Danh từ toàn cầu hóa đã trở thành một từ quen
thuộc trong ngôn ngữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nói đến toàn cầu
hóa, đa số đều liên tưởng đến sự toàn cầu hóa về kinh tế, chính trị, kỹ thuật,
phát triển và môi sinh... Nhưng còn một yếu tố thiết nghĩ cần phải nhấn mạnh thêm
trong lãnh vực văn hóa là vấn đề ngôn ngữ. Do đó, nội dung của bài viết nầy nói
lên một vài mối quan tâm về sự toàn cầu hóa ngôn ngữ, hay đặc biệt hơn nữa, Anh
ngữ trong hiện tại là một sinh ngữ quốc tế có khả năng áp đặt và ảnh
hưởng lên văn hóa của các quốc gia trên toàn thế giới.
Việc xử dụng Anh ngữ trên thế giới
Trên thế giới, hiện có khoảng trên dưới 500 triệu
người đang sử dụng tiếng Anh như là một quốc ngữ, và khoảng phân nửa dân số dùng Anh ngữ như
là một ngôn ngữ thứ hai. Hiện tại, số lượng người đang học tiếng Anh tại các quốc
gia tăng dần và theo dự báo sẽ có phân nửa nhân loại sẽ thông thạo tiếng Anh vào
năm 2050. Sự áp dụng tiếng Anh vào chương trình giáo dục của các quốc gia đã trở
thành một nhu cầu cần thiết trước tiến trình toàn cầu hoá ngày hôm nay.
Dù phải chấp nhận hay phủ nhận, Anh ngữ hoàn toàn đã được xem như một “linga
franca” (ngôn ngữ giao tiếp) cho truyền thông toàn cầu. Câu “Anh ngữ là một sinh ngữ quốc tế” đã
được Brian Paltridge phát biểu đầu
tiên trong kỳ hội nghị về ngôn ngữ tại Đông Tây Học viện thuộc đại học Hawai
năm 1978. Từ đó, có rất nhiều thảo luận đã được khơi mào về tính chất phức tạp trong
việc xử dụng Anh ngữ như là một ngôn ngữ của thế giới.
Tính phức tạp nầy thể hiện trong cả hai phần lý thuyết và thực hành. Và
cũng bắt nguồn từ đó, có rất nhiều bài viết trong các đại học lưu ý và cảnh báo
về tính áp đặt của Anh ngữ. Dư luận quần chúng khắp nơi cũng bắt đầu lưu
tâm đến vấn nạn nầy vì quan niệm rằng sự dung nạp Anh ngữ vào chính quốc có thể
làm sói mòn các giá trị văn hoá của dân tộc bản địa.
Nói cho rốt ráo, việc sử dụng Anh ngữ đã tăng trưởng và dự phần trong
hầu hết các lãnh vực như hội nghị, thương mãi, giáo dục, nghiên cứu, điện ảnh,
âm nhạc, du lịch, và ngay cả trong các ngành đặc biệt như hàng không, hàng hải,
tin học và truyền thông. Hiện tượng nầy đã xảy ra khắp toàn cầu từ các thành
phố văn minh ở Âu châu cho tới các vùng thôn dã của các quốc gia ở Phi châu hay
Á châu. Cho dù ở bất cứ nơi nào, cho dù có nhiều dị biệt về văn hóa, phong tục
và tôn giáo, Anh ngữ cũng đã được sử dụng nhuần nhuyễn dưới hai dạng nói và
viết để thông đạt đến các mục tiêu truyền thông. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới một góc độ khác, nhiều người
đã bắt đầu nghi ngờ sự tiện dụng của Anh ngữ sẽ trở thành một nhân tố tiêu cực
trong tiến trình toàn cầu hóa của sinh ngữ nầy.
Kể từ các thế kỷ trước, và tương tự như các sinh ngữ thực dân như Pháp,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh ngữ cũng được sử dụng như một sinh ngữ chính ở các
xứ thuộc địa. Học sinh ở những quốc gia không nói tiếng Anh, đã được cổ súy và
khuyến khích học Anh ngữ song hành với các ngoại ngữ khác để được tiếp cận với
văn minh và văn hóa Tây phương.
Việt Nam: Trong trường hợp Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa và ngôn ngữ Pháp rất quan trọng kể
từ cuối thế kỷ 19. Vào giữa thế kỷ 20 có thể nói rằng hầu hết trí thức từ Bắc
chí Nam đều xử dụng Pháp ngữ một cách rành rọt. Trong chương trình giáo dục trung học và đại
học Việt Nam thời đó, Pháp ngữ là một ngôn ngữ chính dùng cho việc giảng dạy.
Nhưng cho đến niên học năm 2000, trong kỳ thi tốt nghiệp trung học trên toàn quốc với
tổng số 528.380 học sinh, chỉ còn 18.006 thí sinh chọn Pháp ngữ, trong khi đó
có 471.585 thí sinh chọn Anh ngữ (và chỉ trên dưới 10 ngàn chọn Nga ngữ
làm sinh ngữ chính). Nói tóm lại, Anh ngữ đã chiếm lĩnh toàn cầu trong hầu hết
mọi lãnh vực trên hành tinh nầy.
Đối với Việt Nam, tâm lý chuộng Anh ngữ đã xâm nhập lên mọi sinh hoạt
của người dân, đặc biệt nhất là ở các thành phố lớn. Hơn bao giờ hết, xã hội
Việt Nam
đã cho chúng ta thấy một hình ảnh rạch ròi nhất trong tinh thần chuộng Anh ngữ
ngày hôm nay. Muốn đạt đến đỉnh cao địa vị kinh tế-chính trị-xã hội, ngoài
tính “hồng hơn chuyên” người dân cần phải “thông thạo” Anh ngữ.
Hầu hết những cửa ngõ cho tương lai đều phải bắt đầu bằng Anh ngữ. Từ đó một số bản sắc dân tộc có thể lần lần biến mất do sự du nhập vào
xã hội những “văn minh” Tây phương không phù hợp với tinh thần Việt Nam .
Thay lời kết
Để kết luận, dù chiếc huy chương nào cũng có hai mặt, nhưng thiết nghĩ cũng
cần phải cân nhắc để có thể giữ thế thăng bằng cho xã hội. Nếu nhìn trên bình diện tích cực, hiện tượng toàn cầu hóa Anh ngữ đã
giải quyết một phần nào vấn nạn nghèo đói ở một số quốc gia đang phát triển,
làm cho đời sống của người dân ở các quốc gia nầy từng bước được nâng cao hơn
về nhiều mặt.
Nhưng nếu nhìn về một khía cạnh khác, nếu chính quyền bản xứ không sáng
suốt, tâm lý và dân trí người dân không được chuẩn bị và cân nhắc kỹ lưỡng thì việc tòan cầu hóa ngôn ngữ sẽ làm đão lộn cả hệ thống văn hóa-xã hội- kinh tế-chính trị
của những quốc gia đang phát triển.
Việt Nam đã có truyền thống văn hóa lâu
đời và bền vững. Nhưng lịch
sử cũng đã chứng minh rằng, trong thời Pháp thuộc và trong chiến tranh gần đây
xã hội-phong hóa Việt Nam đã bị ô nhiễm, đã có nhiều rạn nứt và xáo trộn không
những vì hệ lụy của chiến tranh mà cũng vì tinh thần “vọng ngoại” trong đó
Pháp ngữ ngày xưa và Anh ngữ ngày nay là một trong những thước đo giá trị trong
nấc thang xã hội Việt Nam.
Sự xâm lăng của tiếng
Anh đối với Việt Nam là một cơ hội
và cũng là một nguy cơ có thể lấy mất bản chất
dân tộc Việt. Tiếng Anh đồng nghĩa với sự tiến bộ, phát triển và tiếng Việt bị hiểu
là lạc hậu, không thức thời theo suy nghĩ của một số không nhỏ người Việt ở hải
ngoại cũng như ở quốc nội. Việc du nhập tiếng Anh vào Việt Nam là một con
dao hai lưỡi. Biết sử dụng thì sẽ giúp cho đất nước tiến bộ rất nhiều, còn
không sẽ mất bản sắc dân tộc như Phi Luật Tân. Qua quá trình hội nhập tiếng Anh
trong vài thập niên gần đây, thiết nghĩ Việt Nam có nguy cơ trở thành Phi hơn
là Nhật Bản. Một khi dân tộc bị đánh mất bản sắc của mình thì chỉ còn
là con rối, chờ cho ngưới ta dựt giây mà thôi.
Ngôn ngữ quốc gia là hồn nước và
phải cần được bảo vệ để tránh các áp đặt hay trấn áp như một số nhà ngôn ngữ
học cảnh báo do sự toàn cầu hóa ngôn ngữ gây ra. Khái niệm về sự kiện nầy đã là một thực tế
đang diển tiến trên toàn cầu. Do đó, muốn tránh khỏi sự cuốn hút của sức mạnh
toàn cầu hóa trên, các quốc gia đang phát triển cần phải có một tầm nhìn dân tộc và nhân bản mới hy
vọng bảo tồn được hồn nước cho dân tộc.
Nên nhờ rằng, dù Anh ngữ là một
ngôn ngữ toàn cầu nhằm mục đích thông tin, trao đổi và đối thoại giữa các quốc
gia đối tác trên thế giới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải hội
nhập và áp đặt hoàn toàn Anh ngữ trong giao dịch mà quên đi ngôn ngữ của chính
quốc. Bỡi lẽ, ngôn ngữ chính quốc mới thực sự thể hiện được hồn nước và văn hoá dân
tộc. Đó mới đích thực thể hiện tính đặc thù của từng quốc gia.
Đừng vì lợi nhuận trước mắt, đừng
vì nhu cầu phát triển kinh tế cấp bách, và cũng đừng vì phải bảo vệ chiếc ghế quyền
lực mà bỏ quên hồn nước thiêng liêng của dân tộc.
Mai Thanh
Truyết
Trích từ sách “TÔI”
sẽ xuất bàn vào múa Vu Lan 2919