Friday, January 31, 2025
Câu chuyện Môi trường
Dùng Ốc, Sò để Thanh lọc Nước
1- Sò có thể làm sạch nước không?
Bạn có biết rằng một con sò nước ngọt có thể bơm và lọc từ 8 đến 15 Gallon nước mỗi ngày không? Đúng vậy! Sò nước ngọt là một trong những bộ lọc mạnh nhất mà chúng ta có trong lưu vực sông của mình và chúng cải thiện đáng kể chất lượng nước trong môi trường của chúng.
Giống như họ hàng nước mặn của chúng, sò nước ngọt ăn sinh vật phù du và những thứ nhỏ khác bằng cách lọc nước chảy qua chúng. Điều này không chỉ lấy đi những chất dinh dưỡng ra khỏi nước mà còn loại bỏ các mảnh vụn có khả năng gây hại như bùn và tảo, giúp nước sạch hơn cho mọi người.
Sò ăn tất cả các hạt lơ lửng (suspended particles) trong nước không?
Chúng lọc ra các hạt lơ lửng trong nước. Chính xác thì chúng ăn gì vẫn còn là một điều bí ẩn và có lẽ tùy thuộc vào loài và độ tuổi của sò. Các mảnh vụn (detritus), thực vật phù du (phytoplankton), động vật phù du (zooplankton), tảo cát (diatoms), vi khuẩn (bacteria) và các vi sinh vật khác đều được sò lọc ra khỏi nước.
Bộ phận nào của sò chịu trách nhiệm lọc nước?
Khi chúng bơm và lọc nước qua mang để kiếm ăn và thở, sò lưu trữ hầu hết mọi thứ khác đi qua, và đó cũng là lý do tại sao các quy tắc sức khỏe nghiêm ngặt được áp dụng đối với những con sò được dùng làm thực phẩm cho con người.
Việc áp dụng các đặc điểm của sinh vật cung cấp các kỹ thuật thanh lọc nước thải chi phí thấp như ốc, sò là một phương pháp thanh lọc “xanh” hiện đang được ứng dụng ở một vài quốc gia Đông Âu.
Sò là bộ lọc nước tự nhiên có thể được sử dụng để tăng cướng phầm chất nước và thanh lọc nước thải.
• Nhà máy thanh lọc nước uống có thể sử dụng sò để theo dõi phẩm chất nước uống bằng cách quan sát phản ứng hành động của chúng đối với các chất ô nhiễm sau một thời gian sống trong nước. Ví dụ, khi sò phát hiện ra chất ô nhiễm, chúng có thể kẹp chặt vỏ và làm chậm quá trình trao đổi chất của chúng. Vì vậy, nếu chúng ta gắn vào phía trên võ sò một hệ thống cảm biến (sensor) thu thập dữ liệu để tự động theo dõi “phản ứng” của sò và kết hợp vào hệ thống cảnh báo sớm sinh học.
• Nhà máy thanh lọc nước thải có thể sử dụng sò kết hợp với tảo (rong) và vi khuẩn để thanh lọc nước thải. Ví dụ, sò có thể lọc tảo được nuôi bằng chất dinh dưỡng từ nước thải. Cũng có thể thanh lọc sò bằng vi khuẩn để cải thiện hoạt động của enzyme tiêu hóa trong sò, từ đó nâng cao phẩm chất nước.
2- Một ứng dụng xanh
Mặc dù hầu hết các chuyên gia về nước đều biết về sự cân bằng tinh tế giữa hệ thống của con người và các chỉ số sinh học, nhưng ý tưởng dựa vào cơ chế của sò để bảo vệ người dân thành phố thoát khỏi nguồn nước uống bị ô nhiễm đã làm cho niềm tin vào thiên nhiên ngày càng mãnh liệt hơn nữa.
Có thể nói rằng các đội an ninh hàng đầu của Ba Lan là... một đám CON SÒ?
Trên 50 cơ sở thanh lọc nước, các đội gồm 8 anh hùng nhỏ bé đang sống cuộc sống tuyệt vời nhất trong các bể nước, nhưng chúng không chỉ ở đó để thư giãn, mà chúng thực sự đang cứu sống con người!
Mỗi con sò được trang bị cảm biến và kết nối với máy tính để theo dõi mọi hành động của chúng. Các con sò được giữ trong điều kiện giống hệt môi trường sống tự nhiên của chúng, cho phép chúng hành xử bình thường.
Đây là phần điên rồ: Khi có 4 hoặc nhiều con sò trong một đội đồng thời đóng vỏ lại, điều đó có nghĩa là chúng đã phát hiện ra tạp chất trong nước! Và điều này sẽ kích hoạt việc ngừng cung cấp nước tại cơ sở đó!
Và điều này còn tuyệt hơn, sau ba tháng bảo vệ hàng triệu người, những anh hùng nhỏ bé này được VỀ HƯU trở lại môi trường sống tự nhiên của chúng!
Trong khi chúng ta đang sống ở năm 2025, Ba Lan đang biến 400 con sò thành những vệ sĩ bảo vệ phẩm chất nước!
Nhưng nghiêm chỉnh mà nói... thật đáng kinh ngạc khi thiên nhiên luôn có những giải pháp tốt nhất phải không? Những sinh vật nhỏ bé này có thể phát hiện độc tố nhanh hơn bất kỳ cảm biến nào do con người chế tạo!
Nhà máy thanh lọc nước Dębiec ở Poznań, Ba Lan, sử dụng “trí thông minh tự nhiên” của sò làm cảm biến để phát hiện những thay đổi về chất lượng nước ở Sông Warta, nguồn cung cấp nước mặt chính của thành phố.
Với khả năng chịu đựng hóa chất ô nhiễm thấp, các con sò nổi tiếng với việc kẹp chặt vỏ khi phẩm chất nước kém. Và nhà máy thanh lọc nước đã thiết kế một hệ thống cảm biến bằng cách kết hợp khả năng phát hiện ô nhiễm của sò với công nghệ máy tính.
Tám con sò có cảm biến dán trên vỏ hoạt động với một mạng lưới máy tính. Nếu nước sạch, sò sẽ mở; nếu nước bị ô nhiễm, chúng sẽ khép lại, báo hiệu cho các cảm biến rằng phẩm chất nước thấp.
Đây là một cơ chế tiện dụng đối với một vùng nước ô nhiễm khét tiếng, sông Warta chảy qua một số khu vực đông dân nhất ở Ba Lan và một số khu công nghiệp lâu đời nhất của đất nước nầy.
Các kỹ sư tại Nhà máy xử lý nước Dębiec được cảnh báo về các vấn đề về phẩm chất nước thông qua các con sò, các cảm biến của chúng hoạt động kết hợp với hệ thống máy tính theo dõi các thông số được theo dõi thông qua các cảm biến nhân tạo.
Và mặc dù hệ thống được thiết kế để tính đến những thay đổi có thể xảy ra trong hoạt động của con sò, nhưng nếu bốn con sò cùng đóng lại, hệ thống sẽ tự động tắt.
Theo ZMEScience, dự án AquaNES được Liên minh châu Âu hỗ trợ với mục đích tích hợp các yếu tố dựa trên thiên nhiên vào các hệ thống quản lý nước đã nghiên cứu các sinh vật như các loại sò.
"Những con sò cần cù đã được ca ngợi trong một bộ phim tài liệu Gruba Kaśka, do Julia Pełka đạo diễn, khám phá việc sử dụng các chỉ số sinh học để phục vụ cho con người: "Bằng cách thực hiện bộ phim này, tôi muốn cho thấy sự phụ thuộc của con người vào thiên nhiên. Tôi nghĩ thật tuyệt vời khi con người sử dụng sò để tạo ra một hệ thống cảnh báo chống lại nguy hiểm. Bạn có thể nói rằng con người sử dụng chúng để bảo vệ bản thân".
Nhược điểm cần lưu ý:
• Phương pháp này không thay thế được các kiểm tra hóa học hoặc vi sinh học chi tiết.
• Sò chỉ phản ứng với một số loại ô nhiễm cụ thể, nên cần phối hợp với các công cụ khác để đảm bảo an toàn toàn diện trong việc thanh lọc nước uống.
• Phạm vi phản ứng hạn chế: Sò không phản ứng với mọi loại ô nhiễm (ví dụ, các chất độc không tan trong nước có thể không ảnh hưởng đến chúng).
• Yêu cầu duy trì: Cần đảm bảo môi trường sống phù hợp cho sò trong hệ thống giám sát.
Tám con trai có cảm biến dán trên vỏ hoạt động với một mạng lưới máy tính. Nếu nước sạch, trai sẽ mở; nếu nước bị ô nhiễm, chúng sẽ khép lại, báo hiệu cho các cảm biến rằng chất lượng nước thấp.
Tóm lại, phương pháp sử dụng sò trong việc giám sát phẩm chất nước là một ví dụ điển hình về việc áp dụng các nguyên lý sinh thái học vào thực tiễn. Dưới đây là những thông tin chi tiết hơn về cách hoạt động, ứng dụng, và hiệu quả của phương pháp này:
3- Cách thiết kế hệ thống giám sát dùng sò
3.1- Lựa chọn loài phù hợp:
• Các loài sò hoặc nhuyễn thể như Dreissena polymorpha (sò vằn), một loài thường được dùng ở châu Âu, bao gồm Ba Lan, vì khả năng lọc nước vượt trội và độ nhạy cao với chất ô nhiễm.
• Các loài bản địa được ưu tiên để tránh xâm phạm hệ sinh thái địa phương.
• Cảm biến gắn vào sò: Cảm biến nam châm hoặc quang học được gắn nhẹ vào hai bên vỏ sò để theo dõi trạng thái mở/đóng của chúng. Hệ thống cảm biến sẽ ghi nhận mọi sự thay đổi trong hành vi của sò, đặc biệt khi chúng đóng vỏ đột ngột hoặc liên tục, dấu hiệu của sự ô nhiễm trong nước.
• Kết nối dữ liệu từ cảm biến được truyền về máy tính hoặc hệ thống quản lý trung tâm. Khi có sự bất thường vượt ngưỡng cho phép, hệ thống sẽ tự động gửi cảnh báo.
3.2- Cơ chế phản ứng của sò với môi trường
• Cảm nhận chất ô nhiễm: Sò rất nhạy cảm với các thay đổi trong môi trường nước như: Kim loại nặng (như chì, thủy ngân, cadmium). Dư lượng hóa chất từ nông nghiệp (như phân bón hoặc thuốc trừ sâu). Thay đổi độ pH hoặc nồng độ oxy hòa tan. Sự hiện diện của các vi khuẩn độc hại.
• Hành vi bảo vệ bản thân: Khi gặp môi trường bất lợi, sò sẽ nhanh chóng đóng vỏ để tránh hấp thụ chất ô nhiễm.
• Ưu điểm của phương pháp: Sò là sinh vật tự nhiên, nên phương pháp này thân thiện với môi trường. Chi phí vận hành thấp sau khi lắp đặt. Phản ứng nhanh và nhạy cảm với một loạt các chất ô nhiễm mà các cảm biến hóa học có thể bỏ qua.
4- Ứng dụng tại Ba Lan và các nước khác
Tại Ba Lan: Thành phố Gdańsk nổi tiếng với việc tích hợp hệ thống "sò giám sát" vào mạng lưới thanh lọc và cung cấp nước. Nước từ các nguồn tự nhiên được đưa vào hệ thống giám sát, nơi đặt các bể chứa sò. Đây là bước kiểm tra đầu tiên trước khi nước được thanh lọc và phân phối đến người dân.
Tại Cộng hòa Séc: Trai vằn được dùng trong giám sát phẩm lượng nước tại các hồ chứa nước uống.
Tại Nga: Các nhà khoa học sử dụng sò để giám sát ô nhiễm từ công nghiệp gần các con sông lớn.
Tại Trung Cộng: Một số nghiên cứu thí điểm đang được triển khai với các nhuyễn thể bản địa để kiểm tra phẩm chất nước trong ao hồ.
o Mở rộng đối tượng giám sát: Kết hợp với các sinh vật khác, như cá hoặc vi sinh vật, để tăng độ chính xác.
o Tích hợp toàn cầu: Xây dựng hệ thống tương tự tại các quốc gia khác, đặc biệt là những nơi có nguy cơ ô nhiễm nguồn nước cao.
5- Thay lời kết
Trong vòng hai thập niên trở lại đây, ở các quốc gia hậu kỹ nghệ, phong trào Hóa học Xanh (Green Chemistry) đã được các nhà khoa học đưa lên hàng đầu trong việc giải quyết ô nhiễm và bảo vệ môi trường. Mục tiêu nầy do Hội Đồng LHQ về Môi sinh và Phát triển đề ra qua Nghị trình 21 là: - Tạo dựng tăng trưởng kỹ nghệ -
Cân bằng môi sinh - Tiến bộ xã hội.
Đây là ba nguyên lý căn bản để có thể xây dựng được một sự phát triển bền vững cho toàn cầu. Một trong những biện pháp để tiến tới mục tiêu trên là làm thế nào để phòng ngừa ô nhiễm. Từ suy nghĩ nầy, phong trào hóa học xanh ngày càng phát triển mạnh và được xem như là một biện pháp hữu hiệu nhất hiện tại để giải quyết các vấn nạn môi trường.
Chúng tôi qua Hội Khoa Học & Kỹ Thuật Việt Nam đã có hướng thanh lọc Arsenic ở những vùng nước bị nhiễm độc, với mục tiêu là cố truy tìm những phương thức rẽ tiền thích ứng với điều kiện Việt Nam, mặc dù trên thế giới đã có quá nhiều biện pháp để giải quyết hữu hiệu bằng các phương pháp hóa học, vật lý như: dùng hydroxid sắt III, phương pháp thẩm thấu nghịch (reverse osmosis), trao đổi ion v. v.... Những phương pháp nầy đòi hỏi thiết bị tối tân và chi phí cao, không thể thực hiện được trong điều kiện Việt Nam hiện tại.
Do đó, chúng tôi nghiên về các phương pháp thiên nhiên như việc dùng thực vật để khử arsenic. Qua tham khảo chúng tôi được biết tiến sĩ Leno Ho, thuộc đại học Florida đã khám phá và chứng minh được rằng một loại cây thuộc họ dương xỉ (fern) có tên là Pteris Vittata có khả năng hấp thụ 755mg/Kg arsenic trong vòng 2 tuần lễ. Và loại cây kể trên so lại với quyển tự điển Cây Cỏ Miền Nam của GS Phạm Hoàng Hộ, cây nầy chính là cây rau Rán, mọc dọc theo các bờ kinh hay sông rạch miền Nam. Và một số loại cây thủy sinh khác được thử nghiệm như cây lục bình, các loại bèo như bèo hoa dâu, bèo cám đã được thử nghiệm thành công.
Hiện nay, tại Hoa Kỳ một số cây cũng được áp dụng để hấp thụ các hóa chất hữu cơ trong nước thải kỹ nghệ cũng như vài kim loại độc hại như Arsenic, Mangan, Thủy ngân v.v…qua việc trồng các cây bạch dương (poplar) chung quanh hồ chứa phế thải lỏng.
Và việc dùng sò để thanh lọc nước thải kỹ nghệ và nu7o17v uống của vài quốc gia Đông Âu chính là một giải pháp độc đáo của của hóa học xanh.
Mong các quốc gia đang phát triển như Việt Nam cần nên học hỏi và áp dụng những phương pháp “dùng thiên nhiên để giải quyết và thanh lọc” phế thải… vừa tiết kiệm được chi phí điều hành, vừa ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa trong việc bảo vệ môi trường chung của trái đất.
Mai Thanh Truyết
Hội Bảo vệ Môi trường Việt Nam
Xuân Kỷ Tỵ - 2025
Tuesday, January 28, 2025
Tản Mạn Về Quê Tôi
Lời nói đầu: Cách đây 2 ngày, một đứa cháu kêu bằng chú ở Việt Nam nhăn tin qua rằng:”Thưa Chú Út., Con là Lân đây. Con và anh Ba cùng Chú Quang (con của Ông Út) đã về nghĩa địa nhà ở Bàu Trai ngày 25 tháng chạp Giáp Thìn, Hậu Nghĩa sơn phết lại Mã Ông Bà Nội và Ba con, làm cỏ xung quanh, và cúng cơm Ông Bà…” Đọc tin nhắn, buồn đứt ruột. Chỉ mong sao có một ngày về, đốt cho cha mẹ, ông bà một nén nhang! Không gian! Thời gian! Xa vời vợi. Chuyển lại một bài viết cũ chia xẻ cùng bạn đọc. Phổ Lập. Houston 28/1/2025
Đã lâu lắm rồi, tôi có …một đêm không ngủ. Câu chuyện đã xảy ra vào một ngày…năm 2017, sau khi làm xong 30 phút Hội luận với Nhà báo Trương Sĩ Lương, ở một đài phát thanh trên Dallas. Thông thường, sau khi vào giường ngủ, đọc năm ba trang sách là tôi …lang thang …đi về Việt Nam ngay trong giấc mộng.
Nhưng tối hôm đó thì không!
Sau khi đọc xong quyển sách của anh bạn ở Montréal, anh Lê Tấn Lộc, một người thầy giáo và cũng là một chiến sĩ cho một Việt Nam tương lai không còn CSBV, tôi đã tắt đèn từ lâu, nhưng không tài nào chợp mắt được. Tôi không ngủ được vì những hình ảnh xa xưa của anh bạn Lộc của tôi, mặc dù quá tuổi thất thập rồi, nhưng anh vẫn còn khả năng ghi lại những hình ảnh kỷ niệm của vùng quê của anh ở Vĩnh Long, của ngôi trường anh đã học, của mái nhà người thầy dạy anh đờn và đóng kịch Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo…., thậm chí còn ghi lại vài mối tình quê thời còn là học sinh.
Trí óc tôi vẫn mãi quay cuồng trong bao hình ảnh của bè bạn khắp nơi sau hơn 30 năm với “làng văn trân bút”, những hình ảnh về quê “tôi” của các bạn văn. Nào là Nguyên Nhung, Houston dù có quê ở tận miền Bắc xa xôi, nhưng vẫn chấp nhận một góc Cần Thơ là quê mình. Những bài viết nhẹ nhàng tả lại lối mòn trong xóm, bà bán quán chạp phô đầu ngõ, cùng những “giây phút” chạnh lòng trong vài mối tình thuở học trò.
Nào là cô em Tiểu Thu ở tận Montréal mà cũng còn nhớ vanh vách về vùng quê Vĩnh Long của mình, với bao kỷ niệm đầu đời, chiều chiều đạp xe nhìn về …phía xa xăm hay nhìn mong ngóng ai đó(?). (ghi nhận là TT có nói với tôi đó là “hư cấu” chứ không phải ”chiện” thiệt! mà hư cấu hay không cũng là kỷ niệm phải không TT, có anh Thành làm chứng đó!)
Nào là anh bạn thầy giáo của tôi Nguyễn Lộc Thọ, Orange trên Đặc san Hậu Nghĩa, hãnh diện nói về vùng quê Đức Hòa đầy Việt Cộng của mình, bước ra khỏi ngõ là thấy…VC rồi.
Nói lên để hoài niệm, để cho bà con cô bác mình vẫn còn một quê, có một quê. Bạn Thọ nói về Đức Hòa có Xóm “Quế” (Huế) làm nón lá do cha Bình mang nhiều gia đình Huế về khi chuyển về làm giám mục ở đây.
Lại một cô em cũng là một nhà giáo Ngọc Dung, Vancouver, dù gốc gác cũng ở tận miền Bắc, nhưng cô em vẫn thường hay viết lại kỷ niệm về quê Đà Lạt ngày xưa trong các bài viết, kể lại kỷ niệm trên đường Ngô Tùng Châu về hướng Lữ quán Thanh Niên và bưu điện, kể lại Cà phê Tùng năm xưa…và dĩ nhiên một vài vấn vương xưa trong cái không khí lãng mạn sương mù Đà Lạt trên đường đi đến Trại Hầm hay quanh bờ hồ Xuân Hương…
Và còn nhiều bạn bè khác viết ra đây không hết, ai cũng hơn một lần viết và nói về quê mình…
Còn tôi!
Nếu ai có hỏi quê tôi ở đâu?
Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn là “quê tôi ở Hậu Nghĩa” mà thôi. Và nếu có hỏi thêm nữa, tôi cũng chỉ có thể nói thêm là tôi sanh trưởng tại ấp Bàu Trai, làng Tân Phú Thượng, quận Đức Hòa, tỉnh Cholon (giấy khai sanh bằng tiếng Pháp viết chữ Chợ Lớn ra như vậy, và tôi chỉ thấy một lần một, từ lâu lắm rồi, đâu chừng gần 70 năm về trước).
Có một chuyện mà tôi nghe kể lại trong một lần họp mặt Gia đình Hậu Nghĩa tại Nam Cali, Cựu Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa, Đại tá Tôn Thất Soạn đã vạch mặt trò giả mạo “địa đạo Củ Chi” của CS Bắc Việt năm nào.
Hậu Nghĩa là một tỉnh cũ ở Nam phần Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh này tồn tại từ năm 1963 đến 1976. Tỉnh được thành lập theo Sắc lệnh số 124-NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 15/10/1963, từ phần đất tách ra của các tỉnh Long An, Gia Định và Tây Ninh. Tỉnh lỵ đặt tại Bàu Trai, gọi là thị xã Khiêm Cương. Tỉnh gồm 4 quận (24 xã): Củ Chi, Đức Hòa, Đức Huệ và Trảng Bàng. Dân số năm 1965 là 176.148 người, năm 1974, dân số tăng lên 232.664.
Vào tháng 2 năm 1976, tỉnh bị “khai tử” do CS Bắc Việt và các phần đất được chia cho ba tỉnh lân cận. Quận Trảng Bàng sáp nhập vào tỉnh Tây Ninh, Củ Chi sáp nhập với quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương thành huyện Củ Chi nhập vào thành phố Hồ Chí Minh, còn hai quận Đức Huệ và Đức Hòa nhập vào tỉnh Long An.
Theo lời anh chị tôi kể và sau nầy đọc sách báo thêm, quê tôi đã nhiều lần thay tên đổi họ, từ tỉnh Chợ Lớn rồi Long An, và sau cùng là Hậu Nghĩa dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa. Tỉnh lỵ Hậu Nghĩa gọi là Khiêm Cương chính là ngôi làng nơi sanh tôi ra. Do đó, tỉnh lỵ rất nhỏ so với các quận như Đức Hòa, Hiệp Hòa, Củ Chi, và Đức Huệ…những vùng đất làm cho biết bao nhiêu cô nhi quả phụ phải trả giá rất đắt kể cả mạng sống trong cuộc chiến do CS Bắc Việt gây ra trong suốt 20 năm.
Tôi đã biết về quê tôi chừng đó mà thôi.
Xin đừng hỏi nữa vì tôi sẽ không biết trả lời sao?
Chính vì thế mà tôi không hề viết gì về quê nhà cả, ngoài một kỷ niệm mờ mờ ảo ảo còn vương vấn trong trí óc lúc còn non nớt của tôi mãi đến ngày hôm nay, kỷ niệm của một thời…Việt Minh vùng dậy, đốt thôn xóm, xử tử nhiều người dân mộc mạc, chất phác vào những năm 44,45 trong đó có Ba tôi.
Theo lời Má tôi kể lại khi tôi chưa đầy 3 tuổi, Ba tôi đã bị trói thúc ké cạnh bụi chuối bên hông nhà. Lệnh xử tử được đọc ra là vì Ba tôi là “Việt gian” và là địa chủ, có con gửi theo học trường Pháp dưới Sài Gòn, nói tiếng Pháp với lính Tây đóng ở đầu làng…, có nuôi ngựa đua và thi đua ở trường đua Phú Thọ v.v…Và Ba tôi bị bắn ngã gục xuống sau khi bị trói thúc ké bên bụi chuối, chỉ cách chúng tôi khoảng 3 thước gồm hai bà chị lớn, cùng hai ông anh, và tôi.
“Họ” tưởng Ba tôi chết rồi, sau đó đốt nhà, cướp của… rồi đi.
Từ đó gia đình tôi trôi giạt xuống Sài Gòn ngay đêm hôm đó (không còn nhớ ngày!?) và Ba tôi được cứu sống.
Và tôi chỉ trở về thăm quê tôi một lần một và chỉ một lần một mà thôi sau “giải phóng” (?) vào năm 1976, để nhìn thấy mồ mả của Ba Má tôi lần đầu cũng là lần cuối cho đến khi phải đành đoạn lìa xa quê cha đất tổ chỉ vì “cái gọi là” cơ chế chuyên chính vô sản của những người không còn chút nhứt điểm lương tri của …con người.
Đó là những gì tôi biết về quê tôi, nơi chôn nhau cắt rún, nơi an nghỉ của những người thân yêu nhứt đời của tôi. Nói như vậy để thấy rằng tôi là một con người tệ bạc, không có một hình ảnh quê nhà nào trong đầu, không giữ được tình quê, tình xóm giềng quê cũ!
Vì vậy cho nên, cứ mỗi lần đọc một bài viết ghi lại những dấu ấn của quê mình do các bạn văn, nhứt là trong Đặc san Hậu Nghĩa hàng năm mà tôi là Cố vấn không biết tự bao giờ…làm lòng tôi chùng xuống. Tôi không có được may mắn như các bạn để có thể viết rõ ràng về quê mình, ngay cả một vài kỷ niệm đơn sơ ở nơi chôn nhau cắt rún nữa. Và đó cũng là lý do tôi mất ngủ tối hôm đó vì một vài câu thơ tình con cóc của lứa tuổi học trò ở quê của anh bạn Lộc Montréal của tôi.
Hởi những người con Việt tha hương của tôi ơi!
Các bạn có bao giờ có những ý nghĩ của một người con Việt không hình dung được nơi chôn nhau cắt rún của mình không?
Có ai giống như tôi đây không?
Các bạn có bao giờ có những giây phút chạnh lòng như thế nầy bên ly cà phê đắng và chiêm nghiệm về tuổi thơ của chính mình hay không?
Một mình trên bàn giấy trong một căn phòng ở nhà, nơi tôi viết lên những dòng chữ trên đây, nơi tôi trải qua suốt bao năm trời cặm cụi những bài viết về môi trường, về thực phẩm, và nhứt là những suy nghĩ về phương cách “Chống Tàu Diệt Việt Cộng” để tìm “một lối thoát cho Việt Nam”. Không một USB nào nằm trong ngăn kéo của bàn viết mà tôi không biết chứa đựng những hồ sơ gì cho công việc “chống lại công cuộc Hán hóa của Trung Cộng” của tôi?
Và đây chính là nơi tôi trang trải, chia sẻ với bè bạn khắp nơi về những suy nghĩ của một người con Việt về những vấn đề Việt Nam.
Thế mà, nghĩ về quê tôi, tôi chỉ biết lờ mờ…
Tội nghiệp cho tôi không các bạn?
Có bao giờ bạn nghĩ, bạn sẽ mất quê khi bạn bị tách rời ra khỏi nguồn cội trong khi sống ly hương như hiện nay không?
Có bao giờ bạn nghĩ, hồn quê luôn luôn ở bên cạnh bạn dù bạn không hề nhắc đến hay nghĩ đến hay cảm nhận không?
Ý nghĩ viết về quê tôi, dù cho một lần như hôm nay, tôi cũng chỉ có chừng đó để chia sẻ cùng bạn mà thôi. Hình ảnh quê nhà thì mờ mờ ảo ảo…nhưng tôi vẫn tin rằng hồn quê nơi tôi đã khắc sâu từ trong vô thức, chỉ cần một sát na nào đó, chỉ cần một khơi dậy nào đó, hồn quê sẽ cuồn cuộn chảy vào tâm khảm chúng ta.
Các bạn ơi!
Qua những dòng tản mạn trên đây tôi muốn nhắn gửi tới các bạn rằng, dù ở một nơi xa xôi nào trên quả địa cầu nầy. dù bạn bị tách rời khỏi quê cha đất tổ, sống tha phương nhưng “không cầu thực”, nhưng hồn quê của bạn vẫn hiện diện dai dẳng trong lòng bạn, trong tâm trí bạn.
Hồn quê đã ẩn tàng trong tận sâu thẳm của tâm hồn bạn.
Nhưng có ai giống như hoàn cảnh của tôi không?
• Thời thơ ấu: Không biết Quê là gì?
• Thời thanh thiếu niên: Biết Quê qua lời kể của Ba Má Anh Chị.
• Thời trưởng thành: Biết Quê qua nửa vòng trái đất.
• Thời lưu vong: Biết Quê trong tâm tưởng và trong vô vọng.
Biết bao giờ Tôi mới nhìn lại Quê hương đích thực của tôi đây?
Bạn không sống gần QUÊ, trong QUÊ, nhưng QUÊ vẫn có trong bạn.
Hồn Quê vẫn sống trong tiềm thức của bạn.
Và Hồn Quê tôi muốn nói nơi đây, chính là HỒN NƯỚC đó bạn ạ!
HỒN NƯỚC đang réo gọi chúng ta mau về dựng lại bức dư đồ rách do con người vô tâm, CSBV đang dày xéo Đất và Nước chúng ta.
Hồn quê đang réo gọi để tôi còn:
“Ngẩng đầu hẹn với quê cha,
Tôi còn đỡm lược xây nhà Việt Nam”
Mai Thanh Truyết
Viết cho thời Tuổi thơ thập niên 1940 Việt Nam – 2017
Sunday, January 26, 2025
Nhớ về một Nhơn sĩ Miền Nam
Cố Tổng Thống Trần Văn Hương
Cụ Trần Văn Hương sinh năm 1902 tại làng Long Châu, quận Châu Thành (nay là thành phố Vĩnh Long), tỉnh Vĩnh Long trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình, cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư phạm… Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Collège Le Myre De Villers tại Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà ông đã theo học mấy năm trước. Thời gian 1943-1945, Cụ Hương là giáo sư dạy môn văn chương và luận lý tại trường này. Cụ là một thầy giáo đã từng đào tạo nhiều học trò nổi tiếng (tướng Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, cũng tự nhận là một học trò của ông) và từng giữ chức vụ Đốc học Tây Ninh.
Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27 tháng 1 năm 1982 tại Sài Gòn, nhằm ngày mùng 3 Tết. Cụ mất đi để lại cho chúng ta nhiều tiếc nuối. Hôm nay nhân ngày lễ tưởng niệm Cụ, tôi xin chia xẻ vài suy nghĩ về Cụ.
Khi „Cách mạng tháng Tám 1945“ nổ ra, Cụ tham gia chánh quyền Việt Minh với tư cách nhơn sĩ tự do. Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, Cụ được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến tỉnh Tây Ninh. Tuy nhiên, năm 1946, do Cụ biết lực lượng Việt Minh là Cộng sản quy chụp cho nhiều trí thức là Việt gian rồi đem thủ tiêu nên Cụ bỏ về quê sống ẩn dật và tuyên bố bất hợp tác với cả chánh quyền Việt Minh lẫn Pháp và Cộng hòa tự trị Nam Kỳ, sau này là Quốc gia Việt Nam.
Xét về sự nghiệp chánh trị, Cụ Trần văn Hương đã hai lần được mời và bổ nhiệm đảm trách chức vụ Ðô Trưởng Sài Gòn, chức vụ đứng đầu quán xuyến điều hành bộ máy hành chánh thủ đô Việt Nam Cộng Hòa, bảo tồn bộ mặt của thể chế Cộng hòa ở miền Nam đang trong giai đoạn củng cố xây dựng và phát triển với những khó khăn chồng chất về mọi mặt:
• Lần đầu vào năm 1955 sau khi Hiệp định Genève chia hai đất nước Việt Nam được ký kết, do cố Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm;
• Lần thứ hai, sau khi chánh quyền Ngô Ðình Diệm bị lật đổ vào năm 1963, Cụ Trần Văn Hương lại được bổ nhiệm làm Ðô Trưởng Sài Gòn.
Và hai lần được mời làm Thủ tướng và một lần Phó Tổng Thống:
• Lần đầu vào Tháng 11 năm 1964, cụ được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bổ nhiệm làm Thủ Tướng Chánh Phủ (1964-1065) và lập nội các, giữa lúc tình hình chánh trị vô cùng căng thẳng.
• Lần thứ hai vào năm 1968, trước tình hình chánh trị, quân sự, kinh tế suy sụp trầm trọng cụ nhận lời Tổng thống Thiệu ra làm Thủ tướng lần thứ hai (1968 -1969).
Lần chấp chánh thứ ba của Cụ là Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa (1971 -1975).
Trong bối cảnh chánh trị miền Nam, Cụ đã lần lượt dấn thân vào sinh hoạt chánh trị đại chúng với danh nghĩa là một nhơn sĩ miền Nam do nhu cầu của đất nước; và lần nào Cụ cũng giúp cho tình thế vượt qua những khó khăn. Ðến phút cuối, khi bị áp lực phải chuyển giao quyền hành cho những kẻ mà cụ biết là „chẳng làm được gì“, Cụ cũng thực hiện nó trong tinh thần Hiến định, tức chuyển giao theo „ý dân“, qua các Dân Biểu và Nghị sĩ, trong phiên họp lưỡng viện Quốc Hội.
Với tôi, Cụ là mẫu người có phong cách của một nhơn sĩ miền Nam xem thường mọi thiếu thốn và ràng buộc vật chất trong khi dấn thân phục vụ đất nước. Lúc nào Cụ cũng giữ vững tinh thần, ngay cả trong lao tù, Cụ coi mọi chuyện đều „vô thường“, qua câu thơ bất hủ để đời ghi trong tập thơ „Lao trung lãnh vận“ khiến ai đọc lên cũng cảm phục “ông già“ trong cảnh tù đày.
Ðó là:”Ngồi buồn gãi háng, dái lăn tăn“. (một số bạn bè nói bản chánh của câu trên là “ngồi rù“…). Những người yêu thơ lãng mạn có thể không thích câu thơ nặng tính nhân sinh này, nhưng những người từng trải qua cảnh tù đày đều thấy ở đó cái khí khái xem thường nghịch cảnh lao tù của tác giả.
Tính can trường về nhân cách của con người miền Nam của Cụ Trần Văn Hương còn được biểu lộ qua sự kiên quyết dấn thân, không bỏ cuộc, mà trái lại, vẫn chấp nhận trách vụ được giao phó do nhu cầu của tình hình đất nước và thường hoàn thành trách vụ. Còn nhớ, trong cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719, Cụ đã bất chấp thế lực của quân đội Mỹ, và sự hiểm nguy của bản thân, mở cuộc họp báo quốc tế, tố cáo thái độ bội ước và bỏ rơi chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa của quân đội Mỹ, khiến Chánh phủ Mỹ lúc đó phải lập tức ra lịnh cho các đơn vị Mỹ hành quân phải tiếp tục kế hoạch, và xin lỗi về việc này. Dịp này Cụ đã hãnh diện nhận lãnh tước vị ‚Hạ sĩ danh dự của binh chủng Nhảy Dù, ghi đậm lời tri ơn sâu xa của binh chủng này dành cho Cụ.
Trong tư cách là một nhà giáo, vào năm 1974, cụ có ước nguyền là cố gắng xây dựng Ðại học Long Hồ tại Vĩnh Long. Nhiều giáo sư gốc gác địa phương được mời phụ trách chức vị Viện trưởng như GS Nguyễn Văn Trường, GS Trần Kim Nở nhưng việc không thành vì những biến động thời cuộc dồn dập trong giai đoạn nầy.
Một biến cố sau cùng của con đường “hoạn lộ“ của Cụ theo lời kể của một cựu quân nhân thân cận với chức vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa kể từ ngày 21-4-1975:
“Là một quân nhân, vào những ngày cuối cùng của miền Nam, tôi được cái may mắn gần gũi với cụ Hương, nhất là những lúc dầu sôi lửa bỏng khi thủ đô Saigon đang bị cộng quân vây hãm. Tình hình thật là cấp bách sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào ngày 21-4-75, bàn giao chức vụ Tổng Thống cho cụ Trần Văn Hương theo hiến pháp.
Ông đã nhận lấy chức vụ đứng đầu một đất nước trong hoàn cảnh thật là khó khăn. Một mặt, dưới sức ép thật nặng nề từ người bạn đồng minh Hoa Kỳ muốn sớm rút chân ra khỏi Việt Nam, mặt khác, về phía địch, cộng sản Bắc Việt biết rõ sự suy yếu hoàn toàn của chánh quyền miền Nam dưới sự bỏ rơi của Mỹ nên càng gia tăng áp lực, đưa quân uy hiếp thủ đô Saigon. Thêm vào đó, thành phần thân cộng có mặt trong guồng máy miền Nam, cũng luôn tạo áp lực để đòi hỏi lật đổ chánh quyền miền Nam bằng sự thay thế một chánh quyền do cộng sản kiểm soát.”
Trong thời gian bảy ngày sau khi bàn giao với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cuối cùng Cụ Trần Văn Hương phải chấp nhận việc bàn giao cho tướng Dương Văn Mình theo diễn tiến như sau:
• Ngày 21-4-75 tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Cụ Trần Văn Hương nhận lãnh chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
• Ngày 26-4-75 đại sứ Martin yết kiến và thông báo cho Cụ Hương về áp lực cộng sản Bắc Việt và khả năng của cộng quân tấn công vào Saigon.
• Ngày 27-4-75 quốc hội VNCH họp và biểu quyết việc trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh.
• Ngày 28-4-75 vào lúc 5:00 chiều, Cụ Trần Văn Hương trao quyền lại cho tướng Dương Văn Minh theo quyết định của quốc hội.
Trong bài diễn văn, Tổng thống Trần Văn Hương đọc trước quốc hội ngày 26-4-75, chúng ta thấy rõ ràng Cụ Trần Văn Hương không thoát khỏi áp lực quá mạnh, một của người bạn đồng minh Hoa Kỳ, và một áp lực về phía cộng sản Bắc Việt mà tướng lưu vong Dương Văn Minh được sắp xếp như là một con cờ chính trị để làm nhiệm vụ xóa chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Chúng ta hãy nhớ lại những gì Cụ Hương đã phát biểu có tính cách lịch sử trong bài diễn văn tại quốc hội dưới sự hiện diện của đầy đủ dân biểu và thượng nghị sĩ. Cụ Hương đã cho biết rằng Cụ “chỉ muốn chỉ định Đại tướng Dương Văn Minh trong vai trò thủ tướng, nhưng tướng Dương Văn Minh vẫn khăng khăng đòi Cụ Hương phải trao quyền để cho tướng Dương Văn Minh nói chuyện với phía bên kia“.
Ba Nhân cách LỚN của Cụ Trần Văn Hương
1 – Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái Đại sứ Martin nói:“Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhơn danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT “trăm tuổi già“”.
Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời:
– “Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Saigon, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi”.
Khi nghe câu “Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités” (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giựt mình nhìn trân trân Cụ Trần Văn Hương. Năm 1980, Cụ Hương thuật lại với tôi: Dứt câu chuyện, “on se sépare sans même se serrer la main“ (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày)
2- Vào năm 1978, khi Việt cộng trả lại “quyền công dân“ cho Ông Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo“ đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng Thống“ Dương Văn Minh đang “hồ hởi phấn khởi“ đi bầu quốc hội „đảng cử dân bầu“ của cộng sản.
Cụ Trần Văn Hương cũng được cộng sản trả lại “quyền công dân“ nhưng Cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương đã gửi bức thư sau đây đến các cấp lãnh đạo chính quyền cộng sản: “…hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ Tướng, Tổng Bộ Trưởng, các Tướng Lãnh, Quân Nhân Công Chức các cấp các Chính Trị Gia, các vị Lãnh Đạo Tôn Giáo, Đảng Phái đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi.“
3 – Sau cùng, trong hoàn cảnh cơ cực của thời đất nước bị đô hộ bởi Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, các Ðại sứ của các nước Pháp, Úc cho người đến thăm Cụ và cho biết họ có thể can thiệp với Cộng sản cho Cụ ra khỏi nước với lý do đi trị bịnh, nhưng cụ tiếp tục từ chối, cương quyết ở lại chia sẻ cùng dân quân Miền Nam sự tủi nhục và nghèo đói dưới gông cùm Cộng sản.
Xin nghiêng mình trước tiết tháo của một nhơn sĩ miền Nam Việt Nam!
Khi Cụ qua đời, đám tang được tổ chức tại nhà do chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp trước kia trong hẽm 210 đường Phan Thanh Giản, bên cạnh trường Marie Curie.
Có một sự kiện thú vị cũng cần nên kể ra nơi đây là anh con trai trưởng của Cụ là Trần Văn Dõi đi ra phường để xin phép mua một cái hòm quốc doanh, nhưng người tài xế trung thành của Cụ chận ngang, và anh nầy chạy vào Chợ Lớn mua một cổ quan tài gỗ với giá 10.000 Ðồng (tiền Việt cộng bấy giờ). Anh Tàu nghe nói là mua cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa nên bớt xuống còn 5.000 Đồng mà thôi.
Một trong những ước nguyền của Cụ là khi chết được chôn ở Nghĩa trang Quân Ðội với lễ nghi quân cách của một binh nhì; nhưng việc nầy cũng không thành. Tuy nhiên một an ủi cho Cụ là được hỏa táng tại Lò thiêu Thủ Ðức, xéo bên cạnh bức tượng Tiếc Thương, trước sự hiện diện đông đủ của học trò cùng hầu hết thân hào nhân sĩ miền Nam không quản ngại mạng lưới công an chằng chịt chung quanh lò thiêu.
Hôm nay, nhân ngày giỗ Cụ Trần Văn Hương, cúi xin dâng nén hương lòng tưởng niệm một người con Việt chân chánh miền Nam với niềm tin chắc chắn rằng Tuổi trẻ miền Nam sẽ tiếp nối bước đường Cụ đi và chắc chắn sẽ thành công trong công cuộc dành lại quê hương từ tay bạo quyền Cộng sản.
Thành kính xin Cụ phò hộ cho Tuổi Trẻ Việt Nam trong công cuộc dành lại Quê Hương.
Mai Thanh Truyết
Người con Việt miền Nam – Nhuận sắc 1/2025
Ghi chú:
Thơ cố Tổng Thống Trần Văn Hương:
Thân quèn xin gởi cùng sông núi
Xương mục chờ tiêu với cỏ cây
Xét thời trời còn lắm nỗi gian nguy
Ngẫm lại thêm buồn cho hậu thế;
Phù vận nước được vài phân ổn định,
May ra bớt thẹn với tiền nhơn
Và câu dịch của Ngài càng thấm thía cho thân phận lưu vong khi nghe mưa về nơi đất khách:
Cố hương qui mộng tam canh vũ
Lữ xá hoài ngâm tứ bích trùng
Ba canh mưa phủ mơ vườn cũ
Bốn vách trùng ngâm tủi xứ người!
Wednesday, January 22, 2025
Thuyết Gã Điên – The Madman Theory
Thử So sánh Chính sách Ngoại giao của Cố TT Nixon và TT Trump
Trong bài viết trên tạp chí The Diplomat, Sempa (2019) lập luận rằng TT ‘Nixon nghĩ rằng Hội Đồng Châu Á và Thái Bình Dương, gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Nam VN, Phi Luật Tân, Thái Lan, Mã Lai, Úc và Tân Tây Lan, được thành lập vào năm 1966 có thể là nền tảng của một “nhóm quân sự được thiết kế để ngăn mọi mối đe dọa của TC”.’ Sempa còn thêm rằng TT “Nixon thậm chí còn đề cập đến Ấn Độ là một thành viên có thể của một liên minh khu vực chống TC”. (Trích từ “Một góc nhìn về Chiến tranh Mậu dịch Mỹ - Trung của TS Nguyễn Văn Chữ). Cũng trong một tuyên bố khác, TT Nixon thường có ý tưởng về thuyết Gã điên bắt nguồn từ Niccolò Machiavelli.
Khi Donald Trump lần đầu tranh cử tổng thống Mỹ vào năm 2016, ông ấy thường tỏ ra tức giận và điên rồ. Ông cũng không ngần ngại thể hiện sự tức giận trong suốt chiến dịch tranh cử. Trong cuộc tranh luận sơ bộ của Đảng Cộng hòa năm 2016, ông đã dựa vào cảm xúc này, nói rằng mình sẽ “vui vẻ chấp nhận chiếc áo choàng của sự tức giận” vì ông tin rằng đất nước đang là một “mớ hỗn độn” và được điều hành bởi những kẻ thiếu năng lực. Trump cũng chấp nhận suy nghĩ rằng ông là một kiểu người điên khác. Trong nhiều tuyên bố, ông nhấn mạnh rằng mình sẽ là một kiểu tổng thống khác vì ông sẵn sàng trở nên hơi điên một chút, hơi khó đoán một chút. Năm 2015, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã trích lời một doanh nhân khác, “‘Có một sự khó đoán nhất định về Trump, và điều đó thật tuyệt.’” Trong bài phát biểu chính sách đối ngoại lớn đầu tiên của chiến dịch năm đó, ông công khai chỉ trích chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Barack Obama, nói rằng, “Là một quốc gia, chúng ta phải khó đoán hơn. (Trích từ Daniel W. Drezner, “Does the Madman Theory Actually Work?” Foreign Policy, 07/01/2025).
Đối với TT Trump có vẻ khác với các tổng thống hậu Chiến tranh Lạnh, nhưng cảm xúc của ông lại giống với Richard Nixon, người cũng thích nổi điên. Thật vậy, theo H.R. Haldeman, người làm việc dưới quyền ông, chính Nixon đã đặt ra thuật ngữ “thuyết Gã điên,” giải thích rằng ông muốn phía Bắc Việt tin rằng ông có khả năng làm bất cứ điều gì để chấm dứt Chiến tranh Việt Nam – bao gồm cả việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Thuyết Gã điên cho rằng: một nhà lãnh đạo hành động như thể ông có thể làm bất cứ điều gì sẽ có nhiều cơ hội thuyết phục các tác nhân toàn cầu khác đưa ra những nhượng bộ mà nếu không thì họ sẽ không thực hiện.
1- Dụ ngôn của Nietzsche
Trong dụ ngôn “Gã Điên”, Nietzsche để cho nhân vật của mình lớn tiếng tuyên bố “Thượng đế đã chết”. Thế là những người vô thần vội bám lấy tuyên bố đó để khẳng định lập trường của họ, rằng niềm tin tôn giáo đã hết thời rồi, hãy vứt bỏ đức tin đi, hãy sống thực dụng, vì chẳng có thần thánh nào hết, chỉ có con người tự quyết định lấy vận mệnh của mình mà thôi.
Tuy nhiên, Nietzsche đã bị hiểu sai, thậm chí đã bị hiểu ngược hoàn toàn với tư tưởng của ông trong Dụ ngôn Gã điên – người ta đã vô tình hoặc cố ý tách tuyên bố “Thượng đế đã chết” ra khỏi ngữ cảnh của nó, ra khỏi toàn bộ câu chuyện của nó, và rốt cuộc làm cho câu nói đó phản lại ý định của Nietzsche.
Vậy thực chất Nietzsche muốn nói gì?
Dụ ngôn “Gã Điên” kể rằng:
Một gã điên đốt đèn giữa ban ngày rồi chạy ra chợ kêu la ầm ĩ: “Ta đi tìm Thượng đế! Ta đi tìm Thượng đế”. Trong đám đông đứng vây quanh có nhiều kẻ không tin vào Thượng đế, nên gã điên trở thành một trò cười trước mắt họ. Họ tò mò hỏi nhau không biết cái gã điên ấy đang làm trò gì vậy, và cuối cùng tất cả đều cười váng lên như cười một thằng hề. Nhưng gã điên ấy bỗng nhảy vào giữa đám đông, lườm mọi người bằng ánh mắt như đâm xuyên qua họ, vừa la khóc vừa giảng giải: “Thượng đế đi đâu rồi? Này, ta bảo cho các ngươi biết, chính chúng ta, ngươi và ta, đã giết Thượng đế. Tất cả chúng ta là những kẻ đã giết Thượng đế…” Rồi gã điên tiếp tục chất vấn đám đông…
Nghe chuyện đến đây, tôi bất giác nhớ đến truyện ngụ ngôn gã mù cầm đèn trong đêm tối: Một gã mù cầm đèn đi trong đêm tối, thiên hạ lấy làm lạ, bèn hỏi:
“Anh đã mù rồi còn cầm đèn làm gì? Anh có nhìn thấy gì đâu mà soi đèn?”
Gã mù trả lời: “Ta cầm đèn để những kẻ mắt sáng khỏi đâm vào ta”.
Gã mù này thật thâm thúy, nhưng có lẽ gã điên của Nietzsche còn thâm thúy hơn: gã phải thắp đèn giữa ban ngày để đi tìm Thượng đế, vì gã biết tìm Ngài trong thời buổi này khó khăn lắm, thiên hạ xung quanh gã bây giờ chỉ tin vào miếng ăn, cái mặc, những lợi lộc vật chất thấp hèn, những gì có thể cân đong đo đếm mà thôi!
Chao ôi, cái thiên hạ vô minh ấy, phải thắp đèn giữa ban ngày may ra mới làm cho họ chú ý. Mà họ có hiểu gì đâu? Họ vẫn cười cợt chế nhạo đó thôi. (Lượm lặt trên mạng).
2- Còn dụ ngôn của Cố TT Nixon và TT Trump thì sao?
Có giống như dụ ngôn “Gã Điên” của Nietzsche không?
Từ đó, sự so sánh giữa cố Tổng thống Richard Nixon và Tổng thống Donald Trump về phong cách lãnh đạo và cách tiếp cận chính sách đối ngoại, đặc biệt trong việc áp dụng "thuyết Gã điên," thực sự rất thú vị. Tuy nhiên, cũng cần nên xem xét bối cảnh lịch sử, phong cách cá nhân và chiến lược chính trị của từng vị tổng thống để hiểu rõ sự tương đồng và khác biệt.
Điểm tương đồng
• Nixon được ghi nhận là người khai sinh khái niệm này, với mục tiêu làm cho Bắc Việt và Liên Xô tin rằng ông có khả năng hành động không thể đoán trước, kể cả việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Chiến lược này nhằm gây áp lực tối đa để đạt được nhượng bộ từ đối thủ.
• Trump cũng áp dụng một phong cách không thể đoán trước trong chính sách đối ngoại, ví dụ như việc đe dọa áp thuế mạnh hoặc các phát ngôn bất ngờ trong các cuộc đàm phán với Triều Tiên, Trung Cộng hoặc thậm chí đồng minh NATO. Cách tiếp cận này có thể được xem là phản ánh tinh thần của "thuyết Gã điên," khi ông khiến các đối thủ cảm thấy khó đoán định và do đó phải nhượng bộ.
• Nixon coi các liên minh khu vực, chẳng hạn Hội đồng Châu Á và Thái Bình Dương, là công cụ để kiềm chế sự trỗi dậy của TC, tương tự cách Trump muốn xây dựng các liên minh để đối phó với ảnh hưởng kinh tế và quân sự của TC đối với các nước Đông Nam Á.
• Cả hai đều đặt nặng việc sử dụng sức mạnh quốc gia để định hình các mối quan hệ quốc tế theo cách có lợi cho Mỹ.
• Cả Nixon và Trump đều là những chính trị gia có phong cách gây tranh cãi, sử dụng các chiến thuật bất thường để thu hút sự chú ý và gây ảnh hưởng. Cả hai thường không tuân theo các chuẩn mực truyền thống trong ngoại giao.
Điểm khác biệt:
• Nixon hoạt động trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ và Liên Xô đối đầu trong một thế giới lưỡng cực. Những quyết định của ông được định hình bởi nhu cầu kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Cộng, đồng thời chấm dứt Chiến tranh Việt Nam.
• Trump hoạt động trong một thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, với các thách thức đa dạng hơn từ TC, Nga, và cả các tổ chức phi quốc gia như khủng bố. Mối quan tâm chính của ông là cạnh tranh kinh tế và củng cố vị thế của Mỹ trong hệ thống quốc tế.
Qua hai khác biệt căn bản trên đưa đến sự khác biệt về chiến lược và thực thi vào hai thời điểm hoàn toàn khác nhau:
• Nixon là một chiến lược gia tinh vi, với các kế hoạch dài hạn và khả năng ngoại giao kín đáo, thể hiện qua việc mở cửa quan hệ với TC và ký các hiệp ước kiểm soát vũ khí với Liên Xô.
• Còn Trump thường áp dụng các hành động mang tính bộc phát và dựa nhiều vào sức ép công khai, như qua Twitter hoặc các tuyên bố trực tiếp. Phong cách này đôi khi mang lại kết quả ngắn hạn nhưng cũng làm gia tăng căng thẳng với đồng minh như trong vấn đề đóng góp quỹ cho NATO.
• Nixon cố gắng xây dựng và duy trì các liên minh khu vực như một nền tảng chiến lược, với mục tiêu dài hạn là kiềm chế các đối thủ lớn.
• Trump lại có xu hướng chỉ trích các đồng minh (như NATO hay các nước Đông Á) về việc "không đóng góp đủ" cho an ninh chung, khiến một số liên minh truyền thống như Âu Châu trở nên căng thẳng.
3- Tạm kết
Tóm lại, sự so sánh giữa Nixon và Trump là hợp lý ở một số điểm, đặc biệt là trong việc sử dụng "thuyết Gã điên" để tăng sức mạnh đàm phán và gây áp lực lên đối thủ. Tuy nhiên, Nixon là một chiến lược gia có kế hoạch dài hạn và chủ yếu hoạt động trong khuôn khổ ngoại giao truyền thống, trong khi Trump có phong cách lãnh đạo thiên về sự bộc phát, quyết định nhanh nhẫu, ít dự đoán trước và nhấn mạnh vào thành quả tức thời. Trump là một nhà kinh doanh thành công trong thương trường cho nên có những quyết định bột phát như chớp thời cơ làm cho đối phương không kịp suy nghĩ và trở tay không kịp. Thì dụ như trong cuộc diện kiến với Ủn tại Hà Nội năm năm. Quyết định chấm dứt cuộc đàm phán, đứng dậy “phủi đít” đi về Mỹ. Ũn hụt hẫng không biết Trump muốn gì, và sợ!
Hai phong cách này phản ánh các bối cảnh chính trị và ưu tiên khác nhau của từng thời kỳ: thời kỳ thề giới lưỡng cực Mỹ-Tây Phương/Nga-Tàu thời Nixon, và thế giới đa cực rất phức tạp thời Trump hiện tại.
Chúng ta chờ xem kết quả trong vòng bốn năm tới, nhiệm kỳ của TT thứ 47th của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ … sẽ như thế nào?
Rồi sẽ kết luận TT Trump là một minh quân hay cũng chỉ là một Gã Điên?
Mai Thanh Truyết
Viết về Nhiệm kỳ II của Tổng thống Trump
Houston 22/1/2025
Friday, January 17, 2025
Trận chiến Hoàng Sa 19/1/1974 - Bài viết của Hà Sĩ Ngạc
Hải chiến Hoàng Sa
Bốn trong số các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã tham gia hải chiến Hoàng Sa 1974 (DR)
Đôi lời trước khi viết: Đã 25 năm kể từ ngày tôi tham dự trận hải chiến Hoàng Sa, tôi chưa từng trình bầy hay viết mô tả lại về trận đánh này, ngay cả có nhiều lần tôi đã thất hứa với các bậc tiên sinh yêu cầu tôi thuật lại chi tiết của cuộc đụng độ. Dù thắng hay bại, chỉ có một điều duy-nhứt không thể chối cãi được là các chiến hữu các cấp của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến đã anh dũng chiến đấu bằng phương tiện và kinh nghiệm có trong tay để chống lại một kẻ xâm lăng truyền kiếp của dân tộc hầu bảo vệ lãnh thổ của Tổ quốc. Trước một thù địch có sức mạnh gấp bội, dù cuộc chiến có hạn chế hay kéo dài hoặc mở rộng, phần cuối là chúng ta vẫn phải tạm lùi bước trước các cuộc cường tập của đối phương để tìm kiếm một cơ hội thuận tiện khác hầu khôi phục lại phần đất đã bị cưỡng chiếm.
Hôm nay nhân ngày Tết Kỷ Mão, tôi viết những giòng này để tưởng niệm anh linh các liệt sĩ đã hy sinh khi cùng tôi chiến đấu chống kẻ xâm lăng trên các mảnh đất xa vời của Quốc Tổ, một số đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển Hoàng Sa như để thêm một chứng tích lịch sử của chủ quyền quốc gia, một số khác đã bỏ mình trên biển cả khi tìm đường thoát khỏi sự tàn bạo của người phương bắc.
Có nhiều chiến hữu Hải quân đã từng hăng say viết lại một trang sử oai hùng của Hải quân và toàn Quân lực Việt Nam của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, nhưng đã thiếu xót nhiều chi tiết chính xác mà vào những năm trước 1975 chưa được phép phổ biến, và cũng vì phải lưu lạc khắp thế giới tự do nên các chiến hữu đó đã không thể liên lạc để tham khảo cùng tôi.
Nhiều chi tiết về giờ giấc và về vị trí bạn và địch, cũng như tên họ của các cấp có liên hệ tới biến cố, vì không có tài liệu truy lục, nên chỉ có thể viết vào khoảng gần đúng nhất. Tôi chỉ tường thuật trung thực những chi tiết theo khía cạnh của một người chỉ huy chiến thuật được biết và cũng mong mỏi các chiến hữu nào còn có thể nhớ chắc chắn các chi tiết quan trọng khác, tôi sẽ sẵn sàng tiếp nhận qua tòa soạn này, để sửa lại tài liệu này cho đúng.
Hà Văn Ngạc
* * *
“Tân xuân Giáp Dần Hoàng Sa chiến
Nam ngư hải ngoại huyết lưu hồng”
Hai câu thơ với lối hành-văn vận theo sấm Trạng Trình đã được truyền khẩu rất nhanh khi Hải đội Đặc nhiệm Hoàng Sa trở về tới Đà Nẵng vào sáng sớm ngày 20 tháng 4 năm 1974. Và câu thơ này do chính Hải quân đại tá Nguyễn Viết Tân (thủ khoa Khóa 5 của tôi) lúc đó đang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Sở Phòng vệ Duyên hải, đọc cho tôi nghe. Từ ngày đó tới nay đã đúng 25 năm, và do sự khuyến khích của các bậc thượng trưởng của Hải quân Việt Nam, những chi tiết về diễn tiến chưa tùng tiết lộ của trận hải chiến cần được ghi lại để làm chứng liệu lịch sử.
Sau trận hải chiến, những ưu và khuyết điểm về chiến thuật và chiến lược của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa (HQVNCH) đến nay nếu nêu ra thì sẽ không còn một giá trị thực tiễn nào để có thể làm những bài học cho những biến cố kế tiếp. Vì vậy một vài điều nếu có nêu ra tại đây thì chỉ để ghi lại tình trạng và khả năng khi Hải quân VNCH khi đã phải đương đầu với Trung cộng, là một quốc gia vào thời-điểm đó, đã sẵn có một lực lượng hùng hậu về Hải-Lục-Không-quân gấp bội của VNCH.
Một điểm hãnh diện cho Hải quân VNCH lúc bấy giờ là đã không những phải sát cánh với lực lượng bạn chống lại kẻ nội thù là cộng sản (CS) miền bắc trong nội địa, lại vừa phải bảo vệ những hải đảo xa xôi, mà lại còn phải chiến đấu chống kẻ xâm lăng, đã từng biết bao lần dầy xéo đất nước trong suốt lịch sử lập quốc và dành quyền độc lập của xứ sở.
So-sánh với các cuộc hành quân ngoại biên vào các năm 1970-71 của Quân lực VNCH sang đất Kampuchia và Hạ Lào, thì quân lực ta chỉ chiến đấu ngang ngửa vơi CSVN ẩn náu trên đất nước láng giềng mà thôi. Phải thành khẩn mà nhận rằng Hải quân VNCH ngoài nội thù còn phải chống ngoại xâm mà đã rất khó tiên liệu để chuẩn bị một cuộc chiến chống lại một lực lượng Hải quân Trung cộng tương đối dồi dào hơn cả chúng ta về phẩm cũng như lượng. HQVN ta đã có những gánh nặng về hành quân để yểm trợ lực lượng bạn và hành quân ngăn chận các vụ chuyển quân lén lút của Việt cộng qua biên giới Miên Việt trong vùng sông ngòi cũng như các vụ tiếp tế quân dụng của chúng vào vùng duyên hải.
Trước khi đi vào chi tiết của trận hải chiến lịch sử này, chúng ta thử nhắc sơ lược lại cấu-trúc nhân sự của thượng tầng chỉ huy và của các đơn vị tham chiến của Hải quân vào lúc biến cố:
- Tư lệnh Hải quân: Đề đốc Trần Văn Chơn
- Tư lệnh phó Hải quân: Phó Đề đốc Lâm Ngươn Tánh
- Tham mưu trưởng Hải quân: Phó Đề đốc Diệp Quang Thủy
- Tư lệnh Hạm đội: Hải quân đại tá Nguyễn Xuân Sơn
- Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải: Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
- Chỉ huy trưởng Hải đội tuần dương: Hải quân đại tá Hà Văn Ngạc, (Hải-đội 3) và là sĩ quan chỉ huy chiến thuật trận hải chiến.
- Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4: Hải quân trung tá Vũ Hữu San
- Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ5: Hải quân trung tá Phạm Trọng Quỳnh
- Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16: Hải quân trung tá Lê Văn Thự
- Hạm trưởng Hộ tống hạm HQ10: Hải quân thiếu tá Ngụy Văn Thà (truy thăng Hải quân trung tá)
- Trưởng toán Hải kích đổ bộ: Hải quân đại úy Nguyễn Minh Cảnh.
LÝ DO TÔI ĐÃ CÓ MẶT TẠI HOÀNG SA
Rất nhiều chiến hữu trong Hải quân đã không rõ nguyên cớ nào mà tôi đã có mặt để đích thân chỉ huy tại chỗ trận hải chiến Hoàng Sa. Sự có mặt của tôi bắt nguồn từ khi tôi được Hội đồng Đô đốc chỉ định tôi tăng phái cho Vùng I duyên hải khoảng từ cuối năm 72 đầu 1973. Lý do tăng phái của tôi đến Vùng I duyên hải tôi không được biết trước cho đến khi tôi tới Quân Khu 1, tôi mới được biết nhiệm vụ chính của tôi là chuẩn bị một trận thư-hùng giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải quân Bắc-Việt mà lúc đó, tin tình báo xác nhận là Cộng sản đã được viện-trợ các cao tốc đỉnh loại Komar của Nga-sô trang bị hỏa tiễn hải hải (surface to surface).
Vào thời gian đó Hải quân VNCH chỉ có khả năng chống đỡ thụ động loại vũ khí này. Cuộc hải chiến tiên liệu có thể xẩy ra khi lực lượng Hải quân Cộng sản tràn xuống để hỗ trợ cho quân bộ của chúng khi chúng muốn tái diễn cuộc cường tập xuất phát từ phía bắc sông Bến Hải như vào ngày cuối tháng 3 năm 1972 để khởi phát các cuộc tấn công suốt mùa hè đỏ lửa 1972.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hai tuần lễ hầu nghiên cứu để thiết kế. Kế hoạch chính của cuộc hải chiến này là xử dụng nhiều chiến hạm và chiến đỉnh (WPB và PCF) để giảm bớt sự thiệt hại bằng cách trải nhiều mục tiêu trên mặt biển cùng một lúc. Song song với việc này là các chiến hạm và chiến đĩnh phải xử dụng đạn chiếu sáng và hỏa pháo cầm tay như là một cách chống hỏa tiễn thụ-động. Ngoài ra Hải quân cũng cần đặt ra sự yểm-trợ của pháo binh của Quân đoàn I để tác xạ ngăn chặn và tiêu diệt lực lượng Hải quân CS tại phía bắc Cửa Việt trước khi họ tràn xuống phía nam để đủ tầm phóng hỏa tiễn. Sau khi đã thuyết trình tại BTL HQ Vùng I duyên hải cùng các Chỉ huy trưởng các đơn-vị duyên-phòng và duyên-đoàn, Tư lệnh HQ Vùng I duyên hải chấp thuận kế hoạch và đưa kế hoạch lên thuyết trình tai BTL Quân-đoànI và Quân-Khu I.Buổi thuyết-trình tại BTL/Quân-đoàn I do đích thân trung tướng Ngô Quang Trưởng chủ tọa, ngoài Tư lệnh HQ Vùng I duyên hải còn có đại tá Hà Mai Việt trưởng phòng 3 Quân đoàn, đại tá Khiêu Hữu Diêu, đại tá Nguyễn Văn Chung chỉ huy trưởng pháo binh Quân đoàn và một số rất ít các sĩ quan phụ tá. Nhu cầu yểm trợ pháo binh cho cuộc hải chiến được chấp thuận ngay và chỉ huy trưởng pháo binh Quân đoàn hứa sẽ phối trí pháo binh, đặc biệt là pháo binh 175 ly để thỏa mãn kế hoạch của Hải quân, khi được yêu cầu. Kể từ khi được chỉ định tăng phái, tôi thường có mặt tai Vùng I duyên hải mỗi tháng chừng hai tuần tùy theo công việc của tôi tại Hải đội, nhưng chưa lần nào BTL HQ, BTL Hạm đội hoặc Vùng I Duyên hải chỉ thị tôi phải có mặt trong vùng. Khi có mặt tại vùng tôi thường tìm hiểu tình hình tổng quát tại Quân khu I cũng như đi hoặc tháp-tùng Tư lệnh HQ vùng I duyên hải thăm viếng các đơn vị lục quân bạn cấp sư đoàn, lữ đoàn hay trung đoàn.
Trở lại trận hải chiến Hoàng Sa, vào khoảng ngày 11 tháng Giêng năm 1974, chỉ khoảng vài ngày sau khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger rời Trung cộng, thì đột nhiên Ngoại trưởng Trung cộng lại một lần nữa tuyên bố về chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng và Trường Sa. Tôi rất lưu-ý tin này vì tôi đã chỉ huy công-cuộc đặt quân trú-phòng đầu tiên trên đảo Nam Yết vùng Trường Sa vào cuối mùa hè 1973. Vài ngày sau, vì Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc còn bận công cán ngoại quốc, thì phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH bác bỏ luận cứ của Trung cộng và tái xác nhận một lần nữa chủ quyền của VNCH trên các quần đảo đó.
Ngày 16 tháng 1 năm 1974, tôi từ Sài Gòn đi Vũng Tàu để chủ tọa lễ trao quyền chỉ huy Tuần dương hạm HQ5 Trần Bình Trọng đang neo tại chỗ, cho tân hạm trưởng là HQ trung tá Phạm Trọng Quỳnh (tôi không còn nhớ tên cựu hạm trưởng). Khi trở về Sài Gòn, lúc theo dõi bản tin tức hàng ngày của đài truyền-hình thì thấy Ngoại trưởng Vương Văn Bắc hùng hồn và nghiêm trọng khi tuyên bố chủ quyền của VNCH trên 2 quần đảo Hoàng và Trường Sa. Tôi thấy có chuyện bất ổn có thể xẩy ra tại Vùng I duyên hải nhất là Việt cộng có lẽ được Trung cộng hỗ trợ tạo ra tình thế rắc rối ngoài hải đảo để thu hút lực lượng của HQVN, và đương nhiên CS sẽ lợi dụng để tràn xuống dưới vĩ tuyến 17 như đã dự liệu.
Nên sáng sớm ngày 17, không kịp thông báo đến Tư lệnh Hạm đội; tôi lên phi trường Tân Sơn Nhứt và đến thẳng ngay Trạm hàng không quân sự. Tôi gặp ngay một vị thượng sĩ Không quân trưởng trạm và nói là tôi cần đi gắp ra Đà Nẵng. Vị thượng sĩ trình với tôi là danh sách hành khách đã đầy đủ cho chuyến bay và giới thiệu tôi gặp vị trung úy phi công trưởng phi cơ C130. Sau khi trình bày lý do khẩn cấp đi Đà Nẵng của tôi, vị phi công trưởng trang trọng mời tôi lên phi cơ ngồi vào ghế phụ trong phòng phi công.
Đến Đà Nẵng khoảng 9:00 sáng, tôi mới kêu điện thoại cho HQ đại tá Nguyễn Hữu Xuân, Tư lệnh phó Vùng cho xe đón tôi tại phi trường. Đến BTL/HQ Vùng I duyên hải tôi mới được biết chi tiết những gì đang xảy ra tại Hoàng Sa, và được biết thêm là chiếc tuần dương hạm HQ5, mà tôi vừa chủ tọa trao quyền chỉ huy ngày hôm qua tại VũngTàu sẽ có mặt tại quân cảng vào buổi chiều tối cùng với biệt đội hải kích.
Tư lệnh HQ vùng I duyên hải cũng cho tôi hay và giơ một tờ giấy nhỏ nói là ông có thủ bút của Tổng thống vừa tới thăm bản doanh trước đây, nhưng tôi không hỏi về chi tiết cũng như xin xem thủ bút vì tôi nghĩ đó là chỉ thị riêng tư giữa Tổng thống và một vị Tướng lãnh. Vị Tư lệnh này còn cho tôi hai chọn lựa: một là chỉ huy các chiến hạm ngay tại BTL Vùng, hai là đích thân trên chiến hạm. Tôi đáp trình ngay là: Tôi sẽ đi theo các đơn vị của tôi. Từ ngày được thuyên chuyển về Hạm đội, không như các vị tiền nhiệm, tôi thường xa Bộ chỉ huy để đi theo các chiến hạm trong công tác tuần dương. Mỗi chuyến công tác, sự hiện diện của tôi đã mang lại cho nhân viên chiến hạm niềm phấn khởi sau nhiều ngày phải xa căn cứ. Tôi thường lưu ý các vị hạm trưởng đến việc huấn huyện nội bộ hoặc thao dượt chiến thuật với chiến hạm khác khi được phép.
Đến khoảng buổi chiều thì Tư lệnh vùng I duyên hải còn hỏi tôi có cần thêm gì, tôi trình xin thêm một chiến hạm nữa vì cần hai chiếc khi di chuyển trong trường hợp bị tấn công trên hải trình, chứ không phải vì số lượng chiến hạm Trung cộng đang có mặt tại Hoàng Sa. Chiếc Hộ tống hạm (PCE) HQ10 Nhựt Tảo được chỉ định xung vào Hải đoàn đặc nhiệm, với lý do chính là chiếc Hộ tống hạm này đang tuần dương ngay khu vực cửa khẩu Đà Nẵng nên giảm bớt thời gian di chuyển, chiến hạm chỉ có một máy chánh khiển dụng mà thôi. Ngoài ra vị Tư lệnh HQ vùng còn tăng phái cho tôi HQ thiếu tá Toàn (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ thiếu tá Nguyễn Chí Toàn, Khóa 11 SQHQ/Nha Trang), mà tôi chưa biết khả năng nên trong suốt thời gian tăng phái tôi chỉ trao nhiệm vụ giữ liên lạc với các BTL cho vị sĩ quan này. Tôi dùng cơm chiều gia đình cùng Tư lệnh HQ Vùng tại tư thất trong khi chờ đợi Tuần dương hạm HQ5 tới. Sau bữa ăn, Tư lệnh HQ Vùng đích thân đi bộ tiễn chân tôi ra cầu quân cảng. Sau trận chiến, vị Đô đốc này có thổ lộ cùng tôi là ông đã tưởng đó là bữa cơm cuối cùng của ông với tôi. Như vậy là trận hải chiến đã dự liệu là sẽ có thể xẩy ra, và chắc vị Đô đốc đã mật trình về Tư lệnh Hải quân thường có mặt tại BTL.
Tuần dương hạm HQ5 rời bến khoảng 09:00 tối và tôi trao nhiệm vụ đi tới Hoàng Sa cho Hạm trưởng HQ5 là vị hạm trưởng thâm niên hơn. (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ5 và HQ10 cùng đi Hoàng Sa, Hạm trưởng HQ5 là trung tá Quỳnh thuộc khóa 11 SQHQ Nha Trang, thâm niên hơn Hạm trưởng HQ5 là thiếu tá Thà thuộc khóa 12 SQHQ Nha Trang). Sự hiện diện của tôi trên chiến hạm này đã làm tân hạm trưởng, vừa nhậm chức 2 ngày trước, được vững tâm hơn vì chắc tân hạm trưởng chưa nắm vững được tình trạng chiến hạm cũng như nhân viên thuộc hạ. Các chiến hạm đều giữ im lặng vô tuyến ngoại trừ các báo cáo định kỳ về vị trí.
NHỮNG DIỄN TIẾN NGÀY HÔM TRƯỚC TRẬN HẢI CHIẾN
Khoảng 8 hay 9:00 giờ sáng ngày 18, hai chiến hạm HQ5 và HQ10 đã đến gần Hoàng Sa, và trong tầm âm thoại bằng máy VRC46 (hậu thân của máy PRC25 nhưng với công xuất mạnh hơn) để liên lạc bằng bạch văn, vì tầm hữu hiệu của máy chỉ ở trong vùng Hoàng Sa mà thôi, tôi nói chuyện với Hạm trưởng HQ4 HQ trung tá Vũ hữu San, lúc đó đang là sĩ quan thâm niên hiện diện, để được am tường thêm tình hình cũng như thông báo về sự hiện diện của tôi, vừa là Chỉ huy trưởng Hải đội vừa là để thay thế quyền chỉ huy mọi hoạt động, theo đúng thủ tục ghi trong Hải quy.
Sau khi được trình bầy chi tiết các diễn tiến, tôi có lời khen ngợi Hạm trưởng này và chia sẻ những khó khăn mà vị này đã trải qua trong những ngày trước khi tôi có mặt tại vùng.
Vào khoảng xế trưa, thì cả 4 chiến hạm (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: HQ4, HQ5, HQ10 và HQ16) đều tập trung trong vùng lòng chảo của quần đảo Hoàng Sa và Hải đoàn đặc nhiệm được thành hình. Nhóm chiến binh thuộc Tuần dương hạm HQ16 và Khu trục hạm HQ4 đã đổ bộ và trương quốc kỳ VNCH trên các đảo Cam Tuyền (Robert), Vĩnh Lạc (Money) và Duy Mộng (Drummond) từ mấy ngày qua vẫn được giữ nguyên vị trí phòng thủ để giữ đảo. Sau khi quan sát các chiến hạm Trung cộng lởn vởn phía bắc đảo Quang Hòa (Duncan), tôi quyết định ngay là hải đoàn sẽ phô trương lực lượng bằng một cuộc thao diễn chiến thuật tập đội để tiến về phía đảo Quang Hòa với hy vọng là có thể đổ bộ hải kích như các chiến hạm ta đã làm trước đây. Lúc này trời quang đãng, gió nhẹ và biển êm. Tất cả chiến hạm đều phải vào nhiệm sở tác chiến, nhưng các dàn hải pháo và vũ khí đại liên phải ở trong thế thao diễn. Khởi hành từ nam đảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hòa, 4 chiến hạm vào đội hình hàng dọc, dẫn đầu là Khu trục hạm HQ4, theo sau là tuần dương hạm HQ5 làm chuẩn hạm đã có trương hiệu kỳ hải đội, thứ ba là tuần dương hạm HQ16 và sau cùng là Hộ-tống-hạm HQ10, tốc độ chừng 6 gút, khoảng cách giữa các chiến hạm là hai lần khoảng cách tiêu chuẩn (tức1000 yard), phương tiện truyền tin là kỳ hiệu và quang hiệu, và âm thoại bằng VRC46 hoặc PRC25 chỉ xử dụng để tránh hiểu lầm ám-hiệu vận chuyển chiến thuật mà thôi.
Chừng nửa giờ sau khi hải đoàn vận-chuyển vào đội-hình hướng về phía đảo Quang Hòa thì hai chiến hạm Trung cộng loại Kronstad mang số hiệu 271 và 274 bắt đầu phản-ứng bằng cách vận chuyển chặn trước hướng đi của hải đoàn, nhưng hải đoàn vẫn giữ nguyên tốc độ, trong khi đó thì hai chiếc chiến hạm khác nhỏ hơn mang số 389 và 396 (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là hai trục lôi hạm tức là tầu vớt mìn loại T43 cùng 2 chiếc ngư thuyền ngụy trang 402 và 407, ngư thuyền số 402 mang tên Nam Ngư) của họ vẫn nằm nguyên vị trí sát bờ bắc đảo Quang Hòa. Tôi đã không chú tâm đến 2 chiếc chiến hạm nhỏ của địch vì cho rằng, hai chiếc này chỉ là loại phụ mà thôi (sau này, khi sưu tầm tài liệu về trận hải chiến Hoàng Sa, HQ thiếu tá Trần Đỗ Cẩm truy ra theo số hiệu là loại trục lôi hạm và chắc trang bị vũ khí nhẹ hơn) còn hai chiếc tầu tiếp tế ngụy trang như ngư thuyền thì không đáng kể.
Hành động chận đường tiến của chiến hạm ta đã từng được họ xử dụng trong mấy ngày trước đây khi các chiến hạm ta đổ quân lên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng để xua quân của Trung cộng rời đảo. Chiếc Kronstad 271 bắt đầu xin liên lạc bằng quang hiệu để xin liên lạc, Tuần dương hạm HQ5 trả lời thuận và nhận công điện bằng Anh ngữ: "These islands belong to the People Republic of China (phần này tôi nhớ không chắc-chắn) since Ming dynasty STOP Nobody can deny" (Phần này tôi nhớ rất kỹ vì tôi có phụ nhận quang hiệu). Tôi cho gởi ngay một công-điện khái-quát như sau: "Please leave our territorial water immediately"
Công điện của chiến hạm Trung cộng được lập đi lập lại ít nhất 3 lần sau khi họ nhận được công điện của Hải đoàn đặc nhiệm VNCH, và chiến hạm ta cũng tiếp tục chuyển lại công điện yêu cầu họ rời khỏi lãnh hải của VNCH.
Vì 2 chiến hạm Kronstad Trung cộng cố tình chặn đường tiến của Hải đoàn đặc nhiệm với tốc độ khá cao, nếu Hải đoàn tiếp tục tiến thêm thì rất có thể gây ra vụ đụng tầu, tôi đưa Hải đoàn trở về phía nam đảo Hoàng Sa và vẫn giữ tình trạng ứng trực cũng như theo dõi các chiến hạm Trung cộng, họ cũng lại tiếp tục giữ vị trí như cũ tại phía bắc và tây bắc đảo Quang Hòa. Sự xuất hiện thêm 2 chiến hạm của HQVN vào trong vùng chắc chắn đã được chiếc Kronstad 271 của Trung cộng, được coi như chiến hạm chỉ huy, báo cáo về Tổng hành dinh của họ, và việc tăng viện có thể được coi như đã được chuẩn bị.
Với hành động quyết liệt ngăn chặn ta không tiến được đến đảo Quang Hòa, tôi cho rằng họ muốn cố thủ đảo này. Việc đổ bộ quân để xua đuổi họ ra khỏi đảo, lúc đó tôi hy vọng, chỉ có thể phải thực hiện bất thần để tránh hành động ngăn chặn của họ và có lực lượng hải kích với trang phục người nhái, may ra họ có thể phải nhượng bộ, như Tuần dương hạm HQ16 và Khu trục hạm HQ4 đã thành công trong mấy ngày trước đó. Nếu họ tấn công thay vì nhượng bộ, Hải đoàn đặc nhiệm buộc phải sẵn sàng chống trả.
Vào khoảng 8 giờ tối, tôi yêu cầu Tuần dương hạm HQ16 chuyển phái đoàn công binh của Quân đoàn I sang Tuần dương hạm HQ 5 bằng xuồng. Phái đoàn công binh Quân đoàn I do thiếu tá Hồng hướng dẫn đã vào gặp tôi tại phòng ăn sĩ quan có theo sau Ông Kosh thuộc cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng. Tôi cho cả hai hay là tình hình sẽ khó tránh khỏi một cuộc đụng độ nên tôi không muốn các nhân viên không Hải quân có mặt trên chiến hạm và tôi sẽ đưa họ lên đảo. Tôi cũng yêu-cầu Tuần dương hạm HQ5 cấp cho tất cả một ít lương khô. Riêng ông Kosh thì tôi yêu cầu Hạm trưởng HQ5 đưa cho ông 1 bịch thuốc lá 10 bao Capstan. Tôi tiễn chân tất cả phái đoàn xuống xuồng và vẫy tay chào họ khi xuồng bắt đầu hướng về đảo Hoàng Sa. Kể từ giờ phút đó tới nay tôi không có dịp nào gặp lại ông Kosh để thăm hỏi ông và yêu cầu ông cho trả lại Tuần dương hạm HQ5 bịch thuốc lá Capstan vì thuốc lá này thuộc quân tiếp-vụ của chiến hạm xuất ra ứng trước. Riêng thiếu tá Hồng thì tôi đã có dịp thăm hỏi ông tại Los Angeles vào năm 1996, cũng theo lời ông thì ông đã viết xong vào trước năm 1975, một cuốn ký sự về thời gian bị bắt làm tù binh trong lục địa Trung Hoa nhưng không được Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho xuất bản vì chưa phải lúc thuận tiện. Vào khoảng 10 giờ tối, tôi trực tiếp nói chuyện bằng vô tuyến với tất cả hạm trưởng để cho hay là tình hình sẽ khó tránh được một cuộc đụng độ, và yêu cầu các vị này chuẩn bị các chiến hạm và huy động tinh thần nhân viên để sẵn sàng chiến đấu. Tôi biết rõ cuộc chiến nếu xẩy ra thì tất cả nhân viên đều không đủ kinh nghiệm cho các cuộc hải chiến, vì từ lâu các chiến hạm chỉ chú tâm và đã thuần thuộc trong công tác tuần dương ngăn chặn hoặc yểm trợ hải pháo mà thôi, nếu có những nhân viên đã phục-vụ trong các giang đoàn tại các vùng sông ngòi thì họ chỉ có những kinh nghiệm về chiến đấu chống các mục tiêu trên bờ và với vũ khí tương đối nhẹ hơn và dễ dàng trấn áp đối phương bằng hỏa lực hùng hậu.
Vào khoảng 11:00 giờ tối ngày 18, một lệnh hành quân, tôi không còn nhớ được xuất xứ, có thể là của Vùng I duyên hải, được chuyển mã hóa trên băng tần SSB (single side band) (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là công điện Mật/Khẩn chiến dịch mang số 50.356, nhóm ngày giờ 180020H/01/74 do BTL/HQ/V1ZH gửi với tiêu đề: Lệnh Hành Quân Hoàng Sa 1). Lệnh hành quân vừa được nhận vừa mã dịch ngay nên không bị chậm-trễ, và lệnh này ghi rõ quan niệm hành quân như sau: tái chiếm một cách hòa bình đảo Quang Hòa. Lệnh hành quân cũng không ghi tình hình địch và lực lượng trừ bị nhưng những kinh nghiệm từ trước tới nay nhất là trong hai năm tôi đảm nhận trách vụ Tham mưu phó hành quân tại BTL/HQ, tôi dự đoán Trung cộng, vì đã thiết lập một căn cứ tiền phưong tại đảo Phú Lâm thuộc nhóm Tuyên Đức nằm về phía đông bắc đảo Hoàng Sa sát vĩ tuyến 17, nên họ đã có thể đã phối trí tại đây lực lượng trừ bị, và hơn nữa trên đảo Hải Nam còn có một căn cứ Hải quân rất lớn và một không lực hùng hậu với các phi cơ MIG 19 và 21 với khoảng cách gần hơn là từ Đà Nẵng ra. Việc Trung cộng lấn chiếm những đảo không có quân trú phòng của ta trong vùng Hoàng Sa, đã phải được họ chuẩn bị và thiết kế chu đáo từ lâu trước khi tái tuyên bố chủ quyền. Trong khi đó việc HQVNCH phát hiện sự hiện diện của họ chỉ có từ khi Tuần dương hạm HQ16 được lệnh đến thăm viếng định kỳ và chở theo phái đoàn Công binh Quân đoàn I ra thám sát đảo để dự kiến việc thiết lập một phi đạo ngắn.
Ngay sau khi hoàn tất nhận lệnh hành quân, tôi chia Hải đoàn thành hai phân đoàn đặc nhiệm: Phân đoàn I là nỗ lực chính gồm Khu trục hạm HQ4 và Tuần dương hạm HQ5 do Hạm trưởng Khu trục hạm HQ4 chỉ huy; Phân đoàn II là nỗ-lực phụ gồm Tuần dương hạm HQ16 và Hộ tống hạm HQ10 do Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16 chỉ huy. Nhiệm vụ là phân đoàn II giữ nguyên vị trí trong lòng chảo Hoàng Sa để tiến về đảo Quang Hòa vào buổi sáng. Phân-đoàn I khởi hành vào 12:00 đêm đi bọc về phía tây rồi xuống phía nam sẽ có mặt tại nam đảo Quang Hòa vào 06:00 sáng ngày hôm sau tức là ngày 19 để đổ bộ biệt đội hải kích. Phân đoàn I phải đi bọc ra phía tây quần đảo thay vì đi thẳng từ đảo Hoàng Sa xuống đảo Quang Hòa là để tránh việc các chiến hạm Trung cộng có thể lại vận chuyển ngăn chặn đường tiến của chiến hạm như họ đã làm vào buổi chiều, vả lại việc hải hành tập đội về đêm trong vùng có bãi cạn và đá ngầm có thể gây trở ngại cho các chiến hạm, nhất là Khu trục hạm còn có bồn SONAR (máy dò tiềm thủy đĩnh), hy vọng hải trình như vậy sẽ tạo được yếu tố bất ngờ. Hơn nữa về mùa gió đông bắc, việc đổ bộ vào phía tây nam sẽ tránh được sóng biển cho xuồng bè. Nên ghi nhận tại điểm này là kể từ năm 1973, toán cố vấn HQ Hoa Kỳ tại Hạm đội mà trưởng toán là HQ đại tá Hamn (tên họ) đã nhiều lần yêu cầu tháo gỡ máy Sonar trên các khu trục hạm. Phó đề đốc Nguyễn Thành Châu (lúc đó còn mang cấp HQ đại tá) Tư lệnh Hạm đội đã trao nhiệm vụ cho tôi thuyết phục họ giữ máy lại để dùng vào việc huấn luyện. Mãi đến khi HQ đại tá Nguyễn Xuân Sơn nhận chức Tư lệnh Hạm đội một thời gian, tôi vẫn tiếp tục liên lạc với toán cố vấn, và sau cùng họ mới bằng lòng giữ máy lại với tính cách để huấn luyện. Thực ra một khu trục hạm mà thiếu máy thám xuất tiềm thủy đĩnh thì khả năng tuần thám và tấn công sẽ giảm đi nhiều.
DIỄN TIẾN TRẬN HẢI CHIẾN NGÀY 19 THÁNG 1 NĂM 1974
Đúng 6:00 sáng ngày 19, trời vừa mờ sáng, Phân đoàn I đã có mặt tại tây nam đảo Quang Hòa, thủy triều lớn, tầm quan sát trong vòng 1.50 đến non 2.00 hải lý, trời có ít mây thấp nhưng không mưa, gió đông bắc thổi nhẹ, biển tương đối êm tuy có sóng ngầm. Phân đoàn I tiến sát đảo khoảng hơn 1 hải lý, Tuần dương hạm HQ5 nằm gần bờ hơn một chút để thuận tiện đổ bộ hải kích. Hai chiếc Kronstad 271 và 274 bị bất ngờ rõ rệt nên thấy họ đã vận chuyển lúng túng và không thực hiện được hành động ngăn cản như họ đã từng làm vào chiền hôm trước. Tôi cũng bị bất ngờ là hai chiếc chủ lực địch lại có mặt cùng một nơi để sẵn sàng đối đầu mà tôi không phải tìm kiếm họ, như tôi đã coi họ như là muc tiêu chính. Họ đã phải luồn ra khỏi khu lòng chảo vào ban đêm, nhưng không hiểu là họ có theo dõi được đuờng tiến quân của Phân đoàn I hay không. Vào giờ này thì họ đã phải biết rõ là Tuần dương hạm HQ5 là chiến hạm chỉ huy của ta và cũng đã phải biết được hỏa lực của chiếc khu trục hạm.
Biệt đội hải kích do HQ đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy đã được tôi chỉ thị là không được nổ súng và lên bờ yêu cầu toán quân của họ rời đảo. Trong biệt đội này có một chiến sĩ hải kích Đỗ Văn Long và luôn cả HQ đại úy Nguyễn Minh Cảnh là những chiến sĩ đã tham dự cuộc hành quân đầu tiên Trần Hưng Đạo 22 (nếu tôi không lầm) cũng do tôi chỉ huy để xây cất doanh trại và đặt quân trú phòng đầu-tiên trên đảo Nam Yết thuộc quần đảo Trường Sa vào cuối mùa hè năm 1973.
Một lần nữa, khi biệt đội hải kích xuồng xuồng cao su, tôi đích thân ra cầu thang căn dặn và nhấn mạnh về việc đổ bộ mà không được nổ súng, và khi bắt liên lạc được với họ thì yêu cầu họ rời khỏi đảo.
Tôi không chắc là cuộc đổ bộ sẽ thành công vì quân Trung cộng trên đảo đã phải tổ chức bố phòng cẩn mật tiếp theo sự thất bại của họ trên các đảo khác đã nói ở trên, trong khi đó biệt đội hải kích lại không có được hỏa lực chuẩn bị bãi đổ-bộ. Một lần nữa tôi lại chỉ thị cho các hạm trưởng chuẩn bị để chiến đấu. Nếu cuộc đổ bộ thất bại thì với hỏa lực của 2 khẩu 76 ly tự động trên Khu trục hạm HQ4, một chiến hạm chủ lực của Hải đoàn đặc nhiệm, sẽ có đủ khả năng loại ít nhất là hai chiến hạm chủ lực Trung cộng ra khỏi vòng chiến không mấy khó khăn, còn quân bộ của Trung cộng trên đảo thì tôi tin chỉ là một mục tiêu thanh toán sau cùng. Tôi còn có ý định là sẽ điều động chiếc khu trục hạm vượt vùng hơi cạn trực chỉ hướng bắc vào thẳng vùng lòng chảo để tăng cường cho Phân đoàn II nếu cần sau khi đã loại xong 2 chiếc Kronstad mà tôi luôn luôn cho là mục tiêu chính. Tôi rất vững lòng vào hỏa lực của chiến hạm chủ lực vì tôi đã được tường trình đầy đủ về khả năng của hải pháo 76 ly tự động khi Khu trục hạm này yểm trợ hải pháo tại vùng Sa Huỳnh trong nhiệm kỳ hạm trưởng của HQ trung tá Nguyễn Quang Tộ.
Biệt đội hải kích tiến vào đảo bằng 2 xuồng cao su, từ chiến hạm ta, việc quan sát sự bố phòng của Trung cộng trên đảo không được rõ ràng. Các chiến hạm Trung cộng cũng không có phản ứng gì đối với xuồng của hải kích. Theo báo cáo của Biệt đội trưởng hải kích thì chiến sĩ hải kích Đỗ Văn Long là người đầu tiên tiến vào đảo và vừa nổ súng vừa tiến vào trong nên đã bị hỏa-lực trong bờ bắn tử thương ngay tại bãi biển. HQ trung úy Lê Văn Đơn (xuất thân từ bộ binh) tiến vào để thâu hồi tử thi của liệt sĩ Long cũng lại bị tử thương ngay gần xuồng nên tử thi vị sĩ-quan này được thâuhồi ngay. Việc thất bại đổ bộ được báo cáo ngay về BTL HQ vùng I duyên hải và chừng ít phút sau đó (vào khoảng 09:30 sáng) thì đích thân Tư lệnh HQ VNCH hay Tư lệnh Vùng I duyên hải ra lệnh vắn tắt có hai chữ: "khia hỏa" bằng bạch văn cho Hải đoàn đặc nhiệm và không có chi tiết gì khác hơn.
Tôi nhận biết được khẩu lệnh trên băng siêu tần số SSB (single side band) không phải là của nhân viên vô tuyến mà phải là của cấp Đô đốc, nhưng từ đó đến nay tôi vẫn tin rằng là của Tư lệnh Hải quân mà tôi đã quen thuộc giọng nói, nên tôi đã không kiểm chứng thêm về sau. Tôi trở nên yên tâm hơn vì khẩu lệnh khai hỏa đã giải tỏa trách nhiệm của tôi ghi trong phần quan niệm của lệnh hành quân là tái chiếm một cách hòa bình. Tôi đích thân vào máy siêu tần số trình ngay là chưa có thể khai hỏa được vì phải chờ triệt thối Biệt đội hải kích về chiến hạm, họ còn trên mặt biển và ở vào vị thế rất nguy hiểm. Riêng tử thi của liệt sĩ hải kích Đỗ Văn Long tôi lệnh không cho vào lấy vì có thể gây thêm thương vong. Tôi tin rằng tử thi của liệt sĩ Long sẽ không khó khăn để thâu hồi khi toán quân bộ Trung cộng được tiêu diệt sau đợt các chiến hạm của họ bị loại hoàn toàn khỏi vòng chiến.
Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, biệt đội hải kích được hoàn tất thu hồi về Tuần dương hạm HQ5 với HQ trung úy Lê Văn Đơn tử thương. Trong khi đó thì tôi chỉ thị cho các chiến hạm chuẩn bị tấn công, mỗi chiến hạm tấn công một chiến hạm địch, và bám sát địch trong tầm hải pháo 40 ly (khoảng 3 cây-số), vì loại hải pháo này có nhịp tác xạ cao, dễ điều chỉnh và xoay hướng nhanh hơn. Tôi không tin tưởng nhiều vào hải pháo 127 ly và khả năng điều khiển chính xác của nhân viên vì hải pháo chỉ có thể tác xạ từng phát một, nạp đạn nặng nề và chậm xoay hướng nên tốt hơn là trực xạ.
Tất cả các chiến hạm phải cùng khai hỏa một lúc theo lệnh khai hỏa của tôi để tạo sự bất ngờ và sẽ gây thiệt hại trước cho các chiến hạm Trung cộng. Vì tầm quan sát còn rất hạn chế, nên từ Tuần dương hạm HQ5 không quan sát được Tuần dương hạm HQ16 và Hộ tống hạm HQ10 cũng như hai chiến hạm khác và hai ngư thuyền ngụy trang của Trung cộng nên tôi không rõ các chiến hạm này bám sát các chiến hạm Trung cộng được bao nhiêu, nhưng tôi đã tin rằng Phân đoàn II không có bận tâm về việc đổ bộ nên có nhiều thì giờ hơn để thi hành kế hoạch tấn công và sẽ dễ dàng chế ngự được hai chiến hạm phụ của địch cùng hai ngư thuyền. Riêng Tuần dương hạm HQ5 và Khu trục hạm HQ4 đã nghiêm chỉnh thi hành lệnh. Trước khi ban hành lệnh khai hỏa tôi hỏi các chiến hạm đã sẵn sàng chưa và nhấn mạnh một lần nữa là phải khai hỏa đồng loạt để đạt yếu tố bất ngờ. Các hạm trưởng đích thân trên máy VRC46 lần lượt báo cáo sẵn sàng. Tôi rất phấn khởi vì giờ tấn công hoàn toàn do tôi tự do quyết định, không phải lệ thuộc vào lệnh của thượng cấp và vào ý-đồ chiến thuật của địch. Địch lúc này đã tỏ ra không có một ý định gì cản trở hay tấn công chiến hạm ta.
Hải quân đại tá Đỗ Kiểm, Tham mưu phó hành quân tại BTL HQ còn đặc biệt cho tôi hay là có chiến hạm bạn ở gần, nhưng với sự hiểu biết của tôi, tôi không có một chút tin tưởng gì vào đồng minh này vì kể từ tháng 2 năm 1972 khi Hoa Kỳ và Trung cộng đã chấm dứt sự thù nghịch nên Hải quân của họ sẽ không một lý do gì lại tham dự vào việc hỗ trợ HQVN trong vụ tranh chấp về lãnh thổ. Họa chăng họ có thể cứu vớt những người sống sót nếu các chiến hạm HQVN lâm nạn. Nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc tìm kiếm những nhân viên từ Hộ tống hạm HQ10 và các toán đã đổ bộ lên trấn giữ các đảo đã đào thoát để trở về đất liền, chúng ta không nhận thấy một hành động nhân đạo nào từ phía đồng minh kể cả của phi cơ không tuần.
Khoảng 10:24 sáng thì lệnh khia hỏa tấn công được ban hành và tôi vào trung tâm chiến báo trực tiếp báo cáo bằng máy siêu tần số SSB, tôi đã cố ý giữ ống nói sau khi tôi chấm dứt báo-cáo để tiếng nổ của hải pháo cũng được truyền đi trên hệ thống này. Cuộc khai hỏa tấn công đã đạt được yếu tố bất ngờ cho các chiến hạm địch vì tôi cho rằng họ vẫn tin là các hành động của chiến hạm cũng tương tự như trong những vài ngày trước, khi HQVN đổ quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng và nhất là cuộc phô diễn lực lượng của hải đoàn đặc nhiệm ngày hôm trước HQVN đã không có một hành động khiêu khích nào, mà còn chấp thuận giữ liên lạc bằng quang hiệu.
Chiếc Kronstad 271 nằm về hướng tây gần đảo Quang Hòa, hướng mũi về phía tây là mục tiêu của Tuần dương hạm HQ5 đang hướng mũi vào bờ tức là phía đông, đặt mục tiêu về phía tả hạm (tức là phía bắc). Chiếc này bị trúng đạn ngay từ phút đầu, vận chuyển rất chậm chạp nên đã là mục tiêu rất tốt cho Tuần dương hạm HQ5. Hỏa lực của chiếc Kronstad 271 này không gây nhiều thiệt hại cho Tuần dương hạm HQ5, nhưng có thể đã gây thiệt hại nặng cho Hộ tống hạm HQ10 nằm về phía bắc. Khu trục hạm HQ4 nằm về phía tây nam của Tuần dương hạm HQ5 đặt mục tiêu là chiếc Kronstad 274 nằm về phía bắc tức là tả hạm của chiến hạm. Nhưng chẳng may, HQ4 báo cáo bị trở ngại tác xạ ngay từ phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa. Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của tôi và làm tôi bối rối. Sau vài phút thì chiến hạm này xin bắn thử và kết quả là vẫn bị trở ngại và cần tiếp tục sửa chữa thêm, nhưng tôi vẫn còn chút hy vọng. Khu trục hạm HQ4 vài phút sau lại xin tác xạ thử lần thứ ba nhưng vẫn không có kết quả, tuy nhiên chiến hạm này vẫn phải tiếp tục bám sát mục tiêu của mình trong tầm các loại đại liên nên đã bị thiệt hại nhiều bởi hỏa lực của chiếc Kronstad 274, và đại liên đã không áp đảo được hỏa lực của địch.
Trên Tuần dương hạm HQ5, tôi xử dụng chiếc máy PRC25 trước ghế hạm trưởng bên hữu hạm của đài chỉ huy để liên lạc với các chiến hạm, tôi vừa rời ghế để ra ngoài quan sát hai phía thì một trái đạn loại nổ mạnh gây một lỗ lủng khoảng nửa thước đường kính và làm nát máy PRC25, nên từ phút này trở đi tôi phải vào tận trung tâm chiến báo để dùng máy VRC46. Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ5 đứng cạnh đài chỉ huy bên tả hạm với sĩ quan hải pháo để dễ quan sát mục tiêu được chỉ định, nên tôi thường nói trực tiếp với hạm trưởng tại nơi này. Trung tâm chiến báo của chiến hạm này chỉ quen thuộc dùng radar vào việc hải hành, vả lại trời mù, mây thấp, radar có nhiều nhiễu xạ nên tôi không được rõ về vị trí của Phân-đoàn II và các chiến hạm của địch còn nằm trong khu lòng chảo Hoàng Sa.
Sau chừng 15 phút thì Tuần dương hạm HQ16 báo cáo là bị trúng đạn hầm máy, tầu bị nghiêng nên khả năng vận chuyển giảm sút, buộc phải lui ra ngoài vòng chiến để sửa chữa và cũng không còn liên lạc được với Hộ tống hạm HQ10, không biết rõ tình trạng và chỉ thấy nhân viên đang đào thoát. Tôi nhận thấy một tuần dương-hạm đã vận chuyển nặng nề mà chỉ còn một máy và bị nghiêng, nếu tiếp tục chiến đấu thì sẽ là một mục tiêu tốt cho địch, nên tôi đã không ra phản lệnh. Ngoài ra, Hạm trưởng Tuần dương hạm HQ16 là một vị sĩ quan ít tích cực hơn, nên tôi không mấy tin tưởng là vị này có thể vượt qua được các khó khăn kỹ thuật để cố gắng tiếp tục tấn công. Khu trục hạm HQ4 đã bị thiệt hại nhiều sau khi phải bám sát chiến hạm địch trong tầm đại liên, nên tôi ra lệnh cho Khu trục hạm HQ4 phải rút ra khỏi vòng chiến ngay và chỉ thị cho Tuần dương hạm HQ5 yểm trợ cho chiếc này khi tiến ra xa, vì tất nhiên Hải đội đặc nhiệm không thể để bị thiệt hại một khu trục hạm mà Hải quân VNCH chỉ có tổng cộng 2 chiếc mà thôi.
Khi khu trục hạm HQ4 ra khỏi vùng chiến, lại không bị chiếc Kronstad 274 truy kích hoặc tác xạ đuổi theo, ngược lại chiếc này của địch có phần rảnh tay hơn để tấn công Tuần dương hạm HQ5 vào phía hữuhạm hầu giảm bớt hỏa lực của chiến hạm ta như để cứu vãn chiếc 271 đang bị tê-liệt. Vào giờ này thì tin tức từ BTL Hải quân tại Sài Gòn do chính Tham mưu phó hành quân cho hay là một phi đội khu trục cơ F5 đã cất cánh để yểm trợ cho Hải đoàn đặc nhiệm. Do sự liên lạc từ trước với BTL sư đoàn I Không quân tại Đà Nẵng, tôi hiểu là phi cơ F5 chỉ có thể yểm trợ trong vòng 5 tới 15 phút mà thôi vì khoảng cách từ Đà Nẵng tới Hoàng Sa quá xa so với nhiên liệu dự trữ. Tôi vẫn tin rằng loan tin việc phi cơ cất cánh, BTL Hải quân đã cho rằng tin này có thể làm cho tôi vững tâm chiến đấu. Một điều nữa là từ trước tới giờ phút đó tôi chưa được thấy có cuộc thao dượt hỗn hợp nào giữa Không quân và Hải quân nên tôi rất lo âu về sự nhận dạng của phi công để phân biệt giữa chiến hạm của HQVN và chiến hạm Trung cộng, nhất là lúc có mây mù thấp, nên phi cơ có thể gây tác xạ nhầm mục tiêu. Máy VRC 46 trong trung tâm chiến báo phải chuyển sang tần số không hải và đích thân tôi dùng danh hiệu để bắt liên lạc với phi cơ. Một viên đạn xuyên nổ trúng ngay trung tâm chiến báo từ hữu hạm, sát gần ngay nơi tôi đứng, làm trung tâm bị phát hỏa. Các nhân viên trong trung tâm còn mãi núp sau bàn hải đồ thì tôi nhanh tay với một bình cứu hỏa gần chỗ tôi đứng dập tắt ngay ngọn lửa.
Tôi bị té ngã vì vấp chân vào bàn hải đồ, bàn chân trái bị đau mất vài ngày. Tôi vẫn vẫn tiếp tục liên lạc với phi cơ nhưng sau chừng 5 tới 10 phút vẫn không thấy đáp ứng nên tôi phải ngưng và chuyển tần số về liên lạc với các chiến hạm khác vì cuộc giao tranh đã đến độ khốc liệt hơn. Sau phút này thì Tuần dương hạm HQ5 bị trúng nhiều đạn làm sĩ quan trưởng khẩu 127 ly tử thương và hải pháo bị bất khiển-dụng vì phần điện điều khiển pháo tháp tê liệt, và máy siêu tần số SSB không còn liên lạc được vì giây trời bị sập rớt xuống sàn tầu, hiệu kỳ hải đội bị rách nát phần đuôi. Tôi ra ngoài quan sát phía tả hạm và được nghe báo cáo là hầm đạm phát hỏa. Tôi nói ngay với hạm trưởng là cần phải làm ngập hầm đạn. Khẩu hải pháo 40 ly đơn tả hạm bị bất khiển dụng vì bị trúng đạn vào khối nạp đạn và khẩu 40 ly hữu hạm bị hư hại nhẹ. Tôi yêu cầu hạm trưởng là chỉ nên cho tác xạ từng viên mà thôi, vì nhu cầu phòng không rất có thể xẩy ra trong một thời gian ngắn.
Bất thần về phía đông vào khoảng 11:25 sáng cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung cộng loại có trang bị mỗi bên một dàn phóng kép hỏa tiễn loại hải hải (Ghi chú của Trần Đỗ Cẩm: đây là loại khinh tốc đĩnh Komar) đang tiến vào vùng giao tranh với một tốc độ cao, quan sát được bằng mắt viễn kính và không một chiến hạm nào báo-cáo khám phá được bằng radar từ xa. Tôi dự đoán loại chiến hạm này ít khi được điều động từng chiếc một, và tin là có thể thêm ít nhất một chiếc theo sau. Với tình trạng của Hải đội đăc nhiệm: một hộ tống hạm bị loại khỏi vòng chiến; một tuần dương hạm bị thương nơi hầm máy; một khu trục hạm và một tuần dương hạm chỉ còn hỏa lực rất hạn chế; cộng với nguycơ bị tấn công bằng cả hỏa tiễn hải hải cũng như bằng phi cơ rất có thể xẩy ra, nên tôi triệt thoái phần còn lại của lực lượng là Khu trục hạm HQ4 và Tuần dương hạm HQ5 ra khỏi vùng Hoàng Sa tiến hướng đông nam về phía Subic Bay (Hải quân công xưởng của Hoa-Kỳ tại Phi Luật Tân). Tôi cũng cầu nguyện Đức Thánh Trần, Thánh Tổ của HQVNCH ban cho tôi một trận mưa để giảm tầm quan sát và khả năng tấn công của phi cơ địch. Sau khi hai chiến hạm còn lại rút ra khỏi vùng giao tranh chừng 10 phút thì một trận mưa nhẹ đã đổ xuống toàn vùng quần đảo Hoàng Sa. Các chiến hạm ta đã không bị truy kích và phi cơ địch cũng chưa xuất hiện. Mục đích tôi hướng về phía đông nam là để tránh bị phục kích của tiềm thủy đĩnh Trung cộng tại hải trình Hoàng Sa Đà Nẵng, và khi ra ngoài xa lãnh hải thì nếu còn bị tấn công bằng phi cơ hoặc tiềm thủy đĩnh thì may ra đồng minh Hải quân Hoa Kỳ có thể cấp cứu chúng tôi dễ dàng hơn theo tinh thần cấp cứu hàng hải quốc tế. Nếu chúng tôi không còn bị tấn công thì việc đến Subic Bay Phi Luật Tân để xin sửa chữa trước khi hồi hương là một điều khả dĩ được thượng cấp chấp thuận.
Tuần dương hạm HQ5 phải mất gần một giờ mới kéo lên được giây trời khẩn cấp để tái lập sự liên lạc bằng máy siêu tần số SSB. Hầm đạn phía mũi của chiến hạm đã bị làm ngập, mũi bị chúc xuống nên tốc độ có bị thuyên giảm. Chính trong thời gian mất liên lạc, BTL tại Sài Gòn cũng như tại Đà Nẵng rất bối rối cho sự an toàn của hai chiến hạm và bản thân tôi. Chính Tư lệnh Hạm đội tại Sài Gòn cũng đã đưa tin mất liên lạc đến với gia đình tôi.
Vào khoảng 01:00 trưa, hai chiến hạm HQ4 và HQ5 đã cách Hoàng Sa chừng 10 hải lý, trời nắng và quang đãng. Tư lệnh Hải quân đích thân ra lệnh cho cả hai chiến hạm phải trở lại Hoàng Sa và đánh chìm nếu cần, tôi nhận được giọng nói của Đô đốc. Lệnh đã được thi hành nghiêm chỉnh ngay tức khắc. Sau khi liên lạc vô tuyến siêu tần số được điều hòa trở lại thì mọi báo cáo chi tiết về tổn thất và tình trạng lúc bấy giờ của các hai chiến hạm được chuyển đầy đủ. Trên Tuần dương hạm HQ5 tôi cũng được thông báo về Tuần dương hạm HQ16 sẽ được Tuần dương hạm HQ6 tới hộ tống về Căn cứ Hải quân Đà Nẵng.
Đến khoảng 02:30 chiều, khi cả hai chiến hạm đang trở về Hoàng Sa, quá ngang hòn Tri Tôn, nghĩa là còn cách đảo Hoàng Sa chừng 1 giờ rưỡi hải hành nữa, thì hai chiến hạm được phản lệnh trở về Đà Nẵng. Lúc này trời đã nắng, mây cao nên rất dễ dàng cho việc hải hành. Trong một cuộc đến thăm Tư lệnh HQVNCH tại tư dinh vào khoảng tháng 2 năm 1974, thì vị Đô đốc này đã tiết lộ rằng nếu biết được sớm tình trạng của Hải đoàn đặc nhiệm thì Tư lệnh đã cho lệnh trở về căn cứ trước sớm hơn. Trên đường về, tôi vẫn ra lệnh cho các chiến hạm giữ nguyên nhiệm sở tác chiến và nhất nhất các nhân viên không ở trong nhiệm sở phòng máy phải túc trực trên boong để tránh tổn thất về nhân mạng trong trường hợp bị tiềm thủy đĩnh Trung cộng phục kích bằng ngư lôi. Nhưng may mắn là điều tôi dự liệu đã không xẩy ra. Các chiến hạm đã khởi sự ngay thu dọn các tổn thất về vật liệu và thu hồi các dư liệu tác xạ.
Tôi tò mò mở đài phát thanh BBC vào sáng sớm ngày 20, thì họ chỉ vỏn vẹn loan tin một trận hải chiến đã xẩy ra trong vùng quần đảo Hoàng Sa giữa Hải quân VNCH và Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, mỗi bên thiệt hại 1 chiến hạm và không thêm một chi tiết nào khác. Tôi tỏ ra khâm phục đài nay về sự loan tin nhanh chóng và xác đáng.
Tôi đã không hút thuốc từ nhiều tháng qua, nhưng tôi muốn hút một vài điếu thuốc cho tinh thần bớt căng thẳng sau gần 48 tiếng đồng hồ liên tục không được nghỉ ngơi, tôi yêu cầu Hạm trưởng dùng hệ thống liên hợp để loan báo xem có nhân viên nào còn thuốc lá cho tôi xin một ít để hút. Tôi không ngờ là các nhân viên tuần tự mang đến cho tôi hơn 2 chục bao cả loại trong khẩu phần C của đồng minh và các loại thuốc trong thương trường lúc bấy giờ, tôi lấy làm cảm động về sự ưu ái của các nhân viên trên chiến hạm này. Vào khoảng 2 giờ đêm tôi soạn thoản một sơ đồ hành quân và các chi tiết về tổn thất để chuẩn bị thuyết trình khi về tới căn cứ.
Khoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1 thì hai chiến hạm của Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm HQ16 cũng đã về bến trước đó ít lâu. Một điều mà các nhân viên của các chiến hạm và riêng tôi rất cảm động là trên cầu thương cảng Đà Nẵng là nơi đã được chỉ định cho các chiến hạm cặp bến, đã có sự hiện diện của các vị Đô đốc Tư lệnh và Tư lệnh phó HQVNCH, Đô đốc Tư lệnh HQ Vùng I Duyên hải, một số đông sĩ quan cùng nhân viên của các đơn vị Hải quân vùng Đà Nẵng cùng các trại gia binh đã túc trực đón đoàn chiến hạm trở về với rừng biểu-ngữ:
"Hải quânViệt Nam quyết tâm bảo vệ lãnh thổ đến giọt máu cuối cùng".
"Một ý chí: chống Cộng. Một lời thề: bảo vệ quê hương".
"Hoan hô tinh thần chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ
Hải quân tham dự Hải chiến Hoàng Sa".
"Hoan hô tinh thần bất khuất của các chiến sĩ hải chiến Hoàng Sa".
Sau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có 3 vị Đô đốc cùng HQ đại tá Nguyễn Viết Tân Chỉ huy trưởng Sở Phòng vệ Duyên hải lên Tuần dương hạm HQ5 và vào phòng khách của Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng đều có mặt để trình bầy chi-tiết về chiến hạm của mình. Các vị Đô đốc cũng không hỏi thêm tôi về những yếu tố đã đưa đến những quyết định chiến thuật của tôi, nhất là quyết định triệt thoái phần còn lại của Hải đoàn đặc nhiệm ra khỏi vùng Hoàng Sa. Sau phần thuyết trình các vị Đô đốc đã đi quan sát sự thiệt hại của các chiến hạm và ủy lạo nhân viên các cấp. Tôi cũng được nghe Đô đốc Tư lệnh phó đề nghị với Tư lệnh HQ là sẽ không có thuyết-trình cho Tư lệnh Quân đoàn I.
Sau chừng một giờ thì trung tướng Tư lệnh Quân đoàn I Quân Khu I cũng tới thăm viếng và được hướng dẫn quan sát một vòng các chiến hạm để nhận định sự thiệt hại.
KẾT QUẢ CỦA TRẬN HẢI CHIẾN
Hoàng Sa Vị Quốc Vong Thân
Một cách tổng quát thì sự thiệt hại của hai đối thủ được kể như tương đương trong trận hải chiến. Mỗi bên bị tổn thất một chiến hạm, như đài BBC loan tin vào sáng sớm ngày 20 tháng giêng, phía VNCH là Hộ tống hạm HQ10, phía Trung cộng là chiếc Kronstad 271 (được coi là chiến hạm chỉ huy) còn một số khác thì chịu một sự hư hại trung bình hoặc trên trung bình. Hai chiếc nhỏ hơn 389 và 396 cùng hai ngư thuyền ngụy trang theo tôi ước lượng chỉ hư hỏng hơi nặng mà thôi vì tầm hỏa lực của ta trội hơn. Riêng chiếc Kronstad 271 có thể bị tổn thất nhiều nhân viên hơn vì trúng nhiều hải pháo của Tuần dương hạm HQ5 vào thương tầng kiến trúc, trong khi đó chiếc 274 thì tổn thất được coi là nhẹ hơn cả vì chỉ bị tấn công nhiều bằng đại liên và ít hải pháo về sau này. Tuy nhiên trong các trận hải chiến thì người ta thường kể về số chiến hạm bị loại khỏi vòng chiến hơn là số thương vong về nhân mạng. Riêng trên Hộ tống hạm HQ10, theo các nhân viên đã đào thoát về được đất liền, thì vị Hạm trưởng và Hạm phó đều bị thương nặng, nhưng Hạm trưởng đã từ chối di tản và quyết ở lại tuẫn tiết cùng chiến hạm của mình theo truyền thống của một sĩ quan Hải quân và một nhà hàng hải. Hạm phó được nhân viên dìu đào thoát được nhưng đã phải bỏ mình trên mặt biển vì vết thương quá nặng. Vụ này làm tôi nhớ lại, theo lời kể của các bậc tiên sinh, thì khi Hải quân Pháp hành quân trên sông (nếu không lầm thì là Sông Đáy) một chiến hạm loại trợ chiến hạm (LSSL) hay Giang pháo hạm (LSIL) đã bị trúng đạn đài chỉ huy, làm tử thương cả hai hạm trưởng và hạm phó cùng một lúc, sĩ quan cơ khí đã phải lên thay thế tiếp tục chỉ huy. Sau kinh nghiệm này, Hải quân Pháp không cho hạm trưởng và hạm phó có mặt cùng một nơi khi lâm trận. Cá nhân tôi lúc đó đã không có chút thì giờ để nhớ tới kinh nghiệm mà các bậc tiên sinh đã truyền lại tôi mà áp dụng.
Một điều lạ là Trung cộng có đủ khả năng tuy khiêm nhượng, vào lúc cuối trận chiến, vì có thêm tăng viện đến kịp thời, nhưng đã bỏ rơi cơ-hội truy kích khi lực lượng ta triệt thoái, hay xử dụng hỏa tiễn hải hải vì lực lượng ta vẫn còn nằm trong tầm hữu hiệu của loại vũ khí này. Tôi cho rằng có thể họ đã bận tâm vào việc cứu vãn chiếc Kronstad 271 và quân bộ trên đảo Quang Hòa, hoặc họ đã không nhận được lệnh tấn công, và chỉ đương nhiên chống trả tự vệ mà thôi. Tôi nhận rằng ước tính của tôi về phản ứng của địch đã cao hơn như thực tế đã xẩy ra. Việc HQVN khai hỏa tấn công sau khi thất bại đổ bộ đã tạo cho Trung cộng có nguyên cớ vì bị tấn công mà phải hành động, nên đã dùng cường lực cưỡng chiếm các đảo vào ngày sau.
Theo các quân nhân trú phòng trên đảo Hoàng Sa thì sáng sớm ngày hôm sau tức là ngày 20 tháng 1, Trung cộng đã huy động một lưc-lượng hùng-hậu kết hợp Hải-Lục-Không-quân đổ bộ tấn chiếm đảo Hoàng Sa và các đảo kế cận mà các chiến binh Hải quân đang chiếm giữ. Theo ký giả Lê Vinh, một cựu sĩ quan Hải quân, đã từng đảm trách chức vụ thư ký của ủy ban nghiên cứu trận hải chiến cho biết, thì vào thời gian trận hải chiến, Hải quân Hoa Kỳ đã chuyển cho HQVN một tin tức về 42 chiến hạm Trung cộng với 2 tiềm thủy đĩnh đang tiến xuống Hoàng Sa. Dù nhiều hay ít thì lực lượng của họ sẽ trội hẳn lực lượng HQVN có thể điều động tới. Nếu hai chiến hạm còn lại của Hải đoàn đặc nhiệm phải lưu lại Hoàng Sa như lệnh ban ra lúc đầu, với khả năng chiến đấu đã bị giảm sút nhiều thì sự bảo tồn của hai chiến hạm này rất mong manh. Thế cho nên phản lệnh cho hai chiến hạm phải trở về căn cứ được kể như là đúng lúc và sát với thực tế hơn.
Trung cộng đã bắt giữ tất cả quân nhân và dân chính Việt Nam trên đảo Hoàng Sa và toán Hải quân đổ bộ thuộc Khu trục hạm HQ4 trên đảo Vĩnh Lạc (sát phía nam đảo Hoàng Sa) mà trưởng toán là HQ trung úy Lê Văn Dũng (sau được vinh-thăng HQ đại úy tại mặt trận), làm tù binh đưa về giam giữ đầu tiên tại đảo Hải Nam. Riêng ông Kosh là nhân viên của cơ quan DAO Hoa Kỳ tại Đà Nẵng thì được trao trả cho Hoa Kỳ sớm nhất tại Hồng Kông. Còn các nhân viên Việt đã bị họ nhồi sọ về chủ nghĩa của họ trong suốt thời gian tại Quảng Đông, và trao trả về Việt Nam tại ranh giới Hồng Kông và Trung cộng. Đô đốc Tư lệnh phó HQ đã được đề cử đích thân đến HồngKông tiếp nhận. Các chiến sĩ từ Trung cộng hồi hương đều được đưa vào Tổng Y viện Cộng Hòa điều trị về các bệnh trạng gây ra do các hành động ngược đãi trong khi bị giam cầm trên lục địa Trung Hoa.
Thế là cuối cùng thì VNCH đã mất nốt nhóm đảo Nguyệt Thiềm phía nam của cả quần đảo Hoàng Sa cho tới ngày hôm nay.
Các chiến sĩ Hải quân đào thoát từ Hoàng Sa, sau nhiều ngày trôi dạt trên mặt biển, một số đã được chính các tuần duyên đĩnh của Hải quân cứu vớt, một số đã được các thương thuyền trên hải trình Singapore Hồng Kông bắt gặp. Tất cả các chiến sĩ thoát hiểm được đưa về điều trị tại các Tổng Y viện Duy Tân (Đà Nẵng) hay Cộng Hòa, và còn được Thủ tướng Chính phủ, các vị Tư lệnh Quân đoàn, và các vị Đô đốc Hải quân đến thăm hỏi và ủy lạo.
CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ TÁI CHIẾM HOÀNG SA
Khi phần thăm viếng của thượng cấp kết thúc, thì tất cả các chiến hạm bắt tay ngay vào việc sửa chữa và tái tiếp tế đạn dược đề chuẩn bị tấn kích tái chiếm Hoàng Sa. Một toán thợ thượng thặng của Hải quân công xưởng cũng đã được điều động từ Sài Gòn ra để phụ lực với chuyên viên của Thủy xưởng Đà Nẵng. Riêng Tuần dương hạm HQ16, tuy không bị hư hại nhiều trên thượng tầng kiến trúc, nhưng các chuyên viên đã tháo gỡ được đần viên đạn đã xuyên lủng hầm máy. Viên đạn này là một loại đạn xuyên phá và không nổ 127 ly của Tuần dương hạm HQ5 bị lạc. Kinh nghiệm cho thấy là loại đầu đạn không nổ nếu trúng nước thì đạn đạo sẽ thay đổi rất nhiều vì đầu đạn nhọn bị nước làm chuyển hướng đi rất xa. Tin này do đích thân Tư lệnh phó Hải quân mang đến cho tôi. Đó là một điều không may mắn cho Hải đoàn đặc nhiệm Hoàng Sa, nhưng trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, sự nhầm lẫn về mục tiêu, về bạn và địch, về vị trí tác xạ đều đã xẩy ra ít nhất là tại chiến trường Việt Nam. Hơn nữa trong cuộc hải chiến này, Tuần dương hạm HQ5 đã tác xạ cả trăm đại pháo 127 ly, mà chỉ có một viên bị lạc, nên vẫn còn là điều may mắn. Việc chiến hạm bị trúng 1 viên đạn của bạn cộng với việc hai khẩu hải pháo 76 ly tự động trên Khu trục hạm HQ4 đã bị trở ngại kỹ thuật ngay từ phút đầu của cuộc chiến, là hai nhược điểm chiến thuật mà Hải quân VNCH chỉ muốn phổ biến hạn chế vào đầu năm 1974 là thời điểm, mà nhiều sự phân tích đáng tin cho rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã lợi dụng biến cố Hoàng Sa để tránh né sự chỉ trích của các phần tử đối lập lúc đó đang rất mạnh.
Sau ít ngày sửa chữa, thì Tuần dương hạm HQ16 chỉ đủ khả năng tự hải hành về quân cảng Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể. Khu trục hạm HQ4 không sửa chữa tại chỗ được hai khẩu 76 ly tự động. Tuần dương hạm HQ5, sau khi tái tiếp tế đạn và hàn vá các hư hại đã cùng HQ6 ra khơi tìm kiếm các nhân viên đào thoát khỏi vùng Hoàng Sa. Các phi cơ C130 đã bay lượn trong một vùng duyên hải hạn chế để tránh sự hiểu nhầm về hành động khiêu khích của Việt Nam đối với Trung cộng. Các phi cơ hướng dẫn các chiến hạm xem xét các vật trôi trên mặt biển nhưng vẫn chưa cấp cứu được nhân viên nào ngoại trừ vỏ một thùng xăng dự trữ. Tôi vẫn có mặt trên Tuần dương hạm HQ5 để tham dự cuộc tìm kiếm. Riêng hộ tống hạm HQ10, vì mất liên lạc nên tôi đã không biết được tình trạng cuối cùng của chiến hạm, nhưng chúng tôi vẫn còn một hy vọng tuy mong manh là chiến hạm này chưa chìm hẳn và có thể trôi dạt về phía duyên hải miền Trung trong mùa gió đông bắc.
Với Tuần dương hạm HQ6 đã có mặt trong vùng và vừa hoàn tất hộ tống Tuần dương hạm HQ16 từ nửa đường Hoàng Sa Đà nẵng về bến, cộng với HQ17 (Hạm-trưởng HQ trung tá Trần Đình Trụ) điều động từ Trường Sa tới tăng cường đã kết hợp với Tuần dương hạm HQ5 thành một Hải đoàn đặc nhiệm mới với nhiệm vụ chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Mặc dầu nhiều sĩ quan thâm niên hơn tôi có mặt tại chỗ, nhưng tôi vẫn được chỉ định tiếp tục chỉ huy. Một cuộc thao dượt chiến thuật và thực tập tác xạ đã diễn ra trong vòng một ngày tại vùng một đảo nhỏ nằm về phía bắc vùng Cù lao Chàm phía đông nam Đà Nẵng. Sau cuộc thao dượt, tôi trình bầy kết quả việc huấn luyện trong các buổi thuyết trình hành quân tại BTL Hải quân vùng, vẫn được Tư lệnh phó Hải quân chủ tọa.
Nhưng cuối cùng thì công cuộc tái chiếm Hoàng Sa được hủy bỏ. Tuy vẫn được tín nhiệm để chỉ huy, nhưng tôi tin rằng cuộc phản kích tái chiếm sẽ thất bại ngoại trừ đó là một chiến thuật thí quân nằm trong một chiến lược cao hơn. Với các Tuần dương hạm cũ kỹ (WHEC) xử dụng trong lực lượng phòng vệ duyên hải Hoa Kỳ (US Coast guard) từ lâu, được trang bị vào công tác tuần tiễu hơn là để chiến đấu, vừa chạm chạp và vận chuyển nặng nề, nên khó chống trả lại với các chiến hạm chiến đấu tối tân hơn. Loại này chỉ có một hải pháo 127 ly, còn 2 hải pháo 40 ly đã được HQVN đặt thêm vào lái tầu là nơi đã được dùng làm sàn đáp trực-thăng.
Trong thời gian tại căn cứ, Tư lệnh phó HQ ít nhất đã hai lần tập hợp nhân viên tất cả các chiến hạm có mặt tại chỗ để chỉ thị không được có hành động kiêu ngạo về chiến-tích của Hải quân VNCH. Để làm gương cho tất cả nhân viên thuộc quyền, tôi đã giữ một thái độ rất khiêm nhượng và im lặng. Tôi chưa bao giờ thảo luận hoặc trình bày chi tiết với bất cứ một ai hay một tổ chức nào, về những yếu tố đã đưa đến các quyết định chiến thuật của tôi trong trận đánh.
Tôi lưu lại Vùng I duyên hải chừng hơn một tuần lễ, đã được cùng Phó Đề đốc Tư lệnh HQ vùng I Duyên hải xuất hiện trên đài chỉ huy cũng của Tuần dương hạm HQ5 để thực hiện một phóng-sự cho đài truyền hình quân đội. Sau đó tôi trở về nhiệm sở chính tại Sài Gòn. Tôi còn được đến phòng thâu hình của quân đội cùng các vị hạm trưởng và một vài hạ sĩ quan trưởng pháo khẩu để trình bầy các chiến tích. Tuy nhiên tôi không đề cập nhiều chi tiết và nhường lời lại nhiều hơn cho các hạm trưởng vì tôi nghĩ rằng các vị này đáng được đề cao vì đã đích thân huy động tinh thần nhân viên và can đảm trực tiếp chiến đấu. Ít lâu sau tôi phải theo học Khóa Chỉ huy Tham mưu đặc biệt tại Long Bình, đặc biệt vì khóa gồm nhiều các sĩ quan đang đảm trách những vai trò then chốt của quân lực và các đại đơn vị. Khi Phó Đề đốc Phụ tá hành quân biển của Tư lệnh Hải quân đến thuyết trình tại trường về tổ chức của Hải quân Việt Nam, thì một câu hỏi đầu tiên của khóa sinh là về hải chiến Hoàng Sa. Đô đốc đã chuyển câu hỏi này cho tôi đang ngồi trong hội trường, quả thật vị này đã trao cho tôi một trái banh khó đỡ. Tôi đáp lại câu hỏi vỏn vẹn ngay là: Các quí vị đã nghiên cứu về trận đánh Ấp Bắc, thì trận hải chiến Hoàng Sa cũng gần tương tự. Sau câu trả lời của tôi thì không một câu hỏi nào về trận Hoàng Sa được nêu ra thêm. Xin ghi thêm vào nơi này, trận Ấp Bắc đã làm cho quân lực bị bất ngờ về chiến thuật cửa địch, có sự sai lầm về ước tính tình báo và nhầm lẫn về chiến thuật điều quân.
Vào những năm tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam tôi được biệt phái giữ chức vụ phụ tá Hải quân cho trung tướng Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy Tham mưu Liên quân đồn trú tại Long Bình.
PHẦN SAU TRẬN HẢI CHIẾN
Sau trận hải chiến, Hải quân được nhiều vinh danh nhờ trận chiến đã nêu cao và nối tiếp được tinh thần chống bắc xâm của dân tộc. Trận hải chiến được liên tục ca ngợi hàng ngày trên các phương tiện truyền thông của quân đội cũng như ngoài dân sự để thêm vào với: Bình Long anh dũng, Kontom kiêu hùng, v.v...
Hoàng-Trường Sa với Việt Nam là một
Cũng nhờ trận hải chiến mà phần đông nhân dân Việt Nam mới được biết đến phần lãnh thổ nằm xa vời trong Biển Đông mà Hải quân VNCH từ ngày thành lập đã âm thầm bảo vệ và tuần tiễu.
Nói về trận hải chiến, dù Hải quân VNCH giả thử có thắng được trận ngày đầu, thì chúng ta khó lường được sự tổn thất nếu Hải quân còn ở lại để cố thủ Hoàng Sa. Phó Đề đốc Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu về trận hải chiến khi vị này đích thân thăm viếng Khu trục hạm HQ4, khi đang nằm trong ụ lớn sửa chữa đã nói riêng với tôi: "... thế là vừa đủ", ý của vị này nói là không nên tiếp tục chiến đấu thêm ít nhất là vào thời điểm đó Hải quân còn phải đảm nhận nhiều công tác tiễu trừ CS trong đất liền. Đó là chưa kể việc tấn chiếm phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa có thể đã nằm trong các đường lối đi đêm chiến lược của các cường quốc. Tôi nghĩ rằng nếu chiếc Khu trục hạm HQ4 không bị trở ngại kỹ thuật và trận chiến đã xẩy ra gần như tôi đã dự liệu và mong muốn, nghĩa là ta thắng trận đầu, thì cường lực Hải-Lục-Không quân của chúng huy động ngày hôm sau không những đủ sức tràn ngập quân trú phòng và lại còn đủ sức truy kích Hải quân VNCH trong một vùng rộng lớn hơn. Tôi đã tin tưởng rằng Quân đoàn I/Quân khu I đã phải đặt trong tình trạng báo động đề phòng sự tấn công của Trung cộng ngay sau khi trận hải chiến diễn ra. Một phi tuần chiến đấu-cơ F5 của sư đoàn I Không quân tại Đà Nẵng đã sẵn sàng trên phi đạo nhưng không được lệnh cất cánh từ cấp cao để yểm trợ cho Hải quân vì có thể là e ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến mới, hoặc chỉ hạn chế trận chiến tới mức có thể chấp nhận được trong một thế chính trị.
Một lần nữa, giả dụ rằng ta cứ để Trung cộng có mặt trên đảo Quang Hòa, trận hải chiến đã không xẩy ra thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục hiện-diện trên đảo Hoàng Sa, tuy nhiên có thể phải trải thêm quân trên các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc và Duy Mộng, để tránh sự lấn chiếm, cộng thêm là Hải quân Việt Nam phải thường xuyên tuần tiễu với một hải đoàn tương đối mạnh. Nhưng dần dà họ cũng sẽ lấn chiếm theo kế hoạch bành trướng thế lực của họ trong vùng Đông Nam Á. Có thể Trung cộng đã trả đũa hay dập theo khuôn mẫu VNCH khi ta đã đặt quân trú phòng trên đảo Nam Yết và Sơn Ca nằm phía nam và đông cùng trên một vòng đai san hô với đảo Thái Bình, đã bị Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) chiếm đóng từ khi Nhật Bản thua trận đệ nhị thế chiến. Người Trung Hoa dù là lục địa hay hải đảo, đã từng nhiều lần tuyên bố là lãnh thổ của họ, không những vùng này mà thôi mà cả toàn vùng Hoàng Sa Trường Sa. Phải thành khẩn mà nhận rằng, khi VNCH đặt quân trú phòng trên các đảo còn bỏ trống trong vùng Trường Sa như Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử đông, Song Tử tây, Trường Sa v.v.., chúng ta đã không gặp một hành động đối kháng về quân sự nào từ phía Trung Hoa Dân quốc hoặc Phi Luật Tân hay Mã Lai Á.
Một suy luận nữa là có thể trận hải chiến là một cuộc điều chỉnh sự nhường quyền chiếm giữ từ một nhược tiểu đến một cường quốc theo một chiến lược hoàn cầu mà vài cường quốc đã ngầm thỏa thuận trước. Chúng ta có thể nhớ lại cuộc tấn công hùng hậu của Anh quốc trong cuộc tranh-chấp đảo Falkland (Nam Mỹ-Châu) vào thập niên 80, mà Á Căn Đình (Argentina) vẫn luôn coi như lãnh thổ của họ. Họ đã chiến đấu mạnh mẽ trên mặt ngoại giao và buộc phải chiến đấu trên mặt quân sự sau khi ngoại giao thất bại. Về mặt quân sự, họ biết trước là khó chống lại Anh quốc với lực lượng khá dồi dào, nhưng họ đã phải chiến đấu trong khả năng của họ, họ biết tự kiềm chế cường độ chiến tranh để giảm thiểu tổn thất. Kết quả là đảo Falkland đã về tay Anh quốc. Tuy đảo Falkland rộng lớn hơn về diện tích và nguồn lợi cũng như dân số, quân lực hai đối thủ đưa vào cuộc đụng độ hùng hậu hơn, mức độ chiến tranh nặng hơn, nhưng hai trận Falkland và Hoàng Sa đã gần tương tự nhau về tính chất của một cuộc chiến.
Người Pháp, trong chiến tranh tại Đông-dương sau 1945, vì chiến cuộc gia tăng tại nội địa, đã phải bỏ ngỏ hoàn toàn nhóm đảo Tuyên Đức phía bắc, và bỏ ngỏ nhóm Nguyệt Thiềm phía nam trong vài năm. Riêng nhóm Tuyên Đức phía bắc đã do Trung Hoa Dân quốc cưỡng chiếm trong ít lâu, nhưng sau đó họ đã phải rút về vì sự thất trận củu họ trong lục địa. Về sau, hiệp định Ba Lê 1954 lại đề ra khu phi quân sự dọc theo vĩ tuyến 17, đã làm cho VNCH đã không thể tích cực hiện diện tại nhóm Tuyên Đức bắc đảo Hoàng Sa thuộc nhóm Nguyệt Thiềm.
Xét về sự phòng thủ, so sánh với đảo Thái Bình trong vùng Trường Sa thì thế bố trí trên đảo Hoàng Sa của VNCH đã thua kém rất xa, và không thể đủ sức để cố thủ chống lại một cuộc cường kích thủy bộ. Trên đảo không có công sự nặng, chỉ có khoảng một trung đội địa phương quân với vũ khí cá nhân và một vài quan sát viên khí tượng. Trong khi đó đảo Thái Bình, khi Nhật chiếm đóng trong đệ nhị thế chiến, họ đã xây cất nhiều công sự nặng. Sau này khi Trung Hoa dân quốc (Đài Loan) chiếm đóng, chắc chắn họ đã tăng cường mọi cơ cấu phòng thủ, lại có trang bị các khẩu đại pháo chống chiến hạm, đưa quân số trú phòng có thể tới cấp hơn tiểu đoàn và do một vị đại tá Thủy quân lục chiến chỉ huy.
Ngoài ra việc tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được nhận xét chỉ diễn ra sau cuộc thăm viếng Trung cộng của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Kissinger. Ít nhất là Hoa Kỳ và Trung cộng đã ngầm có nhiều thỏa thuận về chiến lược hay ít nhất cũng đồng ý là Hoa Kỳ sẽ không can thiệp vào các hành động của Trung cộng trong vùng. Đối với VNCH, Hoa Kỳ đã không muốn can dự vào sự bảo vệ lãnh-thổ. Trong ngày hải chiến thì các đối tác viên tại Bộ Tổng Tham mưu đã khẳng định đó là công chuyện riêng của Việt Nam.
Quan niệm của Hoa Kỳ trong việc mở rộng lực lượng Hải quân chỉ là vừa đủ để hành quân yểm trợ hỏa lực và ngăn chặn trong vùng sông ngòi và duyên hải mà thôi. Cộng cuộc xây cất một hệ thống thám báo liên tục từ Bến Hải đến vịnh Thái Lan là một công tác cao, cả về kỹ thuật lẫn tài chánh với mục tiêu duy nhất là kiểm soát hữu hiệu sự xâm nhập lén lút bằng đường biển của CS Bắc Việt vào vùng duyên hải. Việc viện trợ hai chiếc Khu trục hạm, vì là loại tấn công, nên sau 1973 họ đã nhiều lần đòi tháo gỡ máy dò tiềm thủy đĩnh như đã trình bầy, làm như vậy là sẽ giảm khả năng của loại này một nửa. Vũ khí tấn công trên mặt biển và trên không của Khu trục hạm là hai dàn hải pháo 76 ly tự-động với nhịp tác-xạ khoảng 60 viên một phút. Với hỏlực tấn công mạnh mẽ như vậy, Hải quân Hoa Kỳ, vào những năm cuối của cuộc chiến, song song với kế hoạch rút lui, đã không bỏ sót cơ hội cắt đứt hay ít nhất cũng trì hoãn việc tiếp tế cơ phận thay thế cho loại hải pháo tối tân này.
Sau trận hải chiến, để nêu gương hy sinh của các chiến sĩ bỏ mình trên đại dương, Bộ Tư lệnh Hải quân đã có nghiên cứu một kiến trúc dự định xin phép Đô thành Sài Gòn Chợ Lớn xây cất trong khu vực cột cờ Thủ Ngữ bên sông Sài Gòn. Riêng Hội đồng Đô thành đã đồng ý trên nguyên tắc là sẽ có một đường phố mang tên Ngụy Văn Thà. Một buổi lễ kỷ niệm lần thứ nhất trận hải chiến Hoàng Sa đã được tổ chức vào ngày 19 tháng 1 năm 1975 do Tư lệnh Hải quân, Đề đốc Lâm Ngươn Tánh chủ tọa nhưng tôi không được thông báo để đến tham dự.
* * *
Hàng năm cứ mỗi Tết nguyên đán đến, dù vào tháng Giêng hay không, tôi luôn luôn có ít phút tưởng niệm dành cho các liệt sĩ đã hy sinh và cũng tưởng nhớ tới chiến sĩ đã anh dũng cùng tôi chiến đấu trong trận hải chiến Hoàng Sa, mà số đông đang lưu lạc trong vùng đất tự do. Họ là những anh hùng đã xả thân để bảo vệ lãnh thổ của tiền nhân xây dựng từ bao thế kỷ. Mong rằng tài liệu này sẽ mang lại niềm hãnh diện cho toàn thể các chiến sĩ Hải quân đã tham dự trận đánh mà tôi đã có vinh dự chỉ huy.
Hà Văn Ngạc
Dallas, Texas, mùa Xuân Kỷ-Mão
Subscribe to:
Posts (Atom)