Suy nghĩ về một chính sách giáo dục mới:
Giáo dục nhị thể (Dual education)
Some thoughts on a new strategy for education: Dual education
Summary: Dual education is something new to Vietnam. It worked perfectly in Germany. This country has solved the problem of unemployment for students after their graduation and even during their summer time very well compared to the U.S. and other countries which followed the tradition of "book-based education". The countries which pay too much attention to academic education and theoretical studies would have problems in employment for students after their graduation. In Germany, they followed the model of "study and practice", or "dual education". Therefore, the newly graduated students failing to get jobs accounted for only about 8% annually. During the time of unification, the unemployment rate was around 50% for youth, but when they entered the era of stability, it fell to 8%. That was the achievement of what is called "dual education" (study and practice simultaneously). There have been 3 nations which have attained success based on "dual education" in the E.U: Germany, Austria, and Switzerland.
Efforts have been made right in the elementary, secondary and later higher education to provide students with apprenticeships along with with academic studies. The results have been good as the statistics showed. In VN, under the Republic of Vietnam, the Cao Thang School followed this model of education and got good results, as they did apprenticeships at such firms as Ba Son, Caric (a ship builder) and other places. After finishing their programs at Cao Thang School, they could be accepted into the Phu Tho National Centre for Technology in Phu Tho, near Saigon (engineering degrees of various branches).
Trong giai đoạn kinh tế toàn cầu đang suy trầm hiện tại, vấn đề giải quyết lao động và công ăn việc làm một vấn đề cốt lõi cho việc phát triển quốc gia, đặc biết đối với số lượng đông đảo của các tân khoa tốt nghiệp hằng năm. Đây là một thách thức lớn và hướng giải quyết của từng quốc gia sẽ định mức lại sức tăng trưởng xã hội của quốc gia đó. Hiện tại Hoa Kỳ vẫn lúng túng trong việc sắp xếp "việc làm" cho những sinh viên tốt nghiệp hằng năm. Và năm 2016 số tân khoa ra trường không kiếm được việc làm đã quá ngưỡng cửa 35%.
Ở các quốc gia Âu Châu tình trạng càng tệ hại hơn nữa. Năm 2012 tình trạng không có việc làm của sinh viên tốt nghiệp là 56% ở Tây Ban Nha và 38% ở Ý. Mùa Hè năm 2016 nầy đã là một vấn nạn lớn cho các quốc gia trên vì sẽ có thêm một số lượng lớn sinh viên ra trường cần phải có việc làm.
Riêng tại Đức tỷ lệ sinh viên mới ra trường không tìm được việc làm chỉ giao động trên dưới 8% hằng năm.
Câu hỏi được đặt ra là vì sao Tây Đức phải cưu mang người anh em nghèo là Đông Đức với tỷ lệ thất nghiệp khi thống nhất hai nước Đức trên dưới 50%, mà hiện nay nước Đức thống nhất lại ổn định mức lao động xã hội và phát triển trong chiều hướng ứng hợp với toàn cầu hoá?
Có thể trả lời ngay là nhờ chính sách giáo duc Đức đặt nền tảng trên hai khía cạnh học và hành, và cũng có thể nói đây là một chính sách giáo dục quốc gia mới trên thể giới. Đó là chính sách "Dual education", xin tạm dịch là "Giáo dục nhị thể". Nước Đức đã áp dụng chính sách này từ năm 1969 cho đến hôm nay.
Chính sách Giáo dục nhị thể
Trong một cuộc họp gần đây, Ursula Von Der Leyen, Bộ trưởng Lao động Đức công bố trước các thành viên của Liên hiệp Âu Châu (European Union) về tình trạng thất nghiệp ở xứ này, đặc biệt đối với giới trẻ là nhờ hệ thống giáo dục nhị thể. Có ba quốc gia Âu Châu thành công trong chính sách này là Đức, Áo và Thuỵ Sĩ.
Đây là một chính sách truyền thống phối hợp giữa giáo dục cổ điển (trường lớp Tiểu học-Trung học-Đại học) và tập sự học nghề (apprenticeships). Việc phối hợp trên làm cho học viên vừa đi làm vừa hoàn tất học trình của mình. Do đó phần lớn sinh viên đều có việc làm ngay sau khi ra trường.
Dĩ nhiên chu kỳ học tập cho hệ thống này dài hơn lề lối học tập cổ điển, vì sinh viên phải tạm nghỉ học lý thuyết một thời gian để đi tập sự trong khi vừa học được kinh nghiệm chuyên môn và giải quyết được tình trạng tài chánh trong thời gian học.
Chính sách nàp cũng có thể được xem như việc thiết lập cáchệ thống giáo dục hướng nghiệp (vocational education) tại Hoa Kỳ. Chính nhờ vậy mà nước Đức vượt qua được suy thoái toàn cầu từ năm 2007 và có thêm khả năng giúp các quốc gia khác trong Liên hiệp Âu Châu như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, vv…
Các học sinh ở Đức sau khi tốt nghiệp trung học nếu không muốn vào hoặc không được vào đại học có thể tham gia chương trình giáo dục này; họ có thể đi làm 3 hoặc 4 ngày trong một hãng xưởng để được huấn nghiệp chuyên môn và được trả lương đầy đủ. Những ngày còn lại trong tuần họ phải đi học những lớp quy định trong chương trình giáo dục do sự tổ chức và điều hành của Phòng Thương Mại và các Hội Đoàn Kỹ Nghệ. Sau 3 niên học (không có nghỉ hè), học viên được cấp chứng chỉ và hầu hết đều được tiếp tục làm việc tại nhiệm sở mà họ đã thực tập trong những năm qua. Họ đã chính thức là nhân viên của hãng.
Đối với tuổi trẻ Đức, họ rất mến chuộng hệ thống giáo dục này, có 2 trên 3 học sinh tốt nghiệp trung học chọn lề lối trên và họ đóng góp không nhỏ vào khoảng 350 ngành nghề đang hoạt động tại Đức, từ công việc của người thợ chuyên môn hoặc trong những dịch vụ thương mại, từ kế toán qua dược khoa, y khoa và nông nghiệp, v.v…
Chính sự thành công của chính sách này khiến cho nước Đức có một lực lượng chuyên môn có tay nghề cao, cung ứng và điều hòa được mức thất nghiệp thấp cùng duy trì sức phát triển đều đặn của quốc gia. Thêm một điểm son của chính sách giáo dục trên là nhân viên sau một thời gian làm việc có thể được tiếp tục học thêm để có những nhiệm vụ và địa vị cao hơn.
Nhìn lại Việt Nam
Với chính sách chuyên chính vô sản hiện tại, có thể nói chính sách giáo dục Việt Nam hoàn toàn đi đến bế tắc. Số trường đại học, cao đẳng tăng gấp vài chục lần so với miền Nam trước đây. Nhưng đó chỉ là số lượng, thật sự về phẩm chất, chương trình và đạo đức giáo dục băng hoại làm cho tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không còn định hướng về quốc gia và dân tộc.
Từ đó, đưa đến sự thờ ơ đối với công việc phát triển quốc gia. Phần lớn chạy theo việc làm giàu dù lương thiện hay bất chính, sống không biết ngày mai, sống thâu đêm suốt sáng bên cạnh những thú tiêu khiển trụy lạc sa đọa. Một số khác không có điều kiện thì sống vất vưỡng bên lề xã hội. Những người cầm quyền hiện tại hoặc vì bận lo bảo vệ quyền lực vàquyền lợi, vì vậy đất nước ngày càng đi xuống.
Câu chuyện "hàng ngày ở Huyện" xảy ra trong suốt 41 năm qua trong mỗi kỳ thi tốt nghiệp trung học vào tháng 6 hằng năm. CS Bắc Việt không thể bưng bít được những hình ảnh tiêu cực xảy ra từ Bắc chí Nam như: đánh bùa (phao) trao đổi với giám thị; giáo sư chỉ bài cho thí sinh trước khi thi và trong ngày thi. Việc buôn bán bài giải là một dịch vụ béo bở cho một số người. Từ đó, nhìn lại chính sách giáo dục miền Nam trước kia là một chính sách quốc gia đặt căn bản Dân tộc-Nhân bản-Khoa học-Khai phóng làm trọng tâm cho việc phát triển quốc gia.
Và cũng có thể nói hệ thống giáo dục nhị thể nêu trên cũng đã manh nha ở giai đoạn của bậc trung học miền Nam thời bấy giờ. Vào năm 1958, một Đại Hội nghị giáo dục toàn quốc (miền Nam từ vỹ tuyến 17 trở vào) đã nghiên cứu và chấp nhận 3 nguyên tắc căn bản định hướng cho nền giáo dục Việt Nam là nhân bản, dân tộc, khai phóng.
a. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người,lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy nhằm mục đích phát triển toàn diện con người;
b. Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống, mật thiết liên quan đến những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và bảo đảm hữu hiệu cho sự sinh tồn và phát triển của quốc gia;
c. Nền giáo dục việt Nam phải có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ xã hội, thâu thập tinh hoa các nền văn hóa thế giới.
Đến năm 1970, trong thời điểm của Đệ nhị Cộng hòa, có thêm một nguyên tắc khác được đem vào làm chuẩn cho nền giáo dục miền Nam. Đó là lấy sự tôn trọng tinh thần khoa học, như các quốc gia tân tiến trên thế giới, làm nền tảng cho mọi sự tiến bộ giáo dục tại Việt Nam.
Từ đó, giáo dục miền Nam đã có những bước đi vững chắc trên mền tảng của Nhân bản-Dân tộc-Khai phóng-Khoa học. Đây chính là kim chỉ nam làm cho nền giáo dục miền Nam liên tục tiến bộ nâng cao phẩm chất giáo dục quốc gia, và tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên miền Nam trở thành những thành viên ưu tú của đất nước trong suốt thời kỳ 1958-1975. Một điểm cần ghi nhận nơi đây là sinh viên tốt nghiệp Tú tài II ở miền Nam đều được xem như bằng phổ thông tương đương mỗi khi đi du học sang các quốc gia Âu châu hay Hoa Kỳ, Úc , Tân Tây Lan v.v… Còn các sinh viên đã tốt nghiệp Đại học đều được ghi danh vào các lớp hậu đại học ở những nước kể trên.
Cổng trường Cao Thắng chụp đầu năm 1974
Chúng ta còn nhớ trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng,được thánh lập qua sắc lệnh của Tổng thống VNCH ngày 29/6/1956, tọa lạc tại đường Huỳnh Thúc Kháng, SàiGòn, trong đó học sinh được học ngoài chương trình phổ thông còn rất nhiều giờ dành cho việc học nghề: tiện, máy móc, hàn xì….Và hằng năm học sinh được gởi đi thực tập ở xưởng Ba Son, hảng đóng tàu Caric, nhà máy đường Khánh Hội, và một số hãng dệt khác.
Qua việc đào tạo trên, học sinh tốt nghiệp trung học nơi đây khi thi đậu vào Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ thường hội nhập và thu thập nhanh hơn các học sinh phổ thông. Họ là những kỹ sư giỏi của trường.
Vào cuối thập niên 1960, trường Kiểu mẫu Thủ Đức cũng đã được thành lập dưới sự bảo trở tài chánh và kỹ thuật của USAID, Hoa Kỳ. Giảng viên phần lớn được huấn luyện ở Hoa Kỳ. Rất nhiều ngành nghề mới được giảng dạy và đào tạo nơi ngôi trường này.
Việt Nam Cộng Hòa còn có thêm hệ thống giáo dục tổng hợp:
Trung học tổng hợp: Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết giaJohn Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ.
Trước đây, Việt Nam có ba trường trung học cùng mang tên Kiểu Mẫu. Cả ba trường đều trực thuộc Đại học Sư phạm tại địa phương chứ không do Ty Giáo dục quản lý như hầu hết các trường trung học khác.
Kiểu Mẫu ở Huế khai giảng khoá đầu tiên năm 1964. Năm kế tiếp, 1965, Kiểu Mẫu ở Thủ Đức hình thành. Kiểu Mẫu ở Cần Thơ xuất hiện vào năm 1968.
Triết lý giáo dục của trường Trung học Kiểu Mẫu dựa trên 3 nguyên tắc và 4 phương thức. 3 nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, khai phóng. 4 phương thức: toàn diện, thích nghi, thực dụng, tân tiến.
Đường lối giảng dạy mà Trung học Kiểu Mẫu chủ trương và áp dụng là chú trọng việc hướng dẫn từng cá nhân.
Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Dưới thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tạiTrường Trung học Kiểu mẫu Huế (1965), Thủ Đức và Cần Thơ (1968), sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên. (trích trên mạng điện tử).
Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức tọa lạc trên một quả đồi thuộc xã Linh Xuân Thôn, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, trường Đại học Sư phạm Sài Gòn và Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được xây dựng trong khuôn viên 5.107m2 theo đồ án cũng của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.
Trường Trung học Kiểu Mẫu Thủ Đức được thành lập theo nghị định 840GP/PC/NĐ, khai giảng niên khóa đầu tiên vào ngày 11-10-1965 với 8 lớp (cũng gồm 4 lớp đệ thất và 4 lớp đệ lục), 280 học sinh, do nhà giáo Dương Thiệu Tống làm Hiệu trưởng.
Đây là một đóng góp không nhỏ vào việc phát triển quốc gia. Chính vì vậy lợi tức trên mỗi đầu người của miền Nam năm 1960 là $223 Mỹ kim/người, so với Nam Hàn là $55, Thái Lan $101, Trung Cộng $92, Ấn Độ $84, và CS Bắc Việt $73.
Hiện nay, Thái Lan có tổng sản lượng nội địa (GDP) cao gấp 4 lần Việt Nam (sau 41 năm theo xã hội chủ nghĩa), Trung Cộng gấp 5 lần, Ấn Độ gấp 6 lần. Riêng Nam Hàn tăng trưởng nhanh và qua mặt hơn Việt Nam 15 lần.
Từ những con số vô tình trên, chúng ta có thể kết luận là CS Bắc Việt đã đưa đất nước vào tận cùng của sự nghèo đói, ngoài sự thành công "vĩ đại" của họ trong quản lý kinh tế là đem lại hằng tỷ tỷ đô la cho những nhóm "lợi ích kinh tế" mà những người lãnh đạo chốt bu của đảng chính là những chủ nhân ông của các tài sản kếch xù trên.
Tương lai Việt Nam đi về đâu?
Câu hỏi trên xin dành cho tuổi trẻ Việt Nam, những người sẽ mang lại lá cờ hồng tự do, dân chủ cho Đất và Nước.
Mai Thanh Truyết
Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam
Vietnamese American Science & Technology Society (VASTS)
Tháng 12, 2016
Some thoughts on a new strategy for education: Dual education
Summary: Dual education is something new to Vietnam. It worked perfectly in Germany. This country has solved the problem of unemployment for students after their graduation and even during their summer time very well compared to the U.S. and other countries which followed the tradition of "book-based education". The countries which pay too much attention to academic education and theoretical studies would have problems in employment for students after their graduation. In Germany, they followed the model of "study and practice", or "dual education". Therefore, the newly graduated students failing to get jobs accounted for only about 8% annually. During the time of unification, the unemployment rate was around 50% for youth, but when they entered the era of stability, it fell to 8%. That was the achievement of what is called "dual education" (study and practice simultaneously). There have been 3 nations which have attained success based on "dual education" in the E.U: Germany, Austria, and Switzerland.
Kiểu Mẫu ở Huế khai giảng khoá đầu tiên năm 1964. Năm kế tiếp, 1965, Kiểu Mẫu ở Thủ Đức hình thành. Kiểu Mẫu ở Cần Thơ xuất hiện vào năm 1968.
No comments:
Post a Comment