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Ngày: 06/05/2015 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 0 Bạn đang xem nội dung tài liệu trên tạp chí Niềm Tin – Việt Nam Arsenic: Một hóa chất độc hại âm thầm ở đồng bằng sông Cửu Long Bài nói chuyện của TS Mai Thanh Truyết tại Hội thảo ở Santa Ana, CA – 7/2005 do VAST tổ chức Viễn ảnh ô nhiễm arsenic trong nguồn nước sinh hoạt ở Việt Nam, đặc biệt là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đang là một thực tế cần phải đối phó. Vấn đề hiện nay là phải cố tìm một phương cách giải quyết để cứu nguy những người nông dân chất phác trước khi vấn nạn nầy biến thành nguy cơ trầm trọng ảnh hưởng đến hàng triệu người dân như trường hợp ở Bangladesh. Là một chuyên viên trong việc quản lý và xử lý môi trường tại Hoa kỳ trên 20 năm, chúng tôi đã hằng lưu tâm đến những vấn đề môi sinh liên quan đến ô nhiễm nguồn nước, đất và không khí. Nhưng từ khi Hội nghị Thượng đỉnh về Toàn cầu hóa tại Rio de Janeiro năm 1992 tại Ba Tây, vấn đề Việt Nam trở thành ưu tiên hàng đầu của chúng tôi trong nghiên cứu. Năm 1997, chúng tôi đã đọc bài tham luận về tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở thành phố Hồ chí Minh trong ngày Đại hội của Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST) tại khách sạn Hyatt, Garden Grove. Tiếp theo đó, trong năm 1998, chúng tôi đã cảnh báo vấn nạn DDT và nitrate hiện diện trong nguồn nước ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và sau cùng, ô nhiễm arsenic trong nguồn nước trở thành trọng tâm của chúng tôi sau khi vấn đề arsenic ở Bangladesh và Tây Ấn Độ đã được thế giới xem như là một thảm nạn của thế kỷ. Thảm nạn nầy ảnh hưởng lên hơn 50 triệu người sống trong vùng sau hơn 25 năm được UNICEF tài trợ, khoan đào hơn 4 triệu giếng với mục đích để cho người dân có nguồn "nước sạch." Qua kinh nghiệm ở Bangladesh, arsenic đã nằm yên trong trầm tích cho đến khoảng 1960. Vì muốn tránh cho người dân bị nhiễm do vi trùng dịch tả, thương hàn, kiết lỵ, các cơ quan viện trợ quốc tế qua UNICEF đã khích lệ việc dùng nước giếng để giải quyết vấn nạn do các bệnh tật gây ra. Nhưng từ đó, hệ lụy trước mắt là thảm nạn arsenic bộc phát vào những năm 90 tại nơi nầy. Nguyên nhân ô nhiễm arsenic Sông Hằng hà (Ganges) bắt nguồn từ rặng Hy Mã Lạp sơn mang phù sa xuống đồng bằng hạ lưu là Bangladesh; hiện tượng nầy cũng tương tự như sông Cửu Long, phát nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, và Đồng Bằng Sông Cửu Long là hạ lưu sau cùng của dòng sông trước khi chảy vào biển Thái Bình. Cấu trúc của hai cao nguyên ở vào niên đại đệ tứ. Phù sa có màu rỉ sắt quen thuộc ở miền Nam Việt Nam, đó chính là arseno-pyrite với công thức hóa học là As-FeS2. Chất nầy mang nguồn arsenic trong thiên nhiên và không hòa tan trong nước. Chính vì lý do tương tự sau khi so sánh hai dòng sông khiến cho chúng tôi lưu tâm đến vấn đề nhiễm độc arsenic tại Viêt Nam. Từ xa xưa, người dân Đồng Bằng Sông Cửu Long có thói quen đánh phèn bằng hàn the (borax) hay phèn chua trước khi dùng. Theo năm tháng phù sa tích tụ ở trong lòng đất sâu. Trong khi đào giếng, arseno- pyrite tiếp xúc với oxy trong không khí và qua phản ứng oxyd hóa và khử, arsenic được phóng thích, hòa tan trong nước dưới dạng arsenite và arseniate, chính chất sau cùng là nguyên nhân làm nhiễm độc nguồn nước. Với mục đích truy tìm thêm thông tin, chúng tôi, qua email, đã hội ý với giáo sư Chappel, thuộc viện đại học Colorado ở Denver, và là Điều tra viên chính (Chief Investigator) của Hoa kỳ về điều tra và xử lý ô nhiễm tại Bangladesh. Chúng tôi cũng nhiều lần trao đổi với giáo sư qua Hội nghị Quốc tế về Arsenic tổ chức hàng năm tại San Diego. Mãi đến đầu năm 1999, chúng tôi mới có điều kiện trực tiếp đặt vấn đề với cơ quan UNICEF có trụ sở đặt tại Hà Nội qua một tài liệu nghiên cứu ban đầu do chúng tôi soạn thảo. Nhưng UNICEF vẫn giữ thái độ im lặng. Trong lúc đó, UNICEF tiếp tục khuyến khích và thúc đẩy công cuộc đào giếng, đặc biệt là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tính đến nay, có thể ước lượng được trên 300.000 giếng khoan hoặc đào cho vùng nầy, nơi mà người dân có thói quen xử dụng nguồn "nước mặt" và đánh phèn trước khi dùng. Thu thập dữ kiện và phân tích các mẫu nước Với những trao đổi trực tiếp và qua các tài liệu tham khảo về nguy cơ ô nhiễm arsenic trên thế giới, chúng tôi bắt đầu thu thập dữ kiện. Qua bạn bè và thân nhân có dịp về thăm quê hương, chúng tôi chuẩn bị sẳn các chai lọ đặc biệt để chứa mẫu nưốc và nhờ họ đi lấy mẫu ở tất cả những nơi đã thăm viếng. Các mẫu nước được thu thập từ Hà Nội đến tận vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và được phân tích tại Hoa kỳ. Kết quả đã được công bố trong ngày Hội thảo do Hội Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam tổ chức tại đại học Santa Ana vào tháng 11, 2000. Tuy là kết quả ban đầu và cần phải phân tích thêm nhiều mẫu nữa, nhưng chúng tôi có thể kết luận rằng nguồn nước ở nhiều vùng tại Đồng Bằng Sông Cửu Long đã bắt đầu bị nhiễm độc arsenic. Các mẫu nước thu thập đã được phân tích tại phòng thí nghiệm ở California do chính chúng tôi phụ trách về an toàn sản phẩm và kiểm soát chất lượng. Có tất cả 22 kim loại, 70 hợp chất hữu cơ, và 7 anions đã được phân tích cho mỗi mẫu. Mục đích của các cuộc phân tích nầy là để truy tìm sự hiện diện của arsenic, cùng các hợp chất hữu cơ trong nước. Chúng tôi đã phân tích các mẫu nước ở nhiều nơi trong những tỉnh ở miền Nam sau đây : Biên Hòa, Sàigòn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Sóc Trăng, Sa Đéc và Tân Châu. Hiện tại ở nhiều nơi, nồng độ arsenic đã đạt đến mức giới hạn của tiêu chuẩn an toàn do Liên Hiệp Quốc quy định là 10 ug/L (ppb - phần tỷ). Ngoài sự hiện diện của arsenic dưới dạng phù sa arseno - pyrite như đã nói trên, các cuộc nghiên cứu năm 1999 do TS Gustafson (Thụy Điển) tại Đồng Bằng Sông Cửu Long cho thấy hàm lượng của arsenic trong đất ở vùng nầy khá cao từ 20 - 130 mg/Kg so với mức trung bình trong thiên nhiên là 4 mg/Kg. Thêm nữa, việc xử dụng quá tải các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cũng có thể là một nguồn cung cấp arsenic trong nguồn nước và lòng đất vì arsenic là một trong những tác nhân chính trong việc điều chế các loại thuốc kể trên. Ảnh hưởng của Arsenic lên con người Đây là một ảnh hưởng dài hạn. Trường hợp xảy ra ở Bangladesh cho chúng ta rõ nét về di hại do sự hiện diện của arsenic trong nguồn nước. Tùy theo mức độ xâm nhập vào cơ thể con người, những hội chứng do sự nhiễm độc arsenic thay đổi theo thời gian. Từ việc da ở lòng bàn tay, bàn chân cho đến vùng da ở trước ngực trở thành đen xậm do việc arsenic tích tụ trong cơ thể từ 5 đến 10 năm. Đó là một trong những chứng bịnh có tên là arsenicosis. Sau hơn 15 năm bị nhiễm độc, các bộ phận trong cơ thể như gan, thận, lá lách bị sưng to, hệ thống thần kinh, đường hô hấp bị suy thoái. Sau hơn 20 năm trở đi, các chứng ung thư gan, lá lách, bàng quan, thận bắt đầu xuất hiện. Hàng năm số tử vong ở Bangladesh vì arsenic lên đến hàng trăm ngàn người. Như vậy, phải cần một thời gian dài mới cảm nhận được mức nhiễm độc của arsenic; và việc giải thích cho người dân hiểu được nguy cơ ô nhiễm trên quả thật rất khó khăn. Arsenic và Việt Nam Hàng năm tại Việt Nam, nhà cầm quyền đều có tổ chức hội thảo về tình trạng môi trường ở Việt Nam. Theo chỗ chúng tôi được biết, đúc kết của hội thảo chỉ nhắm trọng tâm vào các vấn đề ô nhiễm chung trong không khí, nguồn nước, và lòng đất. Đại loại là để cảnh báo tình trạng môi trường xuống cấp mà thôi. Vào tháng 8 năm 2000 có một cuộc hội thảo về ô nhiễm arsenic tại Hà Nội. Nơi đây, các cuộc điều tra về ô nhiễm arsenic đã được các khoa học gia Việt Nam thực hiện. Như Tiến sĩ Đỗ Trọng Sự cảnh báo từ năm 1997. Sang năm 1999, có hơn 1.200 mẫu nước giếng ở vùng Hà Nội đã được phân tích và 12,5% trong số đó có hàm lượng arsenic cao hơn 50 ug/L ( báo Lao Động ngày 6/3/2002 ). Trong năm 2000, Viện Địa lý thực hiện 498 mẫu và tìm thấy 27% số mẫu có hàm lượng arsenic cao hơn 50ug/L. Đăc biệt hơn nữa là, tiến sĩ Ngô Ngọc Các thuộc Viện Địa lý Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia đã công bố kết quả điều tra và kết luận là nước giếng khoan ở Hà Nội bị nhiễm rất nặng ( 517 mẫu trên 925 mẫu có hàm lượng cao hơn 50 ug/L). Quả thật chúng tôi hoàn toàn không hiểu vơí những khám phá vừa kể trên đã có trước khi hội thảo, mà không thấy ai đề cập đến vấn đề nầy? Tại sao để mãi đến năm 2002, Việt Nam mới cho dư luận trong nước biết đến vấn nạn nầy? Vào cuối tháng 8/2002, Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường tỉnh Hà Nam có báo cáo là trên 50% mẫu phân tích (29/56 mẫu) có hàm lượng arsenic cao hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam trước đây là 0,05 mg/L. (Tiêu chuẩn mới của Việt Nam hiện tại là 0,01 mg/L, phù hợp với tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc). Ở Hà Nội, theo kết quả nghiên cứu của UNICEF vào năm 2000 và 2001 thì vào mùa khô có 35% giếng bị ô nhiễm arsenic, và vào mùa mưa, 18%. Cũng theo UNICEF, tỉnh Ninh Bình có 10% số mẫu đã vượt quá 0,05 mg/L, Nam Định 9%; tương tự như ở Sơn La, Phú Thọ, Hải Phòng, Bắc Giang, và Thanh Hóa. Tại Hoa Kỳ, trong ngày Hội thảo năm 2000 tại đại học Santa Ana, các bài phát biểu bằng Anh ngữ và Việt ngữ đã được các báo chí tại hải ngoại đăng tải. Tuy nhiên chúng tôi không ghi nhận được phản ứng nào của chính quyền Việt Nam trong thời gian nầy. Mãi cho đến ngày 03/01/2002, nhật báo Orange County Register cho đăng tải bài phỏng vấn chúng tôi và kỹ sư Nguyễn Minh Quang về tình trạng môi trường và các vấn nạn ô nhiễm hóa chất ở Việt Nam, họ mới có phản ứng rất tiêu cực hướng về phía chúng tôi. Phản ứng đầu tiên là phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Việt Nam lúc bấy giờ đã kết án chúng tôi là "loan tin không có cơ sở và có dụng ý xấu." Tuy nhiên, gần đây chính thủ tướng Việt Nam hiện tại Phan văn Khải đã nhìn nhận vấn đề ô nhiễm sẽ là một thảm trạng lớn của Việt Nam. Sau khi báo Lao Động đăng tải các kết quả đo đạc của các khoa học gia chúng tôi vừa nói trên, có một sự kiện cần phải nêu ra là, vào cuối tháng tư năm 2002, thủ tướng Phan Văn Khải của chính quyền hiện tại đã công bố chính thức rằng nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước có thể là một thảm nạn trong tương lai cho Việt Nam cũng như đã chỉ thị cho Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phải lập phương án, điều tra và nghiên cứu vấn đề nầy. Khi nghe được tin nầy, chúng tôi không nghĩ rằng họ đã nghe được những lời cảnh báo của chúng tôi mà thi hành biện pháp kể trên; tuy nhiên chúng tôi cũng cố gắng có một suy nghĩ tích cực là ước mong cho chỉ thị trên trở thành hiện thực! Và cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn không rõ có những bước tiến bộ nào trong việc thẩm tra và nghiên cứu sự hiện diện của arsenic trong nguồn nước ở Việt Nam. Arsenic và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Có nhiều nguyên nhân làm cho chúng tôi chú trọng đến vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long: • Thứ nhất là các liên hệ tương tự về địa chất và dòng chảy của hai dòng sông Hằng Hà và Cửu Long, cũng như thảm nạn ở Bangladesh đả xảy ra do nguyên nhân mà UNICEF đang cổ súy ở Việt Nam qua việc khoan giếng; • Thứ hai, kết quả phân tích của chúng tôi đã cho phép chúng tôi kết luận là arsenic đã hiện diện trong nguồn nước ở Đồng Bằng Sông Cửu Long; • Thứ ba và quan trọng hơn hết là theo các cuộc nghiên cứu, vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng đất phèn, bị nhiễm mặn thường xuyên, và nhiều nơi có độ pH thấp hơn 2 (acid) (pH trung hòa là 7). Chính ba yếu tố trên là những tác nhân kích thích sự phóng thích arsenic vào nguồn nước có thể với vận tốc nhanh hơn như đã xảy ra ở Bangladesh (khoảng 25 năm). Do đó chúng tôi tự thấy có trách nhiệm cần phải đẩy mạnh cuộc khảo sát ở vùng nầy vì đây là quê hương của hơn 20 triệu người dân chất phác ở miền Nam Việt Nam. Hướng giải quyết ô nhiễm arsenic Trước khi trình bày các biện pháp giải quyết tình trạng nhiễm độc arsenic, thiết nghĩ việc truy tìm sự hiện diện của nguyên tố nầy là một việc làm ưu tiên và cần thiết. Có rất nhiều cá nhân hay cơ quan trên thế giới đang tập trung trí tuệ để cố gắng tìm ra một hệ thống thử nghiệm tại hiện trường (field test kit) dựa trên các tác dụng hóa học và vật lý. Tùy theo điều kiện thí nghiệm, các phương pháp nầy cho thấy mức độ chính xác tương đối, cho phép chúng ta ước lượng ban đầu tình trạng nhiễm độc ở những vùng khảo sát. Theo ông Đặng Dương Bình, thuộc Sở Khoa Học, Công Nghệ và Môi trường Hà Nội cho biết, thành phố đã bắt đầu việc tuyên truyền cho người dân về vấn đề nầy, phổ biến những thiết bị xử lý đơn giản, và đẩy nhanh việc gọi thầu để xử lý những khu ô nhiễm cao vào tháng 2/2003. Thành phố cũng đầu tư 1 tỷ đồng cho công tác nghiên cứu địa hóa môi trường Việt Nam cũng như công tác nghiên cứu công nghệ xử lý arsenic ở quy mô công nghiệp cho các nhà máy cấp nước. Ngoài ra, UNICEF cũng đã đàm phán với Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thụy Sĩ (SDC) để chuẩn bị một dự án nghiên cứu 3 năm ở đồng bằng sông Hồng và sau đó ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hiện tại, Việt Nam chỉ sản xuất những hệ thống lọc arsenic cho các đơn vị gia cư và chưa có công nghệ nào có quy mô công nghiệp lớn cả. Và các hệ thống xử lý nói trên dựa theo phương pháp cơ, lý học, thiết nghĩ khó có thể tách rời được arsenic đã hòa tan trong nguồn nước. Chúng tôi qua Hội Khoa Học & Kỹ Thuật Việt Nam đã có hướng thanh lọc Arsenic ở những vùng nước bị nhiễm độc, với mục tiêu là cố truy tìm những phương thức rẽ tiền thích ứng với điều kiện Việt Nam, mặc dù trên thế giới đã có quá nhiều biện pháp để giải quyết hữu hiệu bằng các phương pháp hóa học, vật lý như: dùng hydroxid sắt III, phương pháp thẩm thấu nghịch (reverse osmosis), trao đổi ion v. v.... Những phương pháp nầy đòi hỏi thiết bị tối tân và chi phí cao, không thể thực hiện được trong điều kiện Việt Nam hiện tại. Do đó, chúng tôi nghiên về các phương pháp thiên nhiên như việc dùng thực vật để khử arsenic. Qua tham khảo chúng tôi được biết tiến sĩ Leno Ho, thuộc đại học Florida đã khám phá và chứng minh được rằng một loại cây thuộc họ dương xỉ (fern) có tên là Pteris Vittata có khả năng hấp thụ 755mg/Kg arsenic trong vòng 2 tuần lễ. Và theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang, cũng như đã kiểm chứng lại với quyển tự điển Cây Cỏ Miền Nam của GS Phạm Hoàng Hộ, cây nầy chính là cây rau Rán, mọc dọc theo các bờ kinh hay sông rạch ở vùng Tân An, quê của anh. Tuy không tìm được cây dương xỉ trên, chúng tôi đã tìm được một loại tương tự, cây Nephrolepis Oblitera, có bán tại các tiệm bán hoa để làm thí nghiệm bằng cách cho thêm dung dịch có chứa nồng độ arsenic cao vào trong đất. Đất và lá cây được phân tích arsenic trước và sau hai tuần lễ. Kết quả tuy không đạt được như khám phá của tiến sĩ Ho, nhưng phương pháp nầy là một khích lệ cho việc khử arsenic trong nguồn nước. Cuộc nghiên cứu vẫn còn đang tiếp tục. Và mới đây nhất (3/2005), trong một báo cáo khoa học của TS Parvez Haris, thuộc Viện Đại Học Leicester, Anh Quốc đã chứng minh việc dùng rễ cây lục bình (water hyacinth, tên khoa học là Eichhornia Crassipe) để khử arsenic. Rễ cây khô được xay nhuyễn có khả năng hấp thụ As trong một dung dịch có nồng độ 200 phần tỷ trong vòng 60 phút. Và phương pháp nầy đang được áp dụng ở Bangladesh. Trong hiện tại, người dân chất phác Đồng Bằng Sông Cửu Long chưa ý thức được vấn nạn nầy. Do đó, trách nhiệm cấp bách của nhà cầm quyền là phải cảnh báo cho ngưới dân biết. Một lần nữa, qua các cuộc thăm dò, điều tra từ hơn 5 năm nay, chúng tôi chắc chắn rằng nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước, đặc biệt ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là một thực tế, một sự thật không cần phải chứng minh thêm nữa. Vì vậy, việc làm cấp bách trong hiện tại là phải tìm những phương cách để chế ngự nhiễm độc, song hành với việc truy tìm những phương sách khác để cung cấp nguồn nước an toàn cho người dân Đồng Bằng Sông Cửu Long. • Việc xử dụng nguồn nước mặt sau khi đánh phèn là một thói quen mà người dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long đã áp dụng từ ngàn xưa, hiện nay vẫn còn giá trị không những về mặt tập tục mà vẫn bàng bạc tính khoa học trong phương cách đối phó vơi thiên nhiên. • Thêm nữa, vũ lượng hàng năm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hơn 2000 mm; điều nầy sẽ giúp người dân có đủ lượng nước sạch tiêu dùng cho nhu cầu ăn uống cả năm nếu người dân có phương tiện trữ nước trong mùa mưa. Thêm nữa, việc lạm dụng nguồn nước hiện có qua các giếng đào để đẩy mạnh nông nghiệp và chăn nuôi đã và đang gây ra hậu quả không lường được là môi trường bị ô nhiễm qua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và tệ hại hơn nữa là mạch nước ngầm đã bị sụt giảm. Tính đến năm 2003, mạch nước ngầm của tỉnh Trà Vinh giảm từ 2 đến 2,5 m do sự hiện hữu của hơn 50.000 giếng đào tại đây. Điều nầy sẽ giúp cho nước mặn có cơ hội tiến sâu vào đất liền trong mùa khô, và làm giảm diện tích đất canh tác. Chúng tôi mong rằng các nông dân vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long lưu ý vấn đề nầy. Vừa qua có một cuộc hội thảo về ô nhiễm arsenic đã diễn ra tại Hà Nội do Viện Y học Lao động tổ chức ngày 8/12/2004, chúng tôi đã theo dõi và được biết là trong cuộc hội thảo nầy, kết luận của Viện Công nghệ Môi trường là: "Các tỉnh đồng bằng sông Hồng đang có hiện tượng ô nhiễm arsenic trong nước ngầm vượt quá tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam và Tổ chức Y tế thế giới là 10 ug/L". Kết quả cho thấy trên toàn quốc, ước tính khoảng 13,5% dân số đang xử dụng giếng khoan có nguy cơ bị nhiễm arsenic cao. Về Đồng Bằng Sông Cửu Long, TS Nguyễn thị Phương Thảo cảnh báo rằng tỉnh Đồng Tháp, An Giang có dấu hiệu bị ô nhiễm. Và sau cùng TS Nguyễn Khắc Hải đã công bố một nghiên cứu về 11 gia đình đã xử dụng nguồn nước bị ô nhiễm, và tỷ lệ người bị mắc bịnh sơ cứng ngoài da, khô da, dày da quá cao. Đây là giai đoạn đầu (khoảng 5 năm) của việc nhiễm độc arsenic dài hạn. Từ đó sẽ dẫn đến giai đoạn ung thư sau khoảng 20 năm bị tiếp nhiễm. Trong khuôn khổ quốc gia và đứng về phía chính quyền hiện tại, chúng tôi nghĩ, họ cần yêu cầu UNICEF chấm dứt việc khuyến khích và tài trợ công tác đào và khoan giếng, và thay thế bằng việc tài trợ cho việc lấp đặt hồ chứa công cộng và thiết lập hệ thống khử trùng bằng tia cực tím cho người dân Đồng Bằng Sông Cửu Long như việc họ đã tài trợ các hồ chứa nước mưa cho cư dân vùng chiến khu Lê Hồng Phong cũ là Bàu Cá ở Ninh Thuận vào năm 2003. Cũng cần nói thêm là vào ngày 22 và 23 tháng 4/2005 vừa qua, Hội nghị Môi trường tòan quốc đã diễn ra tại Hà Nội. Trong 204 đề tài công bố chúng tôi thấy có hai đề tài nói về việc xử lý arsenic bằng phương pháp hóa học qua giải pháp oxid đồng kết tủa (oxidation co- precipitation) do Nguyễn Thế Đồng và giải pháp dùng quặng mangan dioxit (quặng pyzoluzite) để tách loại arsenic trong nước ngầm của Nguyễn Thị Hà. Đây là hai phương pháp hóa học không thể áp dụng để xử lý As trong nguồn nước sinh hoạt được vì không hiệu quả kinh tế và không thực tế. Thêm nữa, Việt Nam cũng cần phải có kế hoạch và nhân sự giải thích cho người dân hiểu được nguy cơ nhiễm độc arsenic và mức độ nguy hiểm cùng cách xử dụng đúng đắn các lọai thuốc bảo vệ thực vật để tránh những vụ ngộ độc hoặc tai nạn cho người dân như đã xảy ra thường xuyên, vì thông tin và giáo dục người dân là biện pháp phòng bị hay nhất trước các vấn nạn môi trường đang xảy ra ở Việt Nam. TS Mai Thanh Truyết, Kiều bào Mỹ

Thursday, April 17, 2025

Cuộc chiến thuế quan giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Nói về thuế quan TT Trump gián cho Việt Nam 46%, đây là một vấn đề kinh tế - chính trị rất thực tế trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung kéo dài từ thời TT Trump đến nay. Việc Hoa Kỳ dưới thời TT Donald Trump áp thuế quan cao, cụ thể có trường hợp tới 46% đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam, thực chất không hoàn toàn nhắm vào Việt Nam, mà đây là một đòn gián tiếp nhằm đối phó với Trung Cộng. Các lý do chính của việc áp thuế cao đối với hàng Việt Nam Chống “lẩn tránh thuế quan” (transshipment): Mỹ cáo buộc rằng nhiều công ty TC đã chuyển hàng hóa qua Việt Nam, sau đó gắn nhãn “Made in Vietnam” để tránh mức thuế cao mà Mỹ đánh vào thẳng vào các mặt hàng TC tại chính quốc. Một số ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp gồm: thép, nhôm, gỗ dán, thiết bị điện tử và dệt may. Tăng cường thực thi luật lệ thương mại: Dưới thời TT Trump, chính sách “America First” không chỉ nhằm vào TC mà còn mở rộng sang các nước có mức xuất siêu lớn vào Mỹ, trong đó Việt Nam nằm trong top đầu. Năm 2020, Việt Nam xuất siêu hơn 81 tỷ USD sang Mỹ, gây lo ngại cho Washington rằng Việt Nam đang “hưởng lợi gián tiếp từ chiến tranh thương mại Mỹ-Trung”. Năm 2024, Việt Nam xuất siêu 123 tỷ. Cảnh báo Việt Nam phải kiểm soát nguồn gốc xuất xứ: Bộ Thương mại Hoa Kỳ và Hải quan Mỹ đã điều tra và đưa ra những mức thuế trừng phạt (ví dụ trong ngành thép cán nguội/lạnh, mức thuế tới 456% nếu phát hiện xuất xứ nguyên liệu từ TC nhưng không được khai báo đúng khi qua VN). Mục tiêu là ép Việt Nam phải siết chặt chuỗi cung ứng và kiểm soát gian lận thương mại. Có phải đây là đòn dằn mặt Trung Cộng của Hoa Kỳ? Trong một chừng mực nào đó, chúng ta có thể nói như vậy. Việc Mỹ đánh vào hàng Việt thực ra là một phần trong chiến lược bao vây thương mại Trung Cộng, vì: Trung Cộng là “công xưởng thế giới”, nhưng đang tìm cách né đòn bằng cách chuyển dây chuyền sản xuất sang các nước thứ ba như Việt Nam, Cambodia, Lào, Mexico v.v... Trong số 123 tỷ USD xuất cảng của Việt Nam sang Mỹ (năm 2024), có khoảng 30-40% hàng có linh kiện, nguyên liệu, hoặc máy móc từ TC. Mỹ lo ngại rằng chính sách thuế cao của họ với TC đang bị vô hiệu hóa vì Việt Nam che đậy hầu hết nguồn cung ứng nguyên vật liệu cùng các thành phẩm nhằm xuất cảng xuất phát từ…TC! Vì vậy, Hoa Kỳ hoàn toàn đúng khi muốn ngăn chặn hành vi lẩn tránh thuế. Nếu không làm gắt, các công ty TC sẽ “đi đường vòng” của các quốc gia nằm trong chính sách “Sáng kiến một vành đai, một con đường – BRI”. Tuy nhiên, việc đánh thuế lên hàng Việt có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp chân chính của Việt Nam, làm chậm lại quá trình hội nhập chuỗi cung ứng toàn cầu mà Việt Nam đang nỗ lực theo đuổi. Trong danh sách các ngành bị Mỹ đánh thuế cao nhất đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam trong bối cảnh điều tra chống lẩn tránh thuế (anti-circumvention), các ngành sau đây bị ảnh hưởng nặng nề nhất: 1. Ngành Thép – Nhôm (Steel & Aluminum Products) có mức thuế cao nhất: lên đến 456%. Đây là ngành bị đánh thuế khắc nghiệt nhất, đặc biệt là các sản phẩm thép cán nguội và cán nóng có nguồn nguyên liệu từ TC nhưng chỉ qua Việt Nam để gia công nhẹ hoặc gắn nhãn "Made in Vietnam". Nên nhờ Cty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa, Vũng Áng Hà Tĩnh chỉ là một Cty nhỏ sản xuất không đủ dùng cho nội địa. Năm 2019, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) áp mức thuế 456,23% với một số doanh nghiệp thép tại Việt Nam nếu không chứng minh được nguyên liệu không đến từ TC. Nguồn: DOC Final Ruling on Anti-Circumvention (2019) 2. Ngành Gỗ – Ván ép (Plywood, Furniture) với mức thuế: 200% – 300% (với ván ép có gốc TC). Mỹ cáo buộc rằng TC chuyển lõi gỗ (core veneers) sang Việt Nam, sau đó được dán bề mặt tại Việt Nam và xuất sang Mỹ. Mức thuế trừng phạt được áp dụng cho các công ty không chứng minh được tỷ lệ nội địa hóa. Vào tháng 6/2020, DOC công bố điều tra và áp thuế gần 300% cho một số nhà xuất khẩu ván ép Việt Nam. 3. Ngành Vỏ Xe (Tires) với mức thuế: 22% – 133%. Mỹ cho rằng có hiện tượng “dumping” (bán phá giá) từ các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là vỏ xe chở khách và xe tải nhẹ. Bộ Thương mại Mỹ (DOC) năm 2020 công bố mức thuế chống bán phá giá lên đến 133,42% đối với một số doanh nghiệp không hợp tác điều tra. 4. Ngành May mặc – Giày dép – Túi xách với mức thuế: 10% – 25% (theo chính sách chung của TT Trump). Các mặt hàng nầy không bị điều tra “lẩn tránh thuế”, nhưng lại chịu ảnh hưởng chung do chính sách tăng thuế thời chiến tranh thương mại nằm trong chính sách của TT Trump. Điều đáng lưu ý là một số doanh nghiệp TC chuyển nhà máy sang Việt Nam để né thuế, gây rủi ro bị Mỹ rà soát kỹ trong tương lai. 5. Thiết bị điện - điện tử (bao gồm bảng mạch, module điện tử, máy vi tính) với mức thuế: 15% – 25% (nếu bị nghi ngờ có nguồn gốc TC). Mỹ từng nghi ngờ một số công ty sản xuất bảng mạch PCB và module vi điện tử dùng nguyên liệu TC, rồi chỉ gia công nhẹ tại Việt Nam. Mặc dù chưa có mức thuế trừng phạt nặng như ngành thép, nhưng đang các mặt hàng trên nằm trong danh sách theo dõi và điều tra. Đứng trước tình thế nầy, thay vì chấp nhận và đề nghị với HK là chấp nhận thuế quan 0% áp dụng cho cả hai quốc gia, điều mà hành pháp Mỹ phủ nhận ngay sau đó và không tiếp phái đoàn BT Bộ Thương mại Việt với hàng trăm thành viên đi theo. Vì sao? Chính vì HK biết rõ 5 chẵn 5 là 10 là hàng Việt xuất cảng chính là hàng Tàu chuyển qua để tránh thuế quan rất cao ở TC. Vì vậy, Việt Nam cần phải siết chặt lại quản lý xuất xứ, - Chứng minh rõ ràng tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm, - Và hợp tác minh bạch với Mỹ để phân biệt đâu là doanh nghiệp Việt thực sự, đâu là “bình phong” cho TC. Cuộc viếng thăm của Tập Cận Bình Một sự kiện xảy ra vài ngày trước đây là sự hiện diện của CT Tập Cận Bình viếng thăm Việt Nam ngày 13-14/4/2025, Việt Nam đã có những phản ứng tích cực nhằm tăng cường quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực. trong đó, TBTCS Tô Lâm đã bày tỏ mong muốn thúc đẩy hợp tác với TC trong các lĩnh vực như ngoại giao, quốc phòng. Sau đó TCB đi Malaysia và Phi Luật Tân để siết chặt mới liên minh trên mặt Biển Đông. Tuy chưa biết được nội dung của cuộc viếng thăm TCB và TL, nhưng chúng ta vẫn có thể hình dung được rằng: “Phải chăng sự hiện diện của TCB vừa qua là để dằn mặt Tô Lâm, cảnh cáo Tô Lâm không"được" ngã về Mỹ không? Từ giới quan sát chính trị quốc tế cũng đặt ra giả thuyết tương tự phải chăng chuyến thăm của Tập Cận Bình (TCB) sang Việt Nam là một tín hiệu “răn đe mềm” với ban lãnh đạo mới của Việt Nam, đặc biệt là ông Tô Lâm, trong bối cảnh Việt-Mỹ đang xích lại gần nhau? Dưới đây là một phân tích chủ quan dựa trên các yếu tố địa chính trị và dấu hiệu ngoại giao hiện đã và đang xảy ra. Về bối cảnh các chuyến thăm viếng trong qua khứ: - Tháng 9/2023, TT Joe Biden sang Việt Nam, nâng cấp quan hệ hai nước lên mức Đối tác chiến lược toàn diện, ngang hàng với TC. - Tháng 12/2023, Tập Cận Bình sang Việt Nam, ký nhiều thỏa thuận hợp tác kinh tế, quốc phòng, công nghệ... - Tháng 4/2025, ông TCB quay lại sớm hơn bình thường, ngay sau khi ông Tô Lâm được bầu làm Tổng Bí thư (tháng 3/2025). Việc xuất hiện của TCB vừa qua là một tín hiệu không thể xem là ngẫu nhiên, vì TC xưa nay rất nhạy cảm với các quốc gia "trong vùng ảnh hưởng" có dấu hiệu ngả về phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Mục tiêu chính của Tập Cận Bình? - Phải chăng là chỉ muốn củng cố ảnh hưởng địa chính trị. TC muốn tái khẳng định vai trò "người anh cả", nhắc Việt Nam rằng họ đang ở ngay cạnh, và là đối tác quan trọng hàng đầu về cả chính trị, kinh tế và an ninh. Chuyến thăm mang tính “xác lập ranh giới”: Việt Nam có thể hợp tác với Mỹ, nhưng không được vượt lằn ranh chiến lược của TC (đặc biệt về Biển Đông, Đài Loan, hợp tác quân sự). - Và sâu thẳm hơn nữa, TCB muốn thăm dò lập trường của Tô Lâm vì Tô Lâm vốn là người xuất thân từ Bộ Công an, thực dụng và thận trọng. Tuy nhiên, việc ông trực tiếp và chính thức tiếp Tổng thống Biden, rồi sau đó lên chức Tổng Bí thư, khiến TC muốn kiểm tra lập trường của ông. Có thể xem đây là một phép thử ngoại giao của Bắc Kinh: “Liệu ông Tô có giữ cân bằng như các đời lãnh đạo trước, hay nghiêng hẳn về Mỹ?” - Còn đối với Mỹ, TCB nhắn gửi một cách tế nhị là:” Tái khẳng định ảnh hưởng của TC tại Việt Nam, và gửi thông điệp đến Mỹ rằng TC vẫn nắm đòn bẩy quan trọng tại Đông Nam Á. Phản ứng của Việt Nam Chính sách cây tre của Việt Nam sẽ ra sao? Vấn đề quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam, Trung Cộng và Hoa Kỳ luôn luôn phức tạp, và chính sách của Việt Nam không hề mang tính thần phục hay hoàn toàn nghiêng về một bên trong các cuộc đối đầu quốc tế, như cuộc chiến thuế quan giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng hiện nay. Chính sách ngoại giao của Việt Nam thường được gọi là "cây tre," tức là giữ một tư thế linh hoạt, không theo về một phía mà duy trì quan hệ hòa hoãn với các nước lớn để bảo vệ lợi ích quốc gia. Việt Nam luôn cố gắng duy trì quan hệ tốt với cả TC và Hoa Kỳ, mặc dù hai quốc gia này có những mâu thuẫn lớn, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và an ninh. 1. Quan hệ với Trung Cộng: Việt Nam luôn chú trọng vào mối quan hệ với TC, đặc biệt là về thương mại, đầu tư và an ninh, nhưng đồng thời cũng duy trì một lập trường độc lập, không để TC gây áp lực quá đáng. Trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam có quan điểm rõ ràng về bảo vệ chủ quyền, bất chấp sự tranh chấp với TC, và cố gắng tối đa và hạn chế những va chạm thực tế với TC ngoài biển Đông. Chính sách này cho thấy Việt Nam không chịu thần phục TC mà vẫn bảo vệ lợi ích quốc gia của mình trong một giới hạn nào đó. 2. Quan hệ với Hoa Kỳ: Với Hoa Kỳ, Việt Nam cũng duy trì một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại và an ninh. Tuy nhiên, Việt Nam không hoàn toàn phụ thuộc vào Hoa Kỳ, và vẫn giữ được sự độc lập trong các quyết định chính trị. Trong cuộc chiến thuế quan giữa HK và TC, Việt Nam cũng hưởng lợi từ việc các công ty chuyển hướng đầu tư từ TC sang các nước khác, bao gồm cả Việt Nam. Tóm lại, Việt Nam không có thái độ "thần phục" TC hay hoàn toàn cứng rắn với Hoa Kỳ. Chính sách "cây tre" của Việt Nam cho phép họ vừa hợp tác với các nước lớn, vừa bảo vệ được lợi ích quốc gia và không để bị chi phối quá mức bởi bất kỳ bên nào trong các mối quan hệ quốc tế quan trọng này. Việt Nam không thể hiện thái độ lệch hẳn về phía nào, mà cần tiếp tục giữ chính sách “đối tác đa phương, không chọn phe”. Tuy nhiên, các truyền thông nhà nước đưa tin rất trang trọng về chuyến thăm, nhưng ít nhấn mạnh đến các tuyên bố cứng rắn về Biển Đông, điều mà trước đây Việt Nam thường làm để giữ khoảng cách với TC. Đó, một số nhà quan sát cho rằng Việt Nam đang “giữ ý” để theo dõi phản ứng của Mỹ và TC, chứ chưa vội nghiêng hẳn về phía nào, một hình thức “wait and see”. Vì vậy cho nên hoàn toàn không có thông cáo chung hay ký kết hợp tác…toàn diện như thuyền thông việt phổ biến một cách “hoành tráng” như sau các lần viếng thăm trước của TCB hày bất cứ một lãnh đạo TC nào viếng thăm Việt Nam. Như vậy, tâm tư của tân TBT Tô Lâm như thế nào? Hướng về HK để cởi trói, thoát khỏi bế tắc chính trị, kinh tế, và nhứt là áp lực của TC. Hay là thật lòng "giải ách" như hành động của Gorbachev của Liên Sô? Tâm tư và đường lối chiến lược của ông Tô Lâm, người vừa trở thành Tổng Bí thư trong giai đoạn bước ngoặt của Việt Nam. So sánh ông với Gorbachev là một liên tưởng rất đáng suy nghĩ, vì cả hai đều bước vào vị trí quyền lực trong thời kỳ khủng hoảng toàn diện: kinh tế, chính trị và sức ép đối ngoại. Dưới đây là phân tích về hai khả năng trên và những dấu hiệu hiện có: 1- Tô Lâm có đang hướng về Hoa Kỳ để “cởi trói”? Những dấu hiệu cho thấy có thể có: Ông là người trực tiếp tiếp đón TT Biden khi còn là Bộ trưởng Công an (2023), hiếm có một Bộ trưởng Công an nào đóng vai trò ngoại giao cao như vậy. Sau khi lên làm Tổng Bí thư (3/2025), chưa tỏ dấu hiệu chống Mỹ hay bài phương Tây, điều này khác với nhiều giai đoạn “chính trị nội bộ” của những Tân TBT trước đây. Việt Nam đang rơi vào bế tắc kinh tế vì tăng trưởng chậm, vốn FDI không nhận được như kỳ vọng, giới trẻ bất mãn, tầng lớp trung lưu mất niềm tin vào cải cách, và nhứt là mức thuế quan lên đến 146% áp đặt cho hàng nhập cảng từ Việt Nam. Việc xích lại gần Mỹ, Nhật, Âu Châu có thể là con đường khả thi để tìm cú hích kinh tế, đổi lấy “thế đứng mới” trước TC. Tuy nhiên, vì Tô Lâm xuất thân từ công an, an ninh nội chính, nên bản năng vẫn là kiểm soát – ổn định – khép chặt hệ thống chứ không hẳn là người cải cách cấp tiến như Gorbachev. Có vài dấu hiệu cho thấy ông đang ưu tiên củng cố nội bộ trước khi tính chuyện đối ngoại tức là giữ hệ thống trước, đổi mới sau, nếu có. 2- Tô Lâm đang âm thầm “giải ách” theo mô hình Gorbachev? So sánh với Mikhail Gorbachev, có vài điểm tương đồng và khác biệt: - Gorbachev từng là nhà cải cách trong đảng CS Nga; - Từng đưa ra chính sách Cải tổ - Perestroika, và Minh bạch – Glasnost; - Từng chấp nhận buông lỏng hệ thống để đổi lấy dân chủ hóa, dẫn đến sự sụp đổ của Liên Sô. Còn Tô Lâm là: - Người từ ngành công an nội chính, và bảo thủ; - Chưa hề công bố về cải cách chính trị hay :”cải cách chế độ”; - Ít thấy khả năng Tô Lâm “mở” hay chối bỏ quyền lực để đổi lấy dân chủ hóa Việt Nam! - Nếu Tô Lâm có ý “giải ách”, thì sẽ là một quá trình kiểm soát chặt chẽ, theo kiểu cải cách có định hướng để không làm lung lay chế độ như kiểu “kinh tế tư bản theo định hướng xã hội chủ nghĩa” vậy. Kết luận – Tâm tư thực sự của Tô Lâm là gì? Khả năng cao nhất là ông ý thức rõ nguy cơ từ TC và tình trạng trì trệ trong nước, nên muốn đa phương hóa ngoại giao, xích lại gần Mỹ để tạo thế cân bằng, đồng thời giữ kiểm soát nội bộ vững chắc. Tuy nhiên, vì ông không phải là Gorbachev, cho nên ông không chủ trương dân chủ hóa hay minh bạch toàn diện, và vì bản thân xuất thân từ an ninh khiến ông luôn ưu tiên sự ổn định chính trị ở Việt Nam trước. Nếu Việt Nam có thay đổi lớn, thì có lẽ sẽ diễn ra theo mô hình “Trung Đạo”, nghĩa là vừa cải cách kinh tế, vừa giữ chặt chính trị, giống như Trung Cộng thời Đặng Tiểu Bình, hơn là Liên Xô thời Gorbachev. Dựa vào những công bố, hành vi và ngôn ngữ chính trị gần đây của TL cho thấy ông đang mang tâm thế của một người “cân não” hơn là người “bật phá”. Ông không phải mẫu chính trị gia bộc trực như Nguyễn Tấn Dũng, hay mang tầm nhìn cải cách cấp tiến như Võ Văn Kiệt. Nhưng ông chính là người xuất thân từ hệ thống an ninh, vốn ưu tiên trật tự và kiểm soát hơn là tự do. Tuy nhiên, ông không phải là một người giáo điều như thời Nguyễn Phú Trọng thuần túy, mà thực dụng, mềm dẻo và có khát vọng “để lại dấu ấn lịch sử”. Có thể ông đang sống giữa hai tâm trạng, vừa muốn “an toàn”, ổn định hệ thống, vì đó là “phao cứu sinh” của ông, của cả nhóm chính trị đi theo ông; cũng như ông đã nhận ra được rằng hệ thống chính trị mà Việt Nam đang đi đã bước tới ngưỡng cửa tới hạn (threshold limit), và cần phải "xả van" có kiểm soát để … điều tiết những áp lực của xã hội. Tâm trạng của ông là tâm trạng của một người mang gánh nặng: vừa lo chống đổ vỡ, vừa lo bị mắc kẹt trong thế giới cũ, cái vòng kim cô của xã hội chủ nghĩa “vô hình” và “không tưởng”. Và Việt Nam chắc chắn rồi sẽ rẽ sang một bước ngoặt (turning point) lịch sử trong trong một tương lai không xa. Mai Thanh Truyết Viết cho 50 Năm Khát Vọng Tự Do Houston – 4-2025

Tuesday, April 15, 2025

Tầm nhìn cho tương lai của Việt Nam Khi Việt Nam tiến vào tương lai, chúng ta đang đứng trước một ngã ba đường quan trọng. Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, và bối cảnh của Việt Nam cũng vậy. Đất nước chúng ta, với lịch sử lâu đời, bản sắc văn hóa mạnh mẽ và người dân chăm chỉ, có tiềm năng trở thành quốc gia dẫn đầu ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, để hiện thực hóa tiềm năng này, chúng ta cần phải dứt khoát khẳng quyết một tầm nhìn cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế với tính bền vững của môi trường, công bằng xã hội và bảo vệ quyền con người. Tương lai của Việt Nam phải là nơi phát triển kinh tế không chỉ được đo bằng GDP, mà còn bằng phúc lợi chung của người dân và sức khỏe của môi trường. Điều này có nghĩa là chuyển đổi mô hình tăng trưởng của chúng ta thành mô hình tích hợp các công nghệ xanh, các hoạt động bền vững và tăng trưởng toàn diện. Chúng ta phải đầu tư vào năng lượng sạch, hỗ trợ các ngành công nghiệp giảm phát thải carbon và xây dựng các thành phố thông minh giúp nâng cao phẩm chất cuộc sống mà không làm ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên của chúng ta. Hơn nữa, Việt Nam phải ưu tiên giáo dục và đổi mới sáng tạo. Thanh niên Việt Nam, tương lai của đất nước này, đang định hình thế giới bằng sự sáng tạo và tinh thần khai mở của họ. Bằng cách thúc đẩy một hệ thống giáo dục khuyến khích tinh thần phản biện, giải quyết vấn đề và quản lý môi trường, chúng ta có thể trao quyền cho những người trẻ tuổi của mình để tạo ra các giải pháp mới cho những thách thức phía trước. Đổi mới sẽ là chìa khóa cho sự sống còn và thành công của chúng ta trong một thế giới ngày càng kết nối. Điều quan trọng không kém là cam kết của chúng ta đối với bình đẳng xã hội. Sự thành công của Việt Nam sẽ không được đo bằng mức độ giàu có mà chúng ta trở nên giàu có như thế nào, mà bằng mức độ công bằng của xã hội. Chúng ta phải đảm bảo rằng sự phát triển đến mọi ngóc ngách của đất nước, không bỏ lại ai phía sau. Từ các thành phố nhộn nhịp đến các làng quê, mọi công dân Việt Nam đều xứng đáng được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục chất lượng và cơ hội sống một cuộc sống đàng hoàng. Tương lai của Việt Nam là sự hài hòa giữa tiến bộ và bảo tồn. Chúng ta có cơ hội xây dựng một quốc gia vừa thịnh vượng về kinh tế vừa có trách nhiệm với môi trường, một quốc gia tôn vinh quá khứ của mình trong khi dũng cảm bước vào tương lai với hy vọng, khả năng phục hồi và tính bền vững. "Tương lai của Việt Nam không chỉ thuộc về các nhà lãnh đạo, mà còn thuộc về mọi cá nhân sẵn sàng đóng góp, đổi mới và bảo vệ hành tinh của chúng ta. Cùng nhau, chúng ta có thể xây dựng một quốc gia trong đó, sự thịnh vượng, công lý và sự hòa hợp về môi trường không chỉ là giấc mơ, mà là hiện thực cho tất cả các thế hệ mai sau." Cảm ơn tất cả những ai đã đồng hành cùng tôi trên hành trình này. Mai Thanh Truyết Suy nghĩ cho 50 năm khát vọng tự do.

Monday, April 14, 2025

Mekong River – Should China Be Taken to International Court? Sông Mekong – Cần đưa Trung Cộng ra Tòa án Quốc tế? Bài phát biểu ở Hội thảo "The Vietnam Center & Sam Johnson Vietnam Archive and Institute for Peace & Conflict at Texas Tech University 1975: The End of the Vietnam War Conference" tại Lubbock, Texas *** ¬¬¬ Abstract: What is the conflict regarding the Mekong River? In Asia, there is a dispute over the Mekong River, which flows through Cambodia, Vietnam, Laos, and Thailand. This conflict centers on the construction of dams by various countries and the exploitation of the river's resources. Who is to blame for the Mekong River's issues? Environmentalists and experts point to the 11 dams built by China on the Upper Mekong within its borders. They argue that these dams are contributing to historic flooding and droughts, damaging fish spawning areas and disrupting local communities. What is the biggest issue facing the Mekong River? The Mekong River, though it may appear healthy on the surface, is suffering from a range of serious problems. These include dam construction, overfishing, deforestation, plastic pollution, and the adverse effects of climate change. What is the biggest threat to the Mekong River? The most significant threats are the hydropower dams on the Mekong and its tributaries. These dams can drastically alter the river's flow, disrupt fish migratory patterns, and destroy spawning grounds. What has China done to the Mekong River? During droughts, Chinese dams blocking the river exacerbate conditions downstream, leading to food insecurity for nearly 60 million people in Cambodia, Laos, Thailand, and Vietnam, who rely on the river for agriculture and fisheries. Who controls the Mekong River? In 2015, China established the Lancang-Mekong Cooperation, an organization that manages the shared use of the Mekong River. Its members include Cambodia, Laos, Myanmar, Vietnam, and Thailand. *** Sông Mekong – Cần đưa Trung Cộng ra Tòa án Quốc tế Sông Mekong, con sông dài thứ 11 trên thế giới, cũng là con sông đa dạng sinh học thứ 2 thế giới. Được nuôi dưỡng bởi tuyết tan trên dãy Himalaya Tây Tạng và mưa gió mùa ở Đông Nam Á. Sông Mekong dài 4200 km là nơi sinh sống của hàng nghìn loài động thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Dòng sông chính và vô số phụ lưu của nó nuôi dưỡng và hỗ trợ hơn 100 triệu người từ Trung Quốc ở phía bắc đến Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, và cuối cùng là hàng chục triệu người sống ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Nói về tên, Sông Mekong có những tên khác nhau khi chảy qua từng quốc gia một. Khi chảy qua Trung Hoa, Mekong có tên gọi là Lancang Jiang nghĩa là “Dòng sông hỗn loạn - Turbulent River”. Kh; và khi qua Lào, lại có tên Mae Nam Kongi chảy xuye6nqua Thái Lan, sông có tên Mae Kong tức Mother of Water. Sông chảy xuôi Nam xuyên qua thác Khone ngay biên giới Lào (Laos) và Cao Miên (Cambodia). Sông không có tên riêng ở Miên. Nhưng khi vào Việt Nam, sông lại chia thành hai nhánh Sông Tiền và Sông Hậu và được gộp chung lải là Sông Cửu Long, để rồi chảy ra biển qua chín cửa: Tiểu – Đại – Ba Lai – Hàm Luông – Cổ Chiên – Cung Hầu – Định An – Tranh Đề (hay Trần Đề) - Ba Thắc (Bassac). Hiện tại, cửa Ba Lai đã được che lại làm cống ngăn nước mặn, và cửa Bassac bị lấp lại do phù sa dầy đặc. Những tồ chức quốc tế về sông Mekong Cho đến nay, có 4 tổ chức quốc tế liên quan đến sông Mekong và một Định ước LHQ quy định chung vể những sông có dòng chảy xuyên qua nhiều quốc gia như sau: 1- Mekong River Committee – MRC - Ủy ban Sông Mekong Mục đích của Ủy ban là cùng nhau thương thảo và có sự đồng thuận trên bất cứ đề nghị hay dự án nào của c mỗi thành viên liên quan đến dòng sông hay ảnh hưởng đến lưu vực hai bên sông. Dự án hay đề nghị sẽ bị hủy bỏ ngay tức khắc nếu có một thành viên phản đối (giống như 3 thanh viên thường trực trong Hội đồng Bảo an LHQ). Ủy viên trong Ủy ban là các thành viên của các quốc gia có con sông Mekong chảy qua như: Trung Cộng, Miến Điện (Myanmar), Thái Lan (Thailand), Lào (Laos), Cao Miên (Cambodia), và Việt Nam. Ủy ban nầy bị giải tán từ năm 1995 vì Trung rút ra khỏi để tiến hành những đập thủy điện bậc thềm và đập chứa nước trên dòng chính của sông. 2- Mekong River Commission – MRC - Ủy hội Sông Mekong Ủy hội Mekong được thành lập vào ngày 5 tháng tư, 1995 với mục đích:” Hiệp định này đã đưa bốn quốc gia lại với nhau nhằm thúc đẩy và phối hợp quản lý và phát triển bền vững nguồn nước và các nguồn tài nguyên liên quan vì lợi ích chung của các quốc gia và hạnh phúc của người dân. Hiện tại, chỉ còn lại bốn thành viên là Thái – Lào – Miên – Việt cùng họp tác với nhau, trao đổi tin tức qua hai trạm quan trắc ở Tân Châu và Châu Đốc như dòng chảy đo đạc hang tuần, các thông số hóa học và vật lý như độ mặn, độ đục (turbidity), vi khuẩn. Riêng trạm quan trắc nằm bên kia biên giới tỉnh Vân Nam do TC quản lý không chịu trao dổi các tin tức đo đạc kể trên tại đây cho dù phải chịu nhiều áp lực quốc tế về phương diện nầy. 3- Lower Mekong Initiative – LMI - Sáng kiến Hạ lưu Sông MeKong Sáng kiến Hạ nguồn Mekong (LMI) được thành lập để hưởng ứng cuộc họp ngày 23 tháng 7 năm 2009 giữa Ngoại trưởng Hillary Clinton và Bộ trưởng Ngoại giao các nước Hạ nguồn Mekong - Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam - tại Phuket, Thái Lan. Sáng kiến Hạ nguồn sông Mekong (LMI) là sự hợp tác kéo dài một thập kỷ giữa Hoa Kỳ, Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong khu vực. Sáng kiến hỗ trợ sự hợp tác giữa các nước thành viên thông qua các chương trình giải quyết những thách thức chung trong khu vực. LMI được hỗ trợ thông qua hai trụ cột liên ngành: Trụ cột Nexus (Nexus Pillar) bao gồm môi trường, nước, năng lượng và thực phẩm, và Trụ cột kết nối (Connectivity Pillar) và Trụ cột phát triển con người (Human Development) bao gồm giáo dục, sức khỏe, trao quyền cho phụ nữ (women’s empowerment) và hội nhập kinh tế. Thông qua lịch sử gắn bó lâu dài của Hoa Kỳ với các quốc gia Đông Nam Á, ngày càng có nhiều nhận thức về các vấn đề xuyên biên giới quốc gia. Các quốc gia thuộc tiểu vùng hạ lưu sông Mekong có nhiều mối quan tâm chung khác nhau, bao gồm quản lý tài nguyên nước xuyên biên giới (quản lý tài nguyên nước vùng biên giới), các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết và đại dịch cúm, và tính dễ bị tổn thương trước các tác động tiêu cực của khí hậu thay đổi. LMI tìm cách hỗ trợ sự hiểu biết chung của khu vực về những vấn đề này và tạo điều kiện cho các phản ứng phối hợp, hiệu quả. USAID hỗ trợ LMI thông qua chương trình Kết nối Mekong thông qua Giáo dục và Đào tạo, một khoản đầu tư đặc biệt vào phát triển lực lượng lao động theo sáng kiến này. 4- Lancang-Mekong River Cooperation - Hợp tác Sông Lancang – Mekong Hợp tác Sông Lancang – Mekong ra đời dưới sự hỗ trợ của TC ngày 17 tháng 3 năm 2016. Hợp tác sông Lancang-Mekong đã được thêm vào ... sáu quốc gia nguyên thủy của Mekong River Committee ngay từ lúc ban đầu cho thấy sự phối hợp hiệu quả, hợp tác khẩn cấp ... Thủ tướng TC Lý Khắc Cường tham dự Cuộc họp các nhà lãnh đạo Hợp tác Lancang-Mekong lần thứ ba qua liên kết video tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, thủ đô TC, ngày 24 tháng 8 năm 2020. Cuộc họp do Lý Khắc Cường và Bộ trưởng Thongloun đồng chủ trì Sisoulith của Lào, và có sự tham dự của Thủ tướng Hun Sen của Campuchia, Tổng thống U Win Myint của Myanmar, Thủ tướng Prayut Chan-o-cha của Thái Lan và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của Việt Nam. Trong cuộc họp lần thứ ba của các nhà lãnh đạo Hợp tác Lancang-Mekong (LMC) vạch ra toàn diện kế hoạch hợp tác trong tương lai giữa các thành viên LMC dĩ nhiên dưới sự chủ động của TC. TT TC Lý Khắc Cường đưa ra một loạt đề nghị nhằm thúc đẩy hợp tác Lancang-Mekong trong các lĩnh vực như tài nguyên nước, kết nối và các nỗ lực chống đại dịch toàn cầu. Với tư cách là một đối tác có trách nhiệm, TC chia xẻ dữ liệu thủy văn trên sông Lancang kịp thời và minh bạch hơn với các nước hạ lưu, đồng thời thực hiện hợp tác khẩn cấp để ứng phó với lũ lụt và hạn hán. Xin nhấn mạnh ở đây điều nầy đã được ghi trong Ủy ban Sông Mekong, nhưng TC đã không thực thi! Bây giờ lại hứa! Trong năm 2016, 2019, và 2020 các nước Mekong đã phải hứng chịu nhiều đợt hạn hán nghiêm trọng. TC hứa (lại hứa!) tăng cường vận hành khoa học các hồ chứa trên sông Lancang để giảm hạn hán, điều này đã được chính phủ các nước Mekong, trong đó có Lào, cũng như cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Phải chăng vì bị áp lực của TC dù bị thiêt lại nặng nề do việc đóng đập Jinhong trong các năm kể trên? 5- UN Convention on the Law of the Non-navigational Uses of International Watercourses 1997 – Công ước LHQ về Luật Xử dụng Phi Hàng hải ở các nguồn Nước quốc tế Công ước LHQ nầy quy định những Điều khoản xử dụng nguồn nước sông Mekong như các Điều khoản sau đây: • Điều 3-Khoản 4 ” Khi một thỏa thuận về nguồn nước được ký kết giữa hai hoặc nhiều Quốc gia có nguồn nước, từ đó sẽ xác định các vùng nước ghi trong ký kết. Một thỏa thuận như vậy có thể được ký kết đối với toàn thể nguồn nước quốc tế hoặc bất kỳ phần nào của nó hoặc một dự án, chương trình hoặc việc xử dụng cụ thể ngoại trừ trong chừng mực thỏa thuận có ảnh hưởng bất lợi, ở một mức độ đáng kể, việc sử dụng bởi một hoặc nhiều Quốc gia có nguồn nước khác của nước của nguồn nước, mà không có sự đồng ý rõ ràng của họ”. • Điều 7-Khoản 1: Bổn phận không gây ra thiệt hại đáng kể - Các Quốc gia có nguồn nước, khi xử dụng nguồn nước quốc tế trong lãnh thổ của mình, PHẢI thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp để ngăn chặn việc gây ra thiệt hại đáng kể cho các Quốc gia có nguồn nước khác. • Điều 8-Khoản 1: Trao đổi dữ liệu và thông tin thường xuyên - Các Quốc gia có nguồn nước PHẢI thường xuyên trao đổi dữ liệu và thông tin sẵn có về tình trạng của nguồn nước, đặc biệt là về bản chất thủy văn, khí tượng, địa chất thủy văn và sinh thái và liên quan đến chất lượng nước cũng như liên quan dự báo. (Điều nầy TC chưa bao giờ thực hiện). • Và Điều 33 -Khoản 1: Giải quyết tranh chấp - Trong trường hợp có tranh chấp giữa hai hoặc nhiều bên liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước này, các bên liên quan, trong trường hợp không có thỏa thuận Điều 13 có thể áp dụng giữa họ, tìm cách giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với các quy định Khoản 2:” Nếu các bên liên quan không thể đạt được thỏa thuận bằng thương lượng do một trong số họ yêu cầu, họ có thể cùng tìm kiếm văn phòng tốt của, hoặc yêu cầu hòa giải hoặc hòa giải bởi bên thứ ba, hoặc xử dụng, nếu thích hợp, của bất kỳ tổ chức nguồn nước chung nào có thể đã được thành lập bởi họ hoặc đồng ý gửi tranh chấp ra trọng tài hoặc Tòa án Công lý Quốc tế”. Tóm lại, qua bốn tổ chức quốc tế về sông Mekong, chúng ta nhận thấy thái độ và sự hợp tác của TC hoàn toàn dựa trên quyền lợi của nước nầy, và phủ nhận mọi trách nhiệm trong việc khai thác sông Mekong chảy xuyên qua đát nước của họ như: • TC đã đứng ngoài Ủy hội Mekong dù quốc gia nầy phải có bổn phận và trách nhiệm vì dòng sông Mekong chảy xuyên qua hàng ngàn Km; • TC dựng ra Hợp tác Sông Lancang – Mekong chỉ nhằm mục đích kết hợp về kinh tế lưu vực theo ý kiến của họ mà thôi, hoàn toàn phủ nhận trách nhiệm đã xây dựng các đập bậc thềm ngay trên dòng chính, trái với quy định của công ước LHQ năm 1997. Từ hai lý do trên, chúng ta có thể kết luận rằng Trung Cộng là tác nhân chính trong việc tàn phá môi trường và hệ sinh thái của sông Mekong và phải chịu sự tài phán của hai cơ quan quốc tế dưới đây: • Qua những quy định trong Công ước LHQ 1997, chúng ta có thể kiện TC ra Tòa án Công lý Quốc tế - The International Court of Justice qua các Điều khoản:- Điều 3-Khoản 4; - Điều 7-Khoản 1; - Điều 8-Khoản 1; và - Điều 33 -Khoản 1 như đã nói ở phần trên. • Về Tòa án Hình sự Quốc tế - The International Criminal Court. Vào năm 1990 khi International Criminal Court – ICC - Tòa án Hình sự Quốc tế thường trực đầu tiên được thành lập trên thế giới. Với tư cách là tòa án cuối cùng, ICC được thành lập không phải để thay thế các tòa án quốc gia mà nhằm bổ túc cho các tòa án đó, tạo ra một tòa án toàn cầu sẽ xét xử những tội ác nghiêm trọng nhất mà cộng đồng quốc tế quan tâm trong đó ICC nâng mức độ tàn phá môi trường lên ngang với tội ác diệt chủng nhằm đưa ra một Bộ luật hủy diệt môi trường và hệ sinh thái là truy tố các tội phạm về môi trường nằm ngoài khu vực tài phán quốc gia. Qua tiêu chuẩn trên của ICC, đối với những vi phạm qua việc khai thác dòng sông Mekong bất hợp lệ, TC có thể bị kết án về “tội diệt chủng’ (ecocide) qua việc hủy hoại môi trường sông Mekong ảnh hưởng lên hàng trăm triệu người dân sống dọc theo lưu vực sông, trong đó có trên 17 triệu người Việt ở Đổng BẰng Sông Cửu Long. Tình trạng sông Mekong hiện tại Cá ở hồ Tonle Sap, Khu dự trữ sinh thái của UNESCO và sông Mekong là nguồn cung cấp 80% protein cho hàng triệu người Campuchia và Việt Nam sống trong vùng. Đồng bằng, “vựa lúa” của Việt Nam và cây trồng nơi đây đang nuôi sống người dân nhiều nước, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Nhưng ngày nay, Biển Hồ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, và tất cả những người trú ngụ trong lưu vực sông Mekong đang bị đe dọa bởi sự phát triển các đập thủy điện trên thượng nguồn. Các mối đe dọa mới lớn hơn nhiều so với bất kỳ trận hạn hán hoặc lũ lụt nào trong lịch sử tồn tại của chính con sông. Các dự án chuyển hướng và phát triển nguồn nước dọc theo sông Cửu Long và các nhánh của sông không chỉ đe dọa đến đời sống, nghề cá và nông nghiệp của cư dân Đồng bằng mà còn đối với hệ sinh thái sông và Đồng bằng. Các nhà khoa học và kỹ sư trên khắp thế giới đang lo ngại về sự tàn phá môi trường đối với Đồng bằng do các dự án phát triển ở xa thượng nguồn gây ra. Các dự án này bao gồm phát triển thủy điện quy mô lớn ở Vân Nam thuộc TC tức đập Jinghong, và Lào, đập Sayabury cùng với các dự án chuyển dòng nước sông Mekong lớn do Thái Lan đề xuất. Tuy nhiên, chi phí kinh tế và hậu quả môi trường của các dự án đang phải gánh chịu nặng nề nhất bởi những người sống và canh tác xa hơn ở hạ lưu Đồng bằng sông Cửu Long. Những người này không có tiếng nói trong quá trình ra quyết định dự án, không thu được lợi ích nào từ các dự án này và chịu gánh nặng lớn nhất về tác động của họ. Chuông báo động hiện đang vang lên ở Biển Hồ và Đồng bằng sông Cửu Long (Dân số theo thống kê 2019 ở ĐBSCL là 17.273.630 sống trên một diện tích 40.547 Km2. Mực nước tại trạm quan trắc Tân Châu, vào cuối mùa mưa năm 2010, đã xuống mức kỷ lục 95 năm. Cùng với việc giảm mạnh mực nước sông Mekong là sản lượng khai thác đánh bắt thủy sản cũng giảm tương tự và làm mất đi lượng phù sa sông giàu dinh dưỡng của sông Mekong vốn cần thiết cho canh tác lúa và rất quan trọng để kiểm soát xói mòn. Mực nước ngầm ở đồng bằng hiện đang giảm xuống do thiếu nước sông có sẵn để nạp lại tầng chứa nước. Nước mặn đã xâm thực tới 90 km vào đồng bằng sông Cửu Long ở nhiều nơi (Nhiễm mặn đo đạc ngày 10/3/2021: - Vàm Cỏ Đông và Tây (90Km) – Cửa Tiển, Cửa Đại (60Km) – Cổ Chiên (75Km) – Sông Hậu (65Km) – Sông Cái lớn (55Km)), đe dọa làm ô nhiễm nguồn cung cấp nước ngầm hiện có và khiến hàng triệu ha đất canh tác không thể sản xuất). Các dự án chuyển dòng nước và đập thủy điện hiện có và được đề nghị sẽ làm thay đổi vĩnh viễn chu trình thủy văn của lưu vực sông Mekong. Ở thượng nguồn, hàng nghìn km vuông rừng chung quanh đập có thể bị ngập do các hồ chứa. Ở hạ lưu, đất trồng trọt của vùng ngập lũ có thể bị thiếu nước và phù sa màu mỡ do lũ lụt hàng năm cung cấp. Tính từ năm 2010 cho đến 2020, có khoảng 1,3 triệu người đã phải di dời vì hạn hán và nhiễm mặn (tỷ suất di cư 39.9% năm 2019). Mực nước ở hai trạm quan trắc Tân Châu và Châu Đốc đo đạc ngày 1/3/2021 lần lượt là 1,45 m và 1,60 m so với trên dưới 2,50 m vào năm 2010! Các chuyên gia trên khắp thế giới đã xác định rằng nếu một người cướp nước của một con sông và làm thay đổi các chu kỳ tự nhiên của nó, thì con sông đó sẽ chết. Nghề cá, sự phong phú về nông nghiệp và môi trường của Biển Hồ, và Đồng bằng sông Cửu Long phải được bảo vệ thay mặt cho tất cả người dân Đông Nam Á. Sông Mekong - hệ sinh thái ven sông lớn không bị cản trở cuối cùng còn sót lại trên thế giới phải được bảo tồn và an ninh lương thực của 100 triệu người nghèo cần được bảo vệ. Do đó, mọi lời kêu gọi hành động trong lúc nầy là rất cần thiết để bảo vệ hệ sinh thái sông Mekong và người dân của trong vùng, cũng như chuyển đạt các thỉnh nguyện thư đến: • Chính phủ Trung Cộng, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia và Việt Nam cùng Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) và Ủy hội sông Mekong (MRC) • Ngân hàng quốc tế - World Bank - WB • Ngân hàng Phát triển Châu Á – Asian Development Bank – ADB • Các quốc gia tài trợ và các cơ quan viện trợ quốc tế • Các tập đoàn kinh tế và nhà đầu tư đa quốc gia Vài đề nghị Đề nghị các cơ quan liên quan đến nguồn nước sông Mekong và quốc tế, các nhà hoạch định chính sách và cư dân của lưu vực sông Mekong và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tuân thủ và duy trì các nguyên tắc dưới đây để phát triển và khai thác lưu vực sông Mekong một cách nghiêm chỉnh và có trách nhiệm: 1. Rằng lệnh cấm được áp dụng ngay lập tức đối với các dự án chuyển dòng nước, đập và thủy điện trên sông Mekong, ưu tiên hàng đầu của các cơ quan quốc gia và quốc tế là phát triển dữ liệu cơ sở khoa học về sông Mekong, thủy văn và hệ sinh thái của sông. 2. Rằng tất cả các nhà phát triển dự án Mekong đều phải đánh giá tác động môi trường toàn diện và một hệ thống quản lý môi trường tuân theo tiêu chuẩn ISO 14000 sẽ được yêu cầu đối với tất cả các nhà phát triển dự án Mekong. Nghiên cứu Tác động Môi trường (Environmental Impact Assessment - EIA) sẽ được thực hiện bởi các nhà khoa học độc lập và có trình độ, không có xung đột lợi ích nhóm thực hiện dự án. 3. Rằng tất cả các dự án phát triển và chuyển hướng sông Mekong, bất kể nguồn tài chính và quyền sở hữu của chúng, phải được tôn trọng và trao "quyền được giáo dục" (right to be educated) cùng với "quyền được biết" (the right to know) cho tất cả người dân bị ảnh hưởng. Những người dân bị ảnh hưởng phải được cung cấp đầy đủ tin tức tin và kiến thức cần thiết để hiểu thiết kế của dự án, xem xét chi phí và lợi ích, đồng thời tự đánh giá các tác động lâu dài của dự án. 4. Rằng tất cả các nhóm dân cư bị ảnh hưởng trên toàn lưu vực, không liên quan đến biên giới quốc gia, đều có quyền tham gia vào bất kỳ quyết định của bất cứ dự án nào. 5. Rằng tất cả các cơ quan tiến hành hoạt động kinh doanh của mình theo nguyên tắc minh bạch và công bố đầy đủ như:1 - Tất cả các kế hoạch phát triển, thỏa thuận, 2- Dữ liệu cơ bản về môi trường, 3- Báo cáo đánh giá tác động môi trường, 4- Nghiên cứu khả thi phải được công khai và có sẵn để cộng đồng khoa học quốc tế xem xét các tổ chức phi chính phủ và bởi các công dân tư nhân. 6. Rằng việc xây dựng tất cả các chính sách và quyết định, dự án cũng như các quy tắc và quy định của Ủy hội sông Mekong và tất cả các cơ quan quốc gia thành viên sẽ bao gồm một chương trình tham gia của công chúng với quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí được đảm bảo. 7. Các chủ đầu tư, chủ sở hữu và các cơ quan phát triển phải chịu trách nhiệm về tất cả các tổn thất và thiệt hại về môi trường theo kế hoạch và ngoài kế hoạch do các dự án của họ gây ra và những thiệt hại về tài sản, thu nhập và sinh kế của người dân. 8. Rằng bốn quốc gia hạ lưu sông Mekong: Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam sửa đổi thỏa thuận năm 1995 để tuân thủ chặt chẽ ngôn ngữ của Luật Quốc tế về Xử dụng Phi Hàng hải của LHQ năm 1997 9. Rằng Trung Cộng và Myanmar cần phải gia nhập trở lại Ủy Hội Sông Mekong (Mekong River Commission - MRC) như trước năm 1995 trong Ùy ban Sông Mekong (Mekong River Committee - MRC) vì đã có chung dòng sông Mekong chảy xuyên qua. Hai quốc gia nói trên cần tham gia với bốn nước hạ lưu sông Mekong nói trên, và cùng nhau đàm phán một thỏa thuận về phát triển và bảo vệ sông Mekong trong thế kỷ 21. Thay lời kết Qua những nhận định trên, chúng ta dù nhìn qua lăng kính nào đi nữa thì ảnh hưởng của việc xây đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong sẽ thay đổi toàn diện hệ sinh thái ở vùng hạ lưu. Và hai quốc gia phải gánh chịu nhiều tác hại nhứt trong Ủy hội Sông Mekong là Cambodia và Việt Nam. Song song với việc trên, sự cố ý hay vô tình của các nước ở thượng nguồn càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng và sông Cửu Long của chúng ta ngày càng bị tác hại lên môi trường càng quyết liệt hơn nữa. Đặc biệt những nguy cơ ảnh hưởng lên đời sống hiện tại và tương lai của người dân sống ở Đồng bằng Sông Cửu Long ngày càng nặng nề hơn do những chính sách phát triển thiếu điều nghiên kỹ lưỡng về các tác động môi trường trong từng kế hoạch. Đó là: - Hạn hán – Nhiễm mặn – Sạt lỡ hai bên bờ sông do khai thác cát – Đất bị hoang hóa và sa mạc hóa do việc tận dụng khai thác đất – Xây dựng đê bao làm nước bị bị chuyển dòng, một nguyên nhân làm tăng thêm việc sạt lỡ v.v… Trước những nguy cơ hủy diệt môi trường và an toàn thực phẩm của ĐBSCL, chúng ta chỉ mong tiếp tục gióng lên tiếng chuông báo động kêu gọi tất cả những đối tác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp cùng nhau ngồi lại để cứu nguy Sông Mekong hầu gìn giữ cân bằng nguyên thủy cho hệ sinh thái của dòng sông nầy. Làm được như thế chúng ta sẽ bảo vệ được sự ổn định kinh tế và chánh trị của hơn 17 triệu người con Việt sống trong vùng. Chúng ta cũng đã đồng ý rằng dù nhìn vấn đề qua lăng kính nào đi nữa thì ảnh hưởng của việc xây đập thủy điện lên hệ sinh thái ở lưu vực sông Mekong và hai quốc gia phải gánh chịu nhiều tác hại nhất trong Hội Đồng sông Mekong là Cam Bốt và Việt Nam. Song song với việc trên, sự vô tình hay cố ý của các nước ở thượng nguồn càng làm vấn đề thêm trầm trọng và sông Cửu Long của chúng ta ngày càng bị tác hại trên môi trường càn quyết liệt hơn lên. Đặt biệt những nguy cơ ảnh hưởng lên đời sống hiện tại và tương lai người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nặng nề hơn do những chính sách phát triển kinh tế thiếu điều nghiên kỹ lưỡng về các tác động môi trường trong từng kế hoạch của CSBV. Trước những nguy cơ hủy diệt môi trường và an toàn thực phẩm ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân Đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi không có tham vọng tìm phương cách giải quyết vấn đề, nhưng chúng tôi chỉ mong gióng lên tiếng chuông báo động kêu gọi tất cả những đối tác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp cùng nhau ngồi lại để cứu nguy con sông Mekong, con sông lớn thiên nhiên cuối cùng của thế giới hầu gìn giữ cân bằng nguyên thủy cho hệ sinh thái của dòng sông này và làm như thế nào để chúng ta sẽ bảo vệ được sự ổn định kinh tế và chính trị của người dân trong vùng. Trước những vấn đề sống còn của người Việt, các đề nghị và góp ý của chúng tôi trong hiện tại và tương lai đều đặt trọng tâm vào các căn bản lý luận sau đây để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của nhân loại. Trước hết vì lợi ích lâu dài của người dân sống trong vùng hạ lưu, mọi người trong chúng ta đều nhận thấy rằng Việt Nam cần phải hợp tác trong công bằng và hợp lý để bảo vệ quyền lợi của đất nước. Đó là những vấn đề trôi chảy xuyên suốt cho mọi chế độ chính trị, mọi khung cảnh kinh tế và môi trường. Trên cơ sở đó các chính sách và kế hoạch khai thác đồng bằng sông Cửu Long cần phải hữu hiệu về mặt kinh tế và hài hòa về mặt môi sinh và xã hội là những mối quan tâm và trách nhiệm chung của mỗi người con Việt. Là những chuyên viên ở nước ngoài có cơ hội tiếp cận với các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và nhất là có sự độc lập trong tư duy khoa học, chúng tôi không khỏi quan ngại đến tình trạng khai thác phản kinh tế và phi khoa học trong vùng đất phi nhiêu này của đất nước. Căn cứ trên những phân tích khoa học kinh tế, xã hội và môi trường. chúng tôi nhận thấy rằng vùng châu thổ này đang đối diện trước những nguy cơ to tát lâu dài. Nếu không có quyết tâm và định hướng đúng đắn thì trong tương lai dân chúng Việt Nam sẽ phải hứng chịu nhiều thiệt hại nặng nề. Do đó, việc kiện TC ra Tòa án Quốc tế (ICC) có thể là một phương án khả thi hoặc hiệu quả trong trường hợp này, vì ICC chánh yếu giải quyết các tội phạm quốc tế như tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, và tội ác diệt chủng, như trong trường hợp kiểm soát dòng nước sông Mekong nhằm triệt hạ vựa lúa đồng bằng song Cửu Long của miền Nam. Việc kiện TC tại các cơ quan quốc tế sẽ đụng phải nhiều thách thức, bao gồm vấn đề chính trị và pháp lý. TC có thể phản đối và không công nhận các quyết định của các cơ quan quốc tế như trong trường hợp Phi Luật Tân kiện TC qua phán quyết của ICC năm 2016. Tuy nhiên, việc thúc đẩy hợp tác quốc tế và kêu gọi cộng đồng quốc tế lên tiếng có thể giúp tạo áp lực lên TC để tuân thủ các quy định quốc tế và cải thiện quản lý tài nguyên nước sông Mekong. Dựa trên các quan điểm này, qua những chủ đề đã được đề cập đến trong buổi hội thảo chính là lời cảnh báo cho dân cư châu thổ vùng ĐBSCL và cùng đóng góp với những chuyên viên có trách nhiệm trong nước. Chúng tôi hy vọng từ buổi hội thảo này chúng ta sẽ có một cách nhìn đúng đắn và can đảm hơn về thể cách bảo vệ và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Mọi chính thể nào rồi cũng qua đi. Mọi chính quyền nào rồi cũng phải chấm dứt. Cuối cùng chỉ còn lại Đất và Nước của chúng ta và thế hệ tương lai sẽ nhìn lại và quan sát hành động của chúng ta hôm nay. Ngày xưa ta nói: Uống nước phải nhớ nguồn Ngày nay ta phải nói: Uống nước phải bảo vệ nguồn Và thế hệ tương lai sẽ nhìn lại và phán xét hành động của chúng ta ngày hôm nay! Trân trọng và cám ơn Quý vị đã lắng nghe. Mai Thanh Truyết Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam – VEPS Houston – April 2025 Ghi chú: 1- Hội Nghị Thượng Đỉnh G7 lần thứ 50 đã được tổ chức tại Borgo Egnazia, Apulia, vào ngày 13-15 tháng 6 năm 2024, đánh dấu thời điểm các nhà lãnh đạo thế giới thông qua các thỏa thuận được đàm phán trong suốt năm và vạch ra lộ trình giải quyết cho các thách thức toàn cầu. Một trong những thách thức đáng lo ngại đó là nạn diệt chủng, tội ác của mọi tội ác. Cũng cần nên ghi nhận rằng Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken gần đây đã tuyên bố rằng Bắc Kinh đang tiếp tục phạm tội diệt chủng và tội ác chống nhân loại đối với người Duy Ngô Nhĩ và các nhóm thiểu số Hồi Giáo khác ở tỉnh Tân Cương phía tây nước này. The 50th G7 Summit held in Borgo Egnazia, in Apulia, on June 13-15, 2024. It marks a moment for world leaders to endorse agreements negotiated throughout the year and chart a course for tackling global challenges. One such troubling challenge is genocide, the crime of all crimes. We would like to recognize that U.S. Secretary of State Antony Blinken has recently announced that Beijing is continuing to commit genocide and crimes against humanity against Uyghurs and other Muslim minorities in its western Xinjiang province. 21- Vấn đề xây đập trên thượng nguồn sông Mekong là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, liên quan đến nhiều yếu tố như môi trường, an ninh nguồn nước, và quyền lợi của các quốc gia trong lưu vực sông. Sông Mekong là nguồn nước quan trọng cho nhiều quốc gia Đông Nam Á, bao gồm Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Việc kiện TC ra Tòa án Quốc tế (ICC) có thể là một phương án khả thi hoặc hiệu quả trong trường hợp này, vì ICC chánh yếu giải quyết các tội phạm quốc tế như tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, và tội ác diệt chủng (như trong trường hợp kiểm soát dòng nước sông Mekong nhằm triệt hạ vựa lúa đồng bằng song Cửu Long của miền Nam. Vấn đề xây đập và quản lý nguồn nước thuộc về lĩnh vực luật quốc tế khác, đặc biệt là luật về nguồn nước quốc tế và các hiệp định liên quan. Thay vào đó, có thể xem xét các phương án sau: 1. Đàm phán và hợp tác đa phương: Các quốc gia trong lưu vực sông Mekong có thể tiến hành các cuộc đàm phán đa phương để đạt được thỏa thuận về việc sử dụng và quản lý nguồn nước. Các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc có thể hỗ trợ trong việc tạo ra một cơ chế hợp tác hiệu quả. 2. Sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế: Các cơ chế giải quyết tranh chấp dưới sự bảo trợ của các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc có thể được sử dụng. Ví dụ, Ủy ban Quốc tế về Nguồn nước (International Water Law) có thể đóng vai trò trong việc điều phối và giải quyết các tranh chấp liên quan đến nguồn nước. 3. Tăng cường sự tham gia của các tổ chức và nhóm nghiên cứu: Các tổ chức nghiên cứu và nhóm bảo vệ môi trường có thể cung cấp thông tin khoa học và phân tích về tác động của các đập đối với môi trường và cộng đồng. Sự tham gia của các tổ chức này có thể tạo ra áp lực và hỗ trợ trong việc thúc đẩy giải pháp bền vững.