Friday, December 13, 2024
Đám giỗ thứ hai củ BẠN pHAM gIA cỔ 30/11/2024
Thể dục Khí công Hoàng Hạc
Vài Suy Nghĩ Về Thể dục Khí Công Hoàng Hạc
Nói về Hoàng Hạc Khí Công mà không nói về Bs Phạm Gia Cổn, quả thật là một điều thiếu sót. Người viết có hân hạnh cùng học cùng trường Petrus Trương Vĩnh Ký với bạn Cổn từ những năm 50 của thế kỷ trước. Một nửa thế kỷ có thể đã là dài cho một đời người, nhưng chưa hẳn là dài cho một tình bạn, vừa là bạn học chung trường mà cũng vừa là một người bạn "chiến đấu" khi ra hải ngoại.
Hôm qua chủ nhựt 17-4-2011 là ngày lễ Lá của đạo công giáo (Palm Sunday), bạn Cổn và tôi gặp nhau ở một cà phê restaurant quen thuộc chúng tôi thường hẹn nhau sau khi đi làm việc về hàng mười mấy năm nay.
Chúng tôi bàn về cách trình bày powerpoint cho chuyến đi nói chuyện ở Houston sắp tới đây. Trong câu chuyện chúng tôi tình cờ nói đến Hoàng Hạc và những suy nghĩ ngộ nghĩnh chia xẻ cùng nhau sẽ được lần lượt trình bày trong bài viết nầy.
Sau khi chia tay, trên đường về, tôi suy nghĩ miên man, nghĩ về một quảng thời gian dài dưới mái trường xưa và những ngày cùng nhau ….nhìn về Việt Nam ở hải ngoại.
Trở về quá khứ, không hiểu vì lý do gì mà ông bạn của tôi, một Bắc kỳ "rặt" Thái Bình mà lại đi vào học một trường Nam kỳ cũng "rặt" là Petrus Ký thay vì học bên Chu Văn An. Vào những năm đầu tiên sau cuộc di cư năm 1954, giữa Bắc kỳ và Nam kỳ vẫn còn là một hàng rào ngăn cách không nhỏ, nhưng đối với cái tuổi học sinh của chúng tôi lúc ấy, sự hiện diện của bạn Cổn trong lớp học là một niềm vui, một sự nghịch ngợm thú vị chứ không là một kỳ thị!
Chúng tôi, thường chọc phá bạn Cổn là Bắc kỳ "dzốn", chọc phá, gọi tên như vậy cũng như tất cả các tên của mỗi bạn cùng lớp đặt cho nhau, như Lộc tục, Chó Quang, Mai khỉ già, Trí đinh, Trí già, Trí hút, Tuấn Phan Nghệ (vì bạn nầy ở Nghệ An)…Các bạn kể trên sau nầy người làm bác sĩ, người sĩ quan quân đội VNCH, người làm thầy giáo…Còn tên tôi, được các bạn gán cho tên rất yểu điệu là "Truyết con gái", vì tôi nhỏ nhít (so với các bạn), và quá trắng trẻo, nhứt là khi đến giờ tập thể thao khoe bộ ngực cách trí ra…
Bẳng đi một thời gian bạn Cổn vào Y khoa, rồi Nhảy dù, rồi di tản năm 1975. Qua bao thăng trầm của vận nước, tôi cũng không khác gì bạn, đi Pháp, về Việt Nam, sau cùng cũng vượt biên qua Hoa Kỳ..
Chúng tôi gặp lại nhau vào khoảng năm 1995 nhân một buổi hợp mặt cựu học sinh Petrus Kỳ tại Orange sau khi tôi đổi về làm việc ở vùng nầy. Như vậy là anh em tụi tôi tay bắt mặt mừng và tiếp tục sau đó con đường song hành chung với nhau.
Bạn làm ở Los Angeles, còn tôi West Covina. Hầu như ít nhứt là mỗi tuần một lần chúng tôi ngồi chia xẻ những buồn vui trong cuộc sống ở quán cà phê kể trên với thức ăn nhẹ của buổi xế trưa. Trong nhiều buổi tiệc đám cưới của con bè bạn chung, rất nhiều lần bạn và tôi cùng chụp chung với cô dâu và chú rể, vì "quý phu nhân" của chúng tôi ít khi đi cùng.
Bạn có ban nhạc Star Band đi hát từ thiện cho các hội đoàn cựu học sinh và đồng hương trong vùng; còn tôi sinh hoạt trong khía cạnh khoa học môi trường. Trong hơn 15 năm gặp lại, có lẽ bạn Cổn và tôi trao đổi nhau rất nhiều về nhân sinh quan của con người, về cuộc sống gia đình và nhứt những suy nghĩ về vấn đề Việt Nam. Đóng góp như thế nào? Hành xử như thế nào trong một cộng đồng quá phức tạp, nhập nhằng giữa hai lằn ranh quốc cộng?
Ngoài ra, bạn Cổn của tôi còn là một võ sư và bạn dùng võ đường của mình để, ngoài việc luyện tập võ nghệ, bạn còn tổ chức lớp tập luyện Khí công Hoàng hạc…cho những người có tuổi. Trong lúc đó, tôi dong ruổi trên con đường tranh đấu cho một môi trường tốt đẹp cho Việt Nam…
Chúng tôi cùng vác thánh giá và cùng rao giảng những ý thức, khái niệm cho cuộc sống lành mạnh của một con người trong một thế giới văn minh. Một thế giới mở với một tinh thần minh mẫn trong một thể xác tráng kiện và với một tâm lành hướng về tha nhân. Tôi rất tâm đắc với bạn về lớp Thể dục Khí công Hoàng Hạc nầy.
Trở lại lớp Khí công Hoàng Hạc, mặc dù tôi chỉ tham dự vài buổi học ban đầu, nhưng tôi cũng tự trải nghiệm được một số bài học trong việc luyện tập Hoàng Hạc khí công nầy. Bài học đầu tiên phải nói đến là bài học thư giãn (tôi tạm dịch từ chữ relaxation) và bài học kế tiếp là tĩnh tâm (tôi dịch từ chữ peacefulness chứ không dùng danh từ meditation (thiền định) trong trường hợp nầy).
Sở dĩ tôi hấp thụ được hai điều căn bản trên đây vì theo kinh nghiệm của tôi, mấy động tác tay chân nhè nhẹ, lâu lâu bấm ngón chân và rướn mình lên cao cùng một lúc với việc nhón gót chân theo tiếng nhạc cổ điển êm dịu…làm cho tôi buông xả trong giây phút. Trong suốt thời gian tập luyện, dường như tôi không còn để ý đến hơi thở, để hai buồng phổi tự nhiên điều chỉnh nhu cầu hít vào và thở ra của cơ thể. Tôi không cần cố gắng để "vươn cao" tay chân, hay ráng làm một động tác nào có khả năng làm co giãn các bắp thịt.
Phải chăng đó là một trạng thái thư giãn hoàn toàn, một trạng thái "vô ngã" và "vô trụ" trong buổi tập. Và phải chăng thân-tâm-ý đã hòa nhập thành một trong chủ thể của tôi, để rồi điều hướng một cách tự nhiên con người của tôi vào một trạng thái mà tôi tạm gọi là tĩnh tâm.
Bước qua lãnh vực khác như thiền định chẳng hạn, suy nghĩ chủ quan của tôi cho thấy rằng động tác bất động trong giai đoạn ngồi thiền có nguy cơ tác hại đến sức khỏe nhiều hơn là hướng tìm đến một sự an nhiên tự tại và một sự buông xả cho thân-tâm-ý.
Vì sao? Đứng về phương diện y học, một khi cơ thể bất động trong một thời gian dài, một giờ, hai giờ hay hơn nữa, hệ thống tuần hoàn sẽ di chuyển chậm lại và lượng hồng huyết cầu mang oxy lên óc sẽ giảm thiểu…từ đó có thể đưa ta đến trạng thái bán hôn mê (semicomma). Tình trạng trên có thể làm cho trí não của chúng ta soi rọi lại được những hình ảnh đến từ vô thức (inconscience) hay tiềm thức (subconscience) từ trong quá khứ. Và như thế chúng ta tưởng là "thấy", là đã lên được "nhiều từng tu tập" đồng biến theo thời gian hành thiền…Nhưng rốt cuộc, trong nhiều trường hợp, họ có biết đâu là đã bị "tầu hỏa nhập ma". Thêm nữa, ngồi bất động lâu có thể bị embolism tức hiện tượng những hạt máu đông (blood clot) chạy lên phổi làm tắt nghẽn các mạch máu. Chúng ta đã kinh nghiệm qua các vụ chết người trên các chuyến máy bay đường dài rồi.
Trong Phật giáo, có bài Chú Đại bi và Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh là hai bài kinh nhựt tụng trong các buổi lễ. Nguyên gốc là bài viết bằng tiếng Phạn. Hiện nay, có nhiều chùa dịch ra thành tiếng Việt nhằm mục đích cho Phật tử dễ tụng và cũng dễ thuộc bài Kinh và Chú. Cá nhân tôi thấy việc làm nầy nảy sinh ra nhiều rủi ro trong việc tu tập vì nhiều lý do sau:
• Thứ nhứt, Phật tử một khi đã thuộc làu bài Kinh và Chú sẽ không còn tập trung tư tưởng để trì tụng nữa.
• Việc trì tụng trong trường hợp nầy chỉ là phản xạ của trí óc, một hành động "trả bài" trong vô thức, do đó, tư tưởng (tâm-ý) được tự do vì không cần phải tập trung cho nên thoải mái rong chơi trong những sinh hoạt/suy nghĩ hàng ngày của thân. Tâm-ý có thể nghĩ về một chiếc áo đẹp, một món ăn ngon…do đó, khó mà đạt được trạng thái vô trụ - vô ngã được.
Vì vậy, người viết thiết nghĩ trong khi trì tụng hai bài Chú và Kinh nầy không cần phải học thuộc lòng, không cần phải chuyển đổi qua tiếng Việt, mà phải đọc bằng tiếng Phạn. Vì sao?
• Đọc kinh bằng tiếng Phạn sẽ khiến cho ta tập trung nhiều vào từng chữ, vì không hiểu nghĩa cho nên sẽ phải cố gắng nhiều hơn để khỏi đọc trật.
• Ta xử dụng miệng để đọc, tai chú ý tiếng mõ, mắt dán vào tờ kinh. Từng ấy cơ quan của thân thể đều chú trọng vào việc trì tụng, còn thì giờ đâu nữa mà thân-tâm-ý "đi lang thang". Ta quên "mình" trong lúc nầy cũng như không còn chấp kiến thế giới chung quanh nữa trong trạng thái trên.
Thưa Quý bạn,
Tôi có lạc đề không?
Xin thưa là không. Tất cả do suy diễn từ hai bài học về Khí công Hoàng hạc mà tôi đã "ngộ" được (theo nhãn quan của tôi).
Đọc đến đây chắc có nhiều bạn không đồng ý với những suy nghĩ trên. Nhưng mà, dù bạn đồng ý hay không đồng ý, bạn đã trụ vào và đã có một biên kiến cho vấn đề trên, bạn đã chấp nê một sự việc, một suy nghĩ mà chỉ chính bạn mới tự điều hướng thân-tâm-ý của bạn trong con đường luyện tập, nhứt là những bạn bước vào tuổi "hạc".
Có được suy nghĩ như thế, có thể nói Hoàng hạc khí công là một pháp môn tu tập trong 84 ngàn pháp môn do đức Phật đề ra. Nếu bạn không đồng ý sẽ còn 39.999 pháp một còn lại cho bạn mặc sức mà trì tụng.
Nói cho cùng có gì là trụ, có gì là vô trụ!
Có gì là ngã, có gì là vô ngã!
Có chăng là khi bạn xuôi tay, tim ngừng đập, phổi ngừng thở….lúc đó bạn mới thực sự là Vô Trụ và Vô Ngã.
Thân chúc bạn vẫn là bạn sau khi đọc bài viết về Thể dục Khí công Hoàng hạc nầy.
Mai Thanh Truyết
Một ngày sau ngay lễ Lá 2011
Thursday, December 12, 2024
Nhân nagy2 Nhân quyền 10/12/2024, thân chuyển bài viết dưới đây:
Trật Tự Thế Giới Sẽ Đi Về Đâu?
Suốt hơn một thế kỷ qua, thế giới đã thay đổi bắt đầu từ một trật tự lưỡng cực giữa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (United States of America, USA) và Xã Hội Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết (Union of Soviet Socialist Republics, USSR).
Tuy nhiên từ ngày Liên Bang Sô Viết tan rã vào năm 1991 để trở thành Liên Sô (Russia, The Russian Federation), thế giới đã bước qua một trật tự mới. Một thế giới đa cực gồm có Hoa Kỳ, Trung Cộng, và Thế Giới Thứ Ba tập trung bao gồm các quốc gia đang phát triển. Một cột mốc vào năm 1972, Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương bắt đầu mở cửa cho TC được tiếp cận và hội nhập vào cộng đồng thế giới, và hơn nữa đã dễ dãi chấp nhận cho TC gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization, WTO) năm 2001. Thế giới đã dần trở về một trật tự “lưỡng cực” mới do sự “hấp thụ” khối các quốc gia thứ ba của TC nhằm xâm thực toàn cầu qua chính sách Một Vành Đai Một Con Đường (One Belt One Road, OBOR).
Cho dù dưới bất cứ một trật tự nào cho đến nay, thế giới vẫn còn những bất trật tự do từ những xáo trộn, xung đột xảy ra giữa các quốc gia, xuyên qua các cuộc chiến đối đầu với nhau vì: kinh tế, sắc tộc, hoặc giữa các khối quốc gia dưới danh nghĩa tôn giáo cực đoan v.v…
Mặc khác, các chính sách đề ra do Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức quốc tế nhằm tao dựng một thế giới hòa bình trong sự phát triến chung trong môi trường hài hòa, đều không đưa đến một giải pháp tốt đẹp, nhưng trái lại, càng làm cho trật tự thế giới ngày càng phức tạp thêm hơn.
Vì vậy,
Cần phải động não hầu truy tìm một trật tự mới cho thế giới hiện tại ngõ hầu nảy ra một sinh lộ mới cho thế giới sự ổn định và an bình hơn trong những ngày sắp tới…
Có thể kết luận:
Hai chính sách và các định chế của Liên HIệp Quốc cho thế giới nhằm tái lập cuộc sống chung trật tự cho thế giới trong 30 năm qua đã có thể cho là đã thất bại. Đó là:
• Hướng giải quyết hiện tượng hâm nóng toàn cầu (the global warming) và gần đây được thay tên là sự thay đổi khí hậu (the climate change) đã bị thất bại hoàn toàn.
Kể từ khi 172 nguyên thủ quốc gia trên thế giới ký kết tại Thượng đỉnh Rio de Janerio, Brasil năm 1992. Mọi người đã cùng nhau ký kết một minh ước cam kết sẽ phát triển kinh tế trong điều kiện bảo vệ môi trường và các tài nguyên không tái tạo trên trái đất tại thành phố Rio de Janeiro, quốc gia Brazil. Hội nghị này đã được diễn ra trong những ngày từ mùng 3 đến ngày 14 năm 1992.
Tuy nhiên đến nay, sự biến đổi khí hậu trên địa cầu đang diễn ra ở khắp nơi và được ghi nhận không mang lại hiệu quả tốt mà đang tạo ra thêm các phản ứng ngược, làm ảnh hưởng đến các hiện tượng thay đổi trên trái đất khá bận tâm như:
• Nhiệt độ trung bình trên trái đất gia tăng (khoảng 1°C cho mỗi 10 năm, hay khoảng 2°F kể từ năm 1980 theo GISS),
• Băng đá tan chảy nhanh hơn,
• Bão tố mạnh mẽ hơn, và xảy ra thường xuyên hơn,
• Cháy dữ dội hơn,
• Hạn hán nhiều hơn và khắc nghiệt hơn,
• Các động vật thuộc loại hiếm sẽ bị tuyệt chủng, và biến đi mất nhiều hơn.
Một khi các hiệu ứng tích lũy trở thành bất kiểm soát, việc chỉnh sửa trái đất sẽ không còn ý nghĩa gì khác!
Một khi các hiện tượng dự phần vào việc thay đổi khí hậu tăng trưởng theo theo thời gian, điều đó có nghĩa là những biện pháp đề ra của Liên hiệp quốc đã thất bại.
Nhưng nếu để mọi người nhận ra khả năng những điều trên xảy ra trong một khoảng thời gian sắp tới, hoặc hơn nữa, những điều tệ hại hơn nữa sẽ xảy ra trong 20 hoặc 30 năm tới cho trái đất, có lẽ lúc đó đã muộn rồi.
Vì vậy, ngày hôm nay, và bắt đầu ngay từ bây giờ, kinh nghiệm qua trường hợp đại dịch Coronavirus, cần phải:
a- Tiên liệu cuộc khủng hoảng khí hậu;
b- Hành động nhanh chóng và quyết liệt để giảm thiểu thiệt hại hơn nữa trước khi “các đại nạn” trong tương lai sẽ áp đảo chúng ta.
• Hiện tượng toàn cầu hóa xuất hiện từ sự phát triển của các quốc gia thứ ba và nhứt là Trung Cộng đã làm cho thế giới trở nên phức tạp hơn qua những tranh chấp về kinh tế. Vào đầu tháng 2,2004, Ông Kofi Annan, Tổng Thư Ký LHQ đã chủ tọa một buổi tường trình của Hội đồng Hàn Lâm Viện Liên Quốc (HLVLQ) sau gần 4 năm thành lập.
Chủ đề của báo cáo là:” Chiến lược toàn cầu xây dựng kỹ năng khoa học và công nghệ”. Trong đó, báo cáo kêu gọi cần phải có một sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các khả năng khoa học liên quốc và chia xẻ các thành quả thu lượm được đến tất cả cộng đồng khoa học trên thế giới. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang phát triển, ngân sách dự trù cho việc nghiên cứu khoa học và công nghệ ít nhất phải từ 1,0 đến 1,5% tổng sản lượng quốc gia để hy vọng các nước này có thể theo kịp sức cạnh tranh và phát triển giữa các quốc gia toàn cầu. Với mục tiêu trên, Hội đồng khoa học hy vọng sẽ thu ngắn được khoảng cách Giàu và nghèo giữa các quốc gia. Đây cũng chính là một vòng lẫn quẩn đối với các quốc gia đang phát triển. Lý do khách quan chính là các quốc gia nầy không có đủ ngân sách để nghiên cứu và đào tạo, cho nên khoảng cách ngày càng xa hơn so với các quốc gia đã phát triển.
Kết luận của báo cáo nhấn mạnh:” Các quốc gia đang phát triển phải tận dụng mọi cố gắng của toàn dân cùng với sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Đối với sự thay đổi về tiến bộ nhanh chóng trong hiện tại, sẽ không còn đủ thời gian cho các nước nầy phí phạm thêm nữa nếu muốn hội nhập và thu hẹp khoảng cách giàu-nghèo.”
Rõ ràng, đây là khái niệm rất cao thượng của LHQ. Nhưng đứng về mặt thực tế,
các quốc gia trên thế giới đã tiếp nhận và thẩm thấu khái niệm trên trong 20 năm
qua như thế nào? Câu trả lời cho thấy có rất nhiều chỉ dấu đậm nét nói lên tính cách tiêu cực hết sức tách bạch của vấn đề là:
a- Trong hiện tại, khoảng cách “giàu-nghèo” giữa các quốc gia Bắc Bán cầu và Nam Bán cầu (giàu - nghèo) dường như đang dài thêm ra. Các nước kỹ nghệ hóa tiếp tục làm chủ thế giới, nắm bắt hầu hết tất cả phát minh, sáng kiến ngay cả những sáng kiến đến từ các quốc gia đã/đang phát triển;
b- Về nhân sự, vẫn còn tình trạng xuất cảng chất xám của các quốc gia nghèo đến những quốc gia đã phát triển;
c- Về tài nguyên và nhân công, các quốc gia nghèo vẫn còn là nơi sản xuất rẻ tiền để phục vụ cho những nước giàu;
d- Chính sách “bế quan tỏa cảng” trong lãnh vực khoa học vẫn được một số quốc gia giàu áp dụng thay vì chia xẻ kiến thức với cộng đồng thế giới;
e- Hiện tại, về phương diện khảo cứu khoa học, Hoa Kỳ vẫn hành xử giống như thời chiến tranh lạnh Mỹ - Nga trước kia. Văn phòng Kiểm soát Tài sản Ngoại quốc vẫn cấm cản việc in ấn các báo cáo khoa học của các quốc gia như Iran, Sudan, và Cuba vào các tạp chí khoa học Hoa Kỳ;
f- Và quan trọng hơn cả là các quốc gia giàu vẫn tiếp tục vi phạm quy định về xuất cảng phế thải độc hại trong đó có phế thải hạt nhân qua các quốc gia nghèo, trái với những điều mà họ đã ký kết trong Thượng Đỉnh toàn cầu hóa tại Rio de Janeiro năm 1992 ở Brasil.
• Luật Bảo vệ Nhân quyền của LHQ
Xin trích hai lời mở đầu của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 nêu bật lên một yếu tố rất cao thượng là nêu lên nhân phẩm của tất cả mọi người trên thế gian nầy như:
a- “Xét rằng việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới.
b- Xét rằng các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc để phát huy sự tôn trọng và thực thi trên toàn cầu những nhân quyền và những quyền tự do căn bản.”
Từ đó, LHQ qua Bản Tuyên ngôn khuyến cáo các quốc gia…”bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên hay thuộc các lãnh thổ bị giám hộ”. Xin trích:
“Điều 1: Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bác ái.
Điều 2: Ai cũng được hưởng những quyền tự do ghi trong bản Tuyên Ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào, như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ tình trạng cá nhân nào khác.”
Nhưng vì LHQ không có biện pháp chế tài cho nên dù đã ra đời trên 70 năm qua, vẫn còn rất nhiều quốc gia tiếp tục vi phạm quyền con người nêu trên, và người dân trong các quốc gia đó vẫn còn chịu sự áp bức đôi khi còn khắc nghiệt hơn so với thời phong kiến và quân chủ nữa, nhứt là các quốc gia nằm trong chế độ độc tài toàn trị.
• Tuyên ngôn về Quyền của các Dân tộc Bản địa năm 2007
Lời nói đầu tiên trong bản tuyên ngôn dưới đây nói lên quyền của người bản địa (thiểu số) được ghi rõ là:
a- “Khẳng quyết rằng các dân tộc bản địa bình đẳng với tất cả các dân tộc khác, đồng thời công nhận quyền của tất cả các dân tộc được khác biệt, được xem dân tộc mình là khác biệt, và được tôn trọng với sự khác biệt đó.
b- Khẳng quyết rằng tất cả các dân tộc đóng góp vào sự đa dạng và giàu có của những nền văn minh và văn hóa, tạo nên di sản chung của loài người.
c- Khẳng quyết hơn nữa rằng mọi định chế, chính sách và các hoạt động dựa trên hay cổ vũ cho sự phân biệt giữa các dân tộc hoặc cá nhân trên cơ sở những khác biệt về nguồn gốc quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, sắc tộc hay văn hóa là phân biệt chủng tộc, sai lầm về khoa học, không được chấp nhận về pháp lý, sai trái về đạo đức và bất công về xã hội.
d- Khẳng quyết lại rằng các dân tộc bản địa, khi thực hành các quyền của họ, phải được tự do vượt trên sự phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào.”
Để rồi đi đến kết luận:” Ghi nhớ rằng không một điều nào trong Tuyên ngôn này được xử dụng để từ chối quyền tự quyết của bất cứ dân tộc nào, tuân thủ theo công pháp quốc tế”.
Nhưng sau hơn 13 năm thực thi, các dân tộc bản địa vẫn bị liên tục tước đi các phương thức tồn tại đề ra của LHQ và bị phủ nhận quyền được đền bù một cách công bằng và xứng đáng của họ một khi bị di dời hay bị chiếm đất!
Tất cả lề luật trên của LHQ đều không được các quốc gia tuân thủ cho đến hôm nay vì một nguyên do duy nhứt là LHQ không có biện pháp chế tài thích đáng đối với những quốc gia vi phạm các quyền trên…
• Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ
Ngày 4/7/1776, bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ được quốc hội công bố. Đây là văn bản chính trị tuyên bố 13 thuộc địa Bắc Mỹ chính thức ly khai khỏi Anh Quốc, hình thành quốc gia độc lập.
Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ do TT Thomas Jefferson soạn thảo, ghi dấu ảnh hưởng của triết học Khai sáng và cả kết quả của Cách mạng Anh năm 1688. Nội dung chính của bản tuyên ngôn được dựa trên tư tưởng của một triết gia người Anh ở thế kỷ 16, John Locke.
Bản tuyên ngôn bắt đầu bằng:” Trong tiến trình phát triển của nhân loại, khi một dân tộc nào đó cần thiết phải xóa bỏ những mối liên kết chính trị giữa họ với một dân tộc khác và khẳng định trước các lực lượng trên toàn trái đất vị thế độc lập và bình đẳng mà các quy luật của tự nhiên và thượng đế đã ban cho họ, thì sự tôn trọng đầy đủ đối với các quan điểm của nhân loại đòi hỏi họ phải tuyên bố những nguyên do dẫn họ đến sự ly khai đó.
Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong dân chúng và có được quyền lực chính đáng trên cơ sở sự đồng ý của dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì người dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an toàn và hạnh phúc của họ”.
Để rồi chấm dứt Bản tuyên ngôn bằng… “Vững tin vào sự bảo hộ thiêng liêng của thượng đế, chúng ta nguyện cùng hiến dâng tính mạng, tài sản và danh dự thiêng liêng của mình để bảo đảm cho bản tuyên ngôn này”.
Thật rõ ràng và dứt khoát. Vì vậy, Hoa Kỳ với ba quyền phân lập hành pháp - lập pháp - tư pháp và đã đứng vững từ sau ngày 4 tháng 7 năm 1776 cho đến nay với nguyên tắc hành động “check and balance”.
***
Trở về hiện tại, qua suốt hơn một thế kỷ và nhứt là sau 20 năm điều chỉnh những kế hoạch để tái lập một trật tự điều chỉnh cho toàn đầu của LHQ bất thành, vì vậy cần phải động não để truy tìm một trật tự mới nhằm giải quyết những khuyết điểm thế giới đã vấp phải trong thế kỷ qua.
Tóm lại có ba vấn đề cốt lõi cần được giải quyết nhằm tái lập một trật tự mới cho thế giới sống chung trong sự hài hòa là kinh tế, tôn giáo và văn hóa:
• Thực tế cho thấy Kinh tế thị trường của Tư bàn chủ nghĩa và kinh tế chỉ huy XHCN đã thất bại trầm trọng, chỉ làm cho thế giới xáo trộn thêm ra và làm tăng khoảng cách giàu-nghèo giữa Bắc bán cầu và Nam bán cầu. Nền kinh tế thị trường không còn là một mô hình phát triển hoàn hảo như dự kiến trong buổi bình minh của chính sách kinh tế và di hại là tạo ra nạn di dân kinh tế, xã hội bất bình đẳng, dân chúng phản kháng khắp nơi làm đảo lộn nền dân chủ tự do. Còn nền kinh tế chỉ huy bùng nổ ở Trung Cộng đang uy hiếp toàn thế giới qua các kế hoạch Một Vành đai - Một Con đường.
• Hiện nay, vấn đề dị biệt tôn giáo đã dấy lên các cuộc nổi loạn của các nhóm tôn giáo cực đoan đang dần tiến đến điểm tới hạn (threshold limit) ở một số quốc gia Âu Châu, Á Rập và Á Châu có thể đưa đến khủng hoảng kinh tế vùng. Trong tình thế bất ổn nầy mọi chính sách đối đầu và tiêu diệt có thể giải quyết được tình trạng trên trong ngắn hạn; nhưng trong dài hạn cuộc chiến tranh tôn giáo sẽ kéo dài vô tận. Kinh nghiệm giữa xung đột Muslim - Thiên Chúa giáo Tây phương hoàn toàn đi đến bế tắc! Cũng như Trung Cộng dùng Khổng giáo để chinh phục thế giới đã bị tẩy chay và bị cô lập.
• Về sự khác biệt văn hóa, đây có thể xem như là một vấn nạn chung giữa các chủng tộc. Chính sự khác biệt nầy đã từng tạo ra những cuộc chiến tranh đẩm máu, không khác gì chiến tranh tôn giáo. Nếu mỗi công dân của thế giới nắm bắt được trách nhiệm trong xã hội, biết khoan dung, và có một nền tảng vững chắc cho đức tính hiếu hoà, biết tiết chế lòng ham muốn, áp dụng tinh thần bất bạo động trong mọi tình huống và biết tôn trọng tha nhân. Tất cả những điều trên là nhắm tới một lý tưởng hoà bình, và bảo vệ môi sinh trong môt thế giới an lành.
Qua các phân tích trên, có thể kết luận như sau:
• Giải pháp Kinh tế: Giải pháp cho các chính sách kinh tế quốc gia tùy thuộc vào việc cải cách các định chế chính trị của từng nước và tạo ra một cung cách uyển chuyển thích hợp cho từng quốc gia và từng chủng tộc. Tôn trọng mỗi định hướng phát triển quốc gia nhằm ứng hợp với việc bảo vệ môi trường chung thế giới trong điều kiện cá biệt của từng nước một chính là giải pháp tối ưu cho toàn cầu, tránh được việc gây ảnh hưởng hay xâm nhập vào nội bộ của nước khác. Điều nầy là một điều kiện tiên quyết trong việc tôn trọng hỗ tương với nhau dù có là nước lớn hay nước nhỏ. Sống chung bình đẳng và an bình là một trật tự cần thiết cho toàn cầu.
• Giải pháp Chính trị: Sau khi TC đàn áp bạo lực các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ trên Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989, TT Bush (cha) vừa mới nhậm chức (20/1/1989) đã ban hành ngay một số biện pháp chống lại sự vi phạm nhân quyền của TC. Mỹ đình chỉ trao đổi chính thức cấp quốc gia với CHND Trung Hoa, và áp đặt một số biện pháp trừng phạt kinh tế. Tuy nhiên, Bush đã phản ứng một cách ôn hòa khi cố gắng tránh một sự đổ vỡ lớn vì có ý định dùng TC làm nhân tố chủ chốt để chống lại Liên Sô. Do đó, một số trừng phạt kinh tế đã được hủy bỏ nhưng TC vẫn nằm trong chính sách cấm vận của Hoa kỳ. Sau đó Liên Sô sụp đổ năm 1991.
Nhưng khi sang đến thời TT Clinton, mọi sự đổi khác, và đã chấm dứt lịnh cấm vận vào tháng 1, 2001. Chỉ vài tháng sau đó chấp nhận cho TC gia nhập vào WTO với suy nghĩ là:”một khi TC tiếp cận kinh tế thị trường sẽ lần lần chuyển hóa và xóa bỏ kinh tế chỉ huy”. Đây chính là một sai lầm lớn của Hoa Kỳ và Tây phương, để rồi vô hình chung khi vừa thay thế một thế giới lưỡng cực với Liên Sô năm 1992, trở thành một thế giới lưỡng cực mới với TC, và người anh em thù hận (enemy brother) Nga!
Và chính sai lầm chính trị nầy làm cho thế giới đang đứng trước cơn xáo trộn trật tự toàn cầu tệ hại hơn, và đại dịch covid Wuhan hiện nay đã làm tăng sự xáo trộn lên đến cực điểm. Trách nhiệm của TT Clinton cùng với sự tiếp tay của TT Obama làm cho tình thế ngày càng trầm trọng thêm và có thể nói, TC đã áp đặt ảnh hưởng chính trị lên hầu hết các quốc gia đang phát triển qua sức mạnh kinh tế của họ là do chính sách ngoại giao-chính trị sai lầm của cả hai đời Tổng thống Hoa Kỳ, tức 16 năm dài, biến TC thành cường quốc kinh tế thứ hai sau Mỹ mà thôi.
Vì vậy, việc đánh gục kinh tế của TC, xé tan “lục địa Trung Hoa” để trở về các quốc gia ban đầu như Mông – Hồi – Mãn – Tạng – Hán sẽ là một việc tối cần thiết cho Hoa Kỳ và Tây phương vực dậy trật tự mới cho thế giới. Không còn giải pháp nào khác cả!
• Giải pháp Tôn giáo – Văn hóa: Muốn ổn định thế giới, vấn đề tôn giáo và văn hóa cần phải được cảm thông một cách thoáng đạt hơn:
a- Tôn trọng đức tin của từng chủng tộc nhằm tránh xung đột do tính cực đoan của tôn giáo; từ đó, thế giới mới thực sự ổn định. Trên thực tế, mỗi quốc gia cần nên tự chế, không đem sự dị biệt về tôn giáo, không mang tính cực đoan trong tôn giáo vào trong các tranh chấp quốc gia như kinh tế-chính trị-quân sự để cuối cùng giải quyết với nhau bằng sức mạnh. Nên nhớ, trong chiều dài lịch sử, một cuộc chiến tranh tôn giáo có thể kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm mà vẫn tiếp tục âm ỉ khó có thể hàn gắn được! Chủ nghĩa dân tộc cực đoan có thể nảy sinh từ quan niệm chỉ có tôn giáo “mình” là “hoàn mỹ” còn tất cả mọi tôn giáo khác đều là…ngoại đaọ! Chính suy nghĩ sau cùng nầy làm cho thế giới luôn xáo trộn hàng thế kỷ qua!
b- Nói đến văn hóa, cần phải có một chính sách giáo dục nhằm hướng dẫn mọi công dân trong một quốc gia có tinh thần yêu quê hương, bảo vệ môi trường, và nhứt là biết yêu thương với nhau dù có những dị biệt về chủng tộc, tôn giáo, hay quan điểm chính trị. Vì chính chính sách văn hóa nầy làm cho con người toàn cầu không còn cực đoan nữa và trở về với bản lai diện mục của chính mình, vì vậy sẽ trờ nên nhân bản hơn trong mọi giao tiếp hỗ tương trong đại gia đình chủng tộc trên thế giới. Nhờ vậy, mọi tranh chấp sẽ dưa trên căn bản đối thoại và đưa đến “win-win situation” cho cả đôi bên hay cho nhiều phía với nhau. Bình đẳng trong đối thoại, tôn trọng trong tranh chấp trong văn hóa chính là kim chỉ nam cho một trật tự thế giới mới ngõ hầu xóa được hình ảnh phân cực giữa các quốc gia chỉ biết đối đầu nhưng không đối thoại trong hiện tại, và kết quả chỉ đưa đến sự hủy diệt lẫn nhau mà thôi.
Có được như vậy, hy vọng trong tương lai không xa, thế giới sẽ có một trật tự mới trong đó tất cả người dân khắp nơi đều sống trong …AN LẠC, BÌNH ĐẲNG, và HẠNH PHÚC.
Đây không hẳn là một ước mơ của người viết, mà là những suy nghĩ và trăn trở được ghi ra sau những năm tháng miệt mài qua những biến chuyển lịch sử ở các quốc gia trên thế giới trong một thời gian dài…
Mong rằng những lời trên đây sẽ là một phác thảo cho Bản Tuyên ngôn Thế giới Mới hay một “Manifesto”, hoặc một “Tuyên ngôn cho Toàn cầu”. Mong được ghi nhận sự góp ý tích cực nhằm xây dựng một trật tự mới cho tương lai của toàn cầu.
Phổ Lập Mai Thanh Truyết
Subscribe to:
Posts (Atom)